Tên Tôi Là Đỏ

Chương 53



TÔI LÀ ESTHER

Phần 1

Tôi đang nấu món xúp đậu lăng cho bữa tối thì Nesim nói “Có khách đến.” Tôi vừa đáp “coi chung đừng để nồi xúp khét,” vừa trao cho ông ấy cái thìa, rồi cầm bàn tay già nua của ông ấy mà đảo vài cái trong nồi. Nếu ta không làm cho họ thấy, họ sẽ đứng đó suốt mấy giờ đồng hồ, cứ thọc thọc cái thìa vào nồi một cách vô tích sự.

Khi thấy Siyah trước cửa, tôi chẳng cảm thấy gì ngoài thương hại cho anh ta. Có một vẻ gì đó trên khuôn mặt anh ta khiến tôi sợ không dám hỏi chuyện gì đã xảy ra.

“Đừng vô nhà.” tôi nói, “để tôi thay đồ rồi mình đi ngay.” Tôi mặc bộ đồ màu hồng và vàng mà tôi vẫn mặc khi được mời dự các lễ hội trong Tháng Ramadan, những bữa đại tiệc thừa mứa, những lễ cưới lê thê, và cầm chiếc túi ngày lễ lên. “Chừng nào về em sẽ ăn sau,” tôi nói với Nesim tội nghiệp.

Siyah và tôi băng qua một con phố trong khu Do Thái nhỏ bé của tôi với những ống khói đang nhả khói, giống những ấm đun nước phun ra hơi nóng, và tôi nói:

“Chồng cũ của Shekure trở về rồi.” Siyah im lặng và cứ như thế cho đến khi chúng tôi rời khỏi khu Do Thái. Mặt anh ta tái nhợt, màu của ngày đang tàn.

“Họ đang ở đâu?” Một lúc sau anh ta hỏi.

Qua câu hỏi này tôi đoán rằng Shekure và bọn trẻ không có ở nhà. “Họ ở nhà của họ,” tôi nói. Bởi vì ý tôi muốn nói nhà trước đây của Shekure, và biết ngay điều này sẽ đốt tan nát trái tim của Siyah, nên tôi mở cánh cửa hy vọng cho anh ta bằng cách kèm thêm cụm từ “có lẽ vậy” vào cuối câu nói.

“Chị có thấy người chồng vừa trở về của cô ấy không?” anh ta hỏi, nhìn sâu vào mắt tôi.

“Tôi không thấy ông ta mà cũng không thấy Shekure trốn ra khỏi nhà.”

“Vậy làm sao chị biết họ đã rời khỏi nhà?”

“Qua nét mặt anh.”

“Nói cho tôi nghe mọi chuyện đi,” anh ta nói một cách dứt khoát.

Siyah quá rối trí đến độ anh ta không hiểu rằng Esther – mà con mắt chị ta luôn luôn tại cửa sổ, tai chị ta luôn luôn áp sát đất, không bao giờ có thể “nói mọi thứ” nếu chị ta muốn tiếp tục là Esther, kẻ tìm chồng cho rất nhiều thiếu nữ mơ mộng và gõ cửa rất nhiều ngôi nhà bất hạnh.

“Tôi nghe nói rằng Hasan, em chồng cũ của Shekure đã đến nhà anh,” – anh ta phấn khởi lên khi tôi nói â��nhà anh’ – “rồi nói với Shevket rằng cha nó đang trên đường về nhà, rằng ông ta sẽ về tới vào khoảng giữa trưa, và nếu ông ta không thấy mẹ với em trai của Shevket trong ngôi nhà chính danh của họ, ông ta sẽ giận lắm. Shevket kể lại với mẹ nó, cô ta hành động rất cẩn trọng, nhưng không thể quyết định được gì. Tới giữa trưa Shevket đã bỏ nhà để về ở với chú Hasan và ông nội nó.”

“Chị lấy đâu ra những chuyện này vậy?”

“Bộ Shekure không nói với anh là suốt hai năm qua Hasan lên kế hoạch nhằm lôi cô ấy trở về nhà anh ta sao? Có thời kỳ Hasan nhờ tôi chuyển thư cho Shekure luôn.”

“Cô ấy có bao giờ trả lời không?”

“Tôi biết nhiều loại phụ nữ khác nhau ở Istanbul”, tôi nói đầy tự hào “không có người phụ nữ nào gắn bó với gia đình, chồng và danh dự của mình như Shekure đâu.”

“Nhưng hiện giờ tôi là chồng cô ấy.”

Giọng của anh ta vẫn mang vẻ thiếu chắc chắn vốn luôn khiến tôi thấy nản lòng. Thật kỳ lạ, dù Shekure chạy về phía bên nào, thì bên kia cũng cảm thấy suy sụp.

“Hasan có viết một lá thư ngắn đưa cho tôi bảo trao cho Shekure. Trong thư nói chuyện Shevket đã quay về nhà và chờ cha nó trở về thế nào. Shekure đã bị gả đi trong một lễ cưới bất hợp pháp ra sao, Shevket đã đau khổ thế nào vì người chồng giả kia, kẻ được coi là cha mới của nó và nó không bao giờ trở về nhà nữa”.

“Shekure phản ứng ra sao?”

“Cô ấy với Orhan tội nghiệp đã chờ anh suốt đêm.”

“Còn Hayriye thì sao?”

“Hayriye trong nhiều năm đã chờ đợi cơ hội để nhấn chìm cô vợ xinh đẹp của anh trong một muỗng nước. Điều đó lý giải vì sao cô ta ngủ với Enishte, cầu cho ông ta được yên nghỉ. Khi Hasan nhận thấy Shekure đã trải qua một đêm cô đơn trong nỗi sợ hãi cả kẻ giết người lẫn ma quỷ, anh ta bèn nhờ tôi chuyển một lá thư nữa.”

“Anh ta viết gì trong đó?”

Tạ ơn Thượng đế là Esther bất hạnh của các vị không biết đọc biết viết, vì khi những quý ông giận dữ và những ông bố cáu kỉnh hỏi câu hỏi này, cô ta có thể nói: “tôi đâu biết đọc, chỉ gương mặt của những thiếu nữ xinh đẹp đọc lá thư đó thôi.”

“Vậy chị đọc thấy gì trên khuôn mặt Shekure?”

“Cảnh trơ trọi.”

Chúng tôi im lặng hồi lâu. Một con cú đậu trên mái vòm của nhà thờ Hy Lạp nhỏ chờ đêm xuống; bọn trẻ hàng xóm mũi dãi thò lò cười nhạo quần áo và túi đựng đồ của tôi, và một con chó ghẻ đang từ nghĩa trang đầy cây tuyết tùng vừa sung sướng gãi lông vừa chạy xuống chào đón đêm về.

“Chậm lại coi?” Tôi kêu lên với Siyah, “tôi đâu leo dốc như anh được. Anh lôi tôi với túi đồ này đi đâu vậy?”

“Trước khi chị đưa tôi đến nhà Hasan, tôi muốn đưa chị đến gặp mấy chàng trai can đảm và hào phóng để chị có thể bày túi đồ ra bán cho họ mấy cái khăn tay hoa hòe hoa sói, khăn lụa trùm đầu và mấy cái ví thêu chỉ bạc để họ tặng người tình bí mật của họ.”

Đây là một dấu hiệu tốt khi Siyah vẫn có thể nói đùa trong tâm trạng rầu rĩ, nhưng tôi có thể hiểu sự nghiêm trọng đằng sau sự đùa cợt của anh ta. “Nếu anh định tập họp một đội binh, tôi sẽ không bao giờ dẫn anh đến nhà Hasan đâu”, tôi nói. “Tôi sợ những vụ đánh nhau với cãi lộn muốn chết.”

“Nếu chị vẫn là một Esther thông minh như xưa nay,” anh ta nói, “thì sẽ chẳng có đánh nhau hay cãi lộn gì cả.”

Chúng tôi băng qua Aksaray và bước vào con đường trở ngược lại, thẳng về phía những khu vườn Langa. Đến đoạn trên của con đường lầy lội, trong một khu vực nghèo khổ, Siyah đi vào một tiệm hớt tóc vẫn còn mở cửa. Tôi thấy anh ta nói chuyện với ông thợ cạo đang ngồi để một cậu trai trông lương thiện với đôi tay xinh đẹp cạo râu cho ông dưới ánh đèn dầu. Ngay sau đó, bác thợ cạo, cậu học việc đẹp trai của ông ta, và sau đó hai người nữa của ông ta nhập bọn với chúng tôi ở Aksaray. Họ mang theo gươm và rìu. Trong một con phố nhỏ ở Shehzadebashi, một sinh viên thần học, người mà tôi không thể hình dung là sẽ dính dáng vào chuyện thô bạo như thế, cầm gươm nhập bọn chúng tôi trong bóng tối. “Bộ anh tính chuyện đột kích một ngôi nhà giữa thành phố trong lúc ban ngày ban mặt sao?”

“Không phải giữa ban ngày ban mặt, mà là ban đêm,” Siyah nói với giọng hài lòng nhiều hơn bỡn cợt.

“Đừng quá tự tin chỉ vì các anh đã tập hợp được một nhóm,” tôi nói. “Hy vọng bọn tuần canh không bắt gặp cái dúm người lăm lăm vũ khí này lang thang ở đây.”

“Chẳng ai thấy bọn mình được.”

“Hôm qua bọn Erzurum đột kích một quán rượu trước, rồi sau đó là một nhà nguyện khổ tu ở Sagirkapi, đánh đập tàn nhẫn bất cứ ai họ bắt gặp ở cả hai chỗ đó. Một ông già bị một gậy vào đầu đã chết. Trong đêm tối như mực này, họ có thể tưởng các anh thuộc bọn đó.”

“Tôi nghe nói chị đã đến nhà Zarif Kính mến quá cố, gặp vợ anh ta, cầu Thượng đế phù hộ chị ấy, và thấy những bức phác thảo ngựa đầy mực nhòe nhoẹt trước khi chuyển chúng cho Shekure. Liệu Zarif Kính mến có thường tụ họp với đám môn đồ của tay thuyết giáo xứ Erzurum không?”

“Nếu tôi có dò la bà vợ Zarif Kính mến, thì cũng bởi tôi nghĩ rốt cuộc việc đó có thể giúp ích cho Shekure tội nghiệp.” tôi nói. Dù sao thì tôi đến đó là để cho cô ta xem thứ vải mới nhất đến từ Tây vực chứ không định dính vào việc chính trị và pháp lý của anh, những chuyện mà đầu óc khốn khổ của tôi không hiểu nổi.”

Khi chúng tôi ra đến đường lớn chạy đằng sau Charshikapi, tim tôi đập liên hồi vì sợ. Những nhánh cây dâu tằm và óc chó ướt đẫm khẳng khiu lấp lánh trong ánh sáng nhợt nhạt của vầng trăng non. Một cơn gió nhẹ do các âm hồn và người chết đang sống thổi tới làm lớp viền ren chiếc túi đeo vai của tôi phe phẩy, rít qua những hàng cây và mang mùi của chúng tôi đến cho lũ chó gần đó đang nằm chờ. Khi chúng bắt đầu sủa từng con một, tôi chỉ cho Siyah ngôi nhà đó. Chúng tôi lặng lẽ nhìn mái nhà và những cửa sổ tối đen. Siyah cắt đặt người bao quanh ngôi nhà: trong khu vườn trống trải, hai bên cổng vào sân và ở cây vả sau nhà.

“Ngay lối vào bên đó có một tên ăn mày Tatar đốn mạt,” tôi nói. “Hắn mù, nhưng hắn biết được ai đến và đi dọc theo con đường này còn rõ hơn ông trưởng khu này. Hắn liên tục thủ dâm cứ như hắn là một trong những con khỉ thô bỉ của Đức vua. Đừng đụng đến hắn, cứ cho chín mười đồng bạc gì đó là hắn sẽ nói cho anh nghe mọi chuyện hắn biết.”

Từ xa, tôi theo dõi Siyah trao những đồng xu, sau đó kề gươm sát cổ họng tên ăn mày và bắt đầu dồn hắn bằng những câu hỏi. Kế tiếp, tôi không biết chuyện xảy ra như thế nào, cậu học việc của bác thợ cạo, người mà tôi cứ nghĩ chỉ canh chừng ngôi nhà thôi, bắt đầu đánh gã Tatar bằng cán rìu. Tôi theo dõi một lát, cứ đinh ninh việc đó không kéo dài, nhưng gã Tatar đang kêu khóc. Tôi chạy đến kéo gã ăn mày đi trước khi họ giết gã.

“Hắn chửi mẹ tôi,” cậu học việc nói.

“Hắn nói Hasan không có ở nhà,” Siyah nói. “Mình tin lời tên ăn mày này được không?” Anh ta trao tôi lá thư mà anh ta đã viết vội, “Cầm cái này, vào nhà, đưa cho Hasan, nếu anh ta không có nhà thì đưa cho cha anh ta,” anh ta nói.

“Anh không viết gì cho Shekure sao?” tôi hỏi khi cầm lấy lá thư.

“Tôi mà gửi thư riêng cho cô ấy thì chỉ tổ kích động bọn đàn ông trong nhà hơn thôi,” Siyah nói. “Nói với cô ấy là tôi đã tìm ra tên đốn mạt giết cha cô ấy rồi.”

“Thật sao?”

“Chỉ cần nói cho cô ấy biết vậy.”

Sau khi mắng nhiếc gã Tatar vẫn đang khóc lóc kêu than, tôi bèn dỗ dành hắn. “Đừng quên những gì ta đã làm cho mi,” tôi nói, nhận ra rằng tôi đã kéo dài sự vụ này vì vậy tôi sẽ không được bỏ đi.

Tại sao tôi lại dính mũi vào chuyện này? Cách nay hai năm ở khu Cổng Edirne người ta đã giết một người bán rong quần áo – sau khi cắt đôi tai bà ta – bởi vì cô gái mà bà ta hứa cho người này lại đi lấy người khác. Bà tôi thường nói với tôi rằng dân Thổ quen giết người chẳng vì lý do gì cả. Tôi thèm được ở nhà với Nesim yêu dấu của tôi, ăn món xúp đậu lăng. Dù hai chân tôi cưỡng lại, nhưng tôi nghĩ đến chuyện Shekure ở đó sẽ ra sao, và tôi bước về phía ngôi nhà. Tính tò mò đang gặm nhấm tôi.

“Quần áo đâyyy? Có lụa Trung Hoa để may áo lễ hội mới về đây”.

Tôi có cảm giác luồng ánh sáng màu cam lọt qua rèm cửa di chuyển. Cửa trước mở ra. Người cha lịch sự của Hasan mời tôi vào nhà. Ngôi nhà ấm, giống như nhà của bọn giàu có. Shekure đang ngồi bên một chiếc bàn ăn thấp cùng các con, song khi nhìn thấy tôi cô nhổm dậy.

“Shekure, chồng cô đang ở đây.”

“Chồng nào?”

“Chồng mới,” tôi nói. “Anh ta đã bao vây ngôi nhà với một nhóm có võ trang. Họ sẵn sàng đánh nhau với Hasan.”

“Hasan không có nhà,” ông bố chồng lịch sự nói.

“May quá. Đọc cái này đi,” tôi nói, trao cho ông lá thư của Siyah giống như một vị sứ thần kiêu ngạo của Đức vua đang thực hiện ước muốn tàn nhẫn của Ngài.

Trong khi ông bố chồng đọc lá thư, Shekure nói, “Esther, lại đây tôi múc cho chị một tô xúp đậu lăng cho ấm bụng.”

“Tôi không thích xúp đậu lăng,” thoạt tiên tôi nói. Tôi không thích cách cô ấy nói như thể cô ấy là bà chủ ngôi nhà này.

Nhưng khi tôi hiểu rằng cô ấy muốn ở một mình với tôi, tôi cầm lấy thìa và theo sau cô.

“Nói với Siyah tất cả là vì Shevket,” cô thì thào. “Tối qua tôi chờ một mình suốt đêm với Orhan, sợ chết khiếp tên sát nhân. Orhan sợ run đến sáng. Các con tôi đã bị chia cắt! Có loại mẹ nào chịu xa cách con mình? Khi không thấy Siyah về, họ nói rằng bọn tra tấn của Đức vua đã buộc anh ấy khai hết và nói rằng anh ấy có can dự vào cái chết của cha tôi.”

“Không phải Siyah ở bên cô khi cha cô bị giết à?”

“Esther,” cô nói, mở to đôi mắt đen xinh đẹp, “tôi van chị, hãy giúp tôi”.

“Vậy cô phải cho tôi biết tại sao cô lại trở về đây thì tôi mới hiểu rồi giúp cô chứ.”

“Bộ chị nghĩ tôi biết tại sao tôi trở về hả?” cô ấy nói. Cô có vẻ sắp khóc. “Siyah thô bạo với Shevket tội nghiệp của tôi.” cô nói. “Rồi khi Hasan nói cha ruột của bọn trẻ đã về, tôi tin chú ấy.”

Nhưng tôi có thể thấy rõ qua đôi mắt của cô ấy rằng cô ấy đang nói dối, và cô ấy biết tôi đoán ra điều đó. “Tôi bị Hasan lừa”, cô ta thì thào, và tôi có cảm giác cô ấy muốn tôi suy ra từ điều này rằng cô ấy yêu Hasan. Nhưng Shekure có nhận ra rằng cô ấy càng lúc càng nghĩ nhiều đến Hasan chính vì cô đã cưới Siyah không?

Cửa mở, Hayriye bước vào mang theo bánh mì mới nướng mà mùi thơm thật hấp dẫn. Khi cô ta trông thấy tôi, tôi có thể hiểu qua vẻ bực bội của cô ta rằng sau cái chết của Enishte Kính mến, con người khốn khổ này – cô ta không thể bị bán đi, không thể bị gạt bỏ – đã trở thành một di sản tồi tệ cho Shekure. Mùi bánh mì mới tỏa khắp phòng và tôi hiểu sự thật của vấn đề khi Shekure đối mặt với bọn trẻ: Cho dù là cha ruột của bọn trẻ, là Hasan hay Siyah, vấn đề của cô ấy không phải là tìm một người chồng cô ấy có thể yêu được, mà thách thức của cô ấy là tìm một người cha có thể yêu hai đứa bé này, cả hai đứa đều mở to mắt vì sợ hãi.

Shekure, với hảo ý tốt nhất, đã sẵn sàng yêu bất kỳ người chồng tử tế nào.

“Cô đang tìm những gì cô muốn bằng trái tim cô,” tôi nói một cách không suy nghĩ, trong khi cô cần phải đưa ra quyết định bằng lý trí.”

“Tôi sẵn sàng cùng bọn trẻ trở về với Siyah ngay,” cô nói, nhưng tôi có một số điều kiện!” Cô im lặng. “Anh ấy phải cư xử tốt với Shevket và Orhan. Anh ấy không được vặn hỏi về những lý do khiến tôi về đây. Trên hết, anh ấy phải tuân theo những điều kiện cưới hỏi ban đầu của tôi – anh ấy sẽ hiểu tôi muốn nói gì. Anh ấy đã để tôi một mình chống chọi với những tên sát nhân, trộm cướp và Hasan đêm qua.”

“Anh ta chưa tìm ra kẻ giết cha cô, nhưng anh ta bảo tôi nói với cô rằng anh ta đã tìm ra.”

“Tôi có nên đi với anh ấy không?”

Tôi chưa kịp trả lời thì ông bố chồng, nãy giờ đã đọc thư xong, liền nói “Nói với Siyah Kính mến rằng ta không nhận trách nhiệm giao trả con dâu của ta mà không có mặt con trai ta.”

“Con trai nào?” tôi nói ra vẻ gắt gỏng, nhưng dịu dàng.

“Hasan,” ông nói. Vì ông là người cư xử theo nguyên tắc, nên ông đỏ mặt. “Con trai lớn của ta đang trên đường từ Ba Tư về, có nhân chứng rõ ràng.”

“Còn Hasan đâu?” Tôi hỏi. Tôi ăn liền hai thìa món xúp mà Shekure đưa cho tôi.

“Nó đi tập hợp các thư ký, phu khuân vác và những người trong Sở Hải quan.” Ông nói theo kiểu trẻ con của những người đứng đắn nhưng khù khờ không biết nói dối. “Sau những chuyện do dân Erzurum gây ra hôm qua, tối nay lính tuần canh chắc đầy ngoài đường.”

“Chúng tôi có thấy ai đâu,” tôi nói khi đi ra cửa. “Ông chỉ muốn nhắn có bấy nhiêu thôi sao?”

Tôi hỏi ông bố chồng câu này là để làm ông ta sợ, nhưng Shekure biết rõ rằng thực ra tôi nói với cô ấy. Đầu óc cô ấy thực sự mụ mị hay cô ấy đang che giấu điều gì, chẳng hạn cô ấy đang chờ Hasan và người của anh ta trở về chăng? Thật kỳ lạ, tôi cảm thấy thích thái độ không dứt khoát của cô.

“Tụi tôi không cần Siyah.” Shevket nói dứt khoát. “Coi đây như lần ghé thăm cuối cùng đi, bà béo ạ.”

Vậy thì ai sẽ mang đi khắp nơi những chiếc khăn trải bàn đăng ten, khăn tay thêu chim chóc hoa lá mà bà mẹ xinh đẹp của cậu thích, và chiếc áo sơ mi đỏ ưa thích của cậu đây?” tôi nói, để chiếc túi của tôi giữa phòng. “Cho đến khi tôi quay lại, cậu cứ mở ra xem, mặc thử, sửa hay khâu bất cứ thứ gì cậu thích.”

Tôi thấy buồn khi bỏ đi. Tôi chưa từng thấy đôi mắt của Shekure đẫm lệ như vậy. Ngay khi tôi quen được với cái lạnh bên ngoài, Siyah đã chặn tôi lại trên con đường lầy lội, gươm trong tay.

“Hasan không có nhà,” tôi nói. “Có lẽ anh ta ra chợ mua rượu để ăn mừng Shekure trở về. Có lẽ anh ta với đám tay chân sắp về tới. Nếu thế các anh sẽ đánh nhau, bởi vì anh ta đang điên. Và nếu anh ta vẫn dùng thanh gươm đỏ đó của anh ta thì chẳng ai biết trước anh ta sẽ làm gì.”

“Shekure nói gì?”

“Cha chồng cô ấy nói dứt khoát là không, tôi sẽ không bỏ con dâu tôi, nhưng nếu tôi là anh tôi sẽ không lo về ông ta, mà lo về Shekure. Vợ anh bối rối lắm. Nếu anh muốn biết, thì cô ấy đã tá túc ở đây hai ngày sau khi cha cô ấy chết vì sợ tên sát nhân, vì những đe dọa của Hasan và vì anh biến mất mà không nhắn một lời. Cô ấy biết mình không thể ở một đêm nữa trong cùng ngôi nhà đầy những sợ hãi như thế. Họ cũng nói với cô ấy rằng anh có nhúng tay vào cái chết của cha cô ấy. Nhưng người chồng trước của cô ấy chưa trở về hay có bất cứ điều gì tương tự như vậy. Shevket, và có vẻ cả cha chồng cô ấy đều tin lời nói dối của Hasan. Cô ấy muốn trở về với anh, nhưng cô ấy có một số điều kiện.”

Nhìn thẳng vào mắt Siyah, tôi kể ra những điều kiện.

Anh ta đồng ý ngay với một vẻ trang trọng như thể anh ta đang nói chuyện với một sứ giả đích thực.

“Tôi cũng có một điều kiện,” tôi nói. “Tôi sẽ trở vào đó lần nữa.” Tôi chỉ những tấm rèm cửa sổ mà ông bố chồng đang ngồi phía sau. “Sau một lát hãy tấn công vào đó và cửa trước. Khi nào tôi rú lên, đó là dấu hiệu bảo anh dừng lại. Nếu Hasan về đến thì tấn công anh ta ngay, đừng chần chừ.”

Lời nói của tôi, không phù hợp với một sứ giả, người không nên để thiệt hại xảy đến cho mình, nhưng tôi đã để mặc mình bị cuốn đi, các vị thấy đó. Lần này, ngay khi tôi rao, “Quần áo đâyyy…” cửa mở. Tôi đi thẳng đến chỗ ông bố chồng. “Cả khu này, và quan tòa phụ trách những khu vực này, tức là mọi nguồn biết rằng Shekure đã được ly dị từ lâu và đã tái giá một cách đàng hoàng theo đúng luật của kinh Koran,” tôi nói. “Ngay cả nếu con trai ông, người đã chết từ lâu, sống lại và từ Thiên đàng trở về đây với ông cùng đấng Tiên tri Moses, thì cũng chẳng ích gì vì anh ta đã ly dị với Shekure rồi. Ông đã bắt cóc một phụ nữ có chồng và giữ cô ấy ở đây trái ý muốn của cô ấy. Siyah yêu cầu tôi nói với ông rằng anh ta và người của anh ta sẽ tiến hành trừng phạt ông vì tội này trước khi quan tòa ra tay.”

“Vậy anh ta sẽ phạm một sai lầm nghiêm trọng.” Ông bố chồng nói nhẹ nhàng. “Chúng tôi chẳng bắt cóc Shekure hay gì cả! Tôi là ông nội bọn trẻ, ơn Thượng đế, Hasan là chú của chúng. Khi Shekure bị bỏ một mình, cô ấy sẽ có chọn lựa gì ngoài việc tìm chỗ trú ở đây? Nếu cô ấy muốn, cô ấy có thể rời khỏi đây bây giờ mang theo bọn trẻ. Nhưng đừng quên, đây là mái nhà đầu tiên của cô ấy, nơi cô ấy sinh con và hạnh phúc nuôi dạy chúng .”

“Shekure,” tôi nói không suy nghĩ. “Cô có muốn trở về nhà cha cô không?”

Cô ấy bắt đầu khóc vì bài diễn văn về “tổ ấm hạnh phúc.” Tôi không có cha,” cô ấy nói, hay đó là do tôi nghe thấy như thế? Bọn trẻ lúc đầu ôm chân cô, rồi kéo cô ngồi xuống và ôm lấy cô, ba người bọn họ ôm lấy nhau thành một khối mà khóc. Nhưng Esther không phải là đứa ngốc: Tôi biết rất rõ rằng nước mắt của Shekure nhằm mục đích xoa dịu cả hai bên mà không phải đưa ra quyết định. Nhưng tôi cũng biết đó là những giọt nước mắt thật, bởi vì chúng cũng làm tôi mủi lòng khóc theo. Lát sau, tôi nhận thấy Hayriye, con rắn độc đó, cũng đang khóc.

Như để trừng phạt ông bố chồng mắt xanh vì là người duy nhất trong phòng không khóc, Siyah và người của anh ta bắt đầu tấn công vào nhà đúng giây phút đó bằng cách nện lên những tấm rèm và phá cửa. Hai người đàn ông đánh vào cửa trước bằng súc gỗ phá cửa tạo ra những cú nện rền khắp nhà nghe như tiếng đại bác.

“Ông là một người có kinh nghiệm và danh giá,” tôi nói, được khích lệ bởi những giọt nước mắt của mình, “hãy mở cửa và nói với bọn chó dại ngoài đó rằng Shekure đi rồi.”

“Chị sẽ cho một phụ nữ không được bảo vệ, lại là con dâu của chị, người đến nương náu nhà chị, ra ngoài đường cùng với lũ chó đẻ sao?”

“Tự cô ấy muốn đi,” tôi nói. Dùng chiếc khăn tay màu tía tôi chùi mũi, vốn bị nghẹt vì khóc.

“Nếu vậy cô ấy cứ tự mở cửa mà đi,” ông ta đáp.

Tôi ngồi cạnh Shekure và bọn trẻ. Với mỗi cú nện, tiếng ồn khủng khiếp của đám người đang phá cửa lại thành một lý do nữa cho nước mắt tuôn nhiều hơn, bọn trẻ bắt đầu khóc to hơn, rồi nó lại khiến Shekure và cả tôi nữa gào to hơn. Tuy nhiên, cho dù kể cả tiếng thét đe dọa từ ngoài và những cú nện của súc gỗ chừng như sắp phá vỡ ngôi nhà tới nơi, cả hai chúng tôi đều biết chúng tôi khóc để kéo dài thời gian.

“Shekure xinh đẹp của tôi,” tôi nói, “cha chồng cô đã cho phép và chồng Siyah của cô đã chấp nhận mọi điều kiện của cô, anh ta đang chờ cô, cô chẳng còn có việc gì trong ngôi nhà này nữa. Mặc áo khoác, đeo mạng lên, mang theo đồ dùng của cô với bọn trẻ, mở cửa để rồi có thể lặng lẽ về nhà cô.” Câu nói này của tôi thậm chí còn làm cho bọn trẻ khóc to hơn, và khiến Shekure mở to mắt kinh hoàng.

“Tôi sợ Hasan,” cô nói, “kiểu trả thù của chú ấy thật khủng khiếp. Chú ấy dữ tợn lắm. Hãy nhớ là tự tôi đến đây.”

“Điều này không quan trọng bằng đám cưới mới của cô,” tôi nói. “Cô đã bị bỏ bơ vơ, dĩ nhiên cô phải tìm chỗ nương náu ở đâu đó. Chồng cô đã tha thứ cho cô, anh ta chuẩn bị đón cô về. Về phần Hasan, chúng ta sẽ giải quyết với anh ta theo cách chúng ta đã làm lâu nay.” Tôi mỉm cười.

“Nhưng tôi sẽ không mở cửa,” cô nói, “bởi vì rồi tôi sẽ tự ý trở về với anh ấy.”

“Shekure thân yêu, tôi cũng không mở cửa được,” tôi nói. “Cô cũng biết rõ rằng điều này có nghĩa là tôi can dự vào việc của cô. Họ sẽ trả thù tàn nhẫn việc can dự như thế.”

Qua ánh mắt cô tôi biết cô đã hiểu. “Vậy không ai mở cửa hết,” cô nói. “Cứ để họ phá cửa và dùng vũ lực lôi chúng tôi đi.”

Tôi biết ngay rằng đây sẽ là chọn lựa tốt nhất cho Shekure và bọn trẻ, và tôi sợ. “Nhưng điều đó có nghĩa là máu sẽ chảy,” tôi nói. “Nếu quan tòa không can thiệp vào chuyện này, máu sẽ đổ và một mối huyết hận sẽ kéo dài suốt nhiều năm. Không một người có danh dự nào lại chịu đứng yên nhìn khi nhà mình bị phá cửa và đột kích để bắt cóc một phụ nữ đang trú ngụ trong đó cả.”

Một lần nữa tôi hối tiếc hiểu ra Shekure toan tính và dối trá như thế nào khi cô ôm hai đứa con và than khóc hết sức mình hơn là trả lời. Lòng tôi tự nhủ hãy quên mọi thứ và bỏ đi, nhưng tôi không còn trở ra cửa được nữa, vì cửa đang bị nện đến sắp vỡ tan.

Thực tình, tôi thấy vừa sợ chuyện sẽ xảy ra nếu họ phá sập cửa xông vào, vừa sợ chuyện sẽ xảy ra nếu họ không phá được cửa; tôi vẫn nghĩ rằng người của Siyah, vốn tin cậy vào tôi, đang lo ngại rằng họ đã đi quá xa và có thể rút lui bất cứ lúc nào, mà điều đó đến lượt nó, sẽ khích lệ ông bố chồng. Khi ông ta đến bên Shekure, tôi biết ông ta bắt đầu vờ khóc, nhưng tệ hại hơn, ông ta đang run theo một kiểu không thể là vờ được.

Bước tới của, tôi gào lên hết sức lựa “Dừng lại đi, đủ rồi!” Tiếng ồn ào bên ngoài và tiếng than khóc bên trong chấm dứt ngay.

“Mẹ, để Orhan mở cửa,” tôi nói trong lúc sáng trí và bằng giọng ngọt ngào, như thể tôi đang nói với thằng bé. “Nó muốn về nhà, chẳng ai phàn nàn về điều đó cả.” Những lời này vừa ra khỏi miệng tôi thì Orhan vùng thoát khỏi vòng tay mẹ nó, và như một người đã sống ở đây nhiều năm, nó kéo chốt, nâng thanh gỗ lên, mở then, rồi bước lui hai bước.

Hơi lạnh từ ngoài tràn vào khi cánh cửa mở toang. Một sự im lặng bao trùm đến độ chúng tôi nghe một con chó uể oải sủa từ xa. Shekure hôn Orhan, giờ đang ngồi lại trên đùi mẹ nó, còn Shevket thì dọa, “Tao sẽ mách chú Hasan.”

Tôi thấy Shekure đứng lên, cầm lấy áo trùm và chuẩn bị túi đồ để đi, tôi nhẹ cả người, tôi e rằng mình sắp bật cười lên. Tôi ngồi xuống và ăn hai thìa xúp đậu lăng nữa.

Siyah đủ thông minh để không đến bất cứ chỗ nào gần cửa. Một hồi lâu, Shevket tự nhốt mình trong phòng người cha quá cố của nó, và mặc dù chúng tôi gọi Siyah đến giúp, nhưng cả anh ta lẫn người của anh ta đều không vào. Sau khi Shekure đồng ý để Shevket mang theo con dao găm cán nạm hồng ngọc của chú Hasan, thằng bé mới chịu rời khỏi nhà đi cùng chúng tôi.

“Coi chừng Hasan với thanh gươm đỏ của nó đấy,” ông bố chồng nói với vẻ lo lắng thực sự hơn là vẻ thất trận và báo thù. Ông hôn hai đứa cháu nội, ngửi đầu chúng, ông cũng thì thào vào tai Shekure.

Khi tôi thấy Shekure nhìn lần cuối vào cánh cửa, các bức tường và bếp lò của ngôi nhà, một lần nữa tôi nhớ đây là nơi cô ấy đã trải qua những năm tháng hạnh phúc nhất cuộc đời bên người chồng đầu tiên của cô. Nhưng cũng có thể cô ấy muốn nói rằng chính ngôi nhà này là nơi nương náu của hai người đàn ông cô đơn khốn khổ, và rằng nó mang mùi hôi thối của cái chết chăng? Tôi không đi cùng cô trên đường trở về vì cô đã làm tan nát tim tôi qua việc trở về đây.

Không phải cái lạnh và cõi đen ngòm của màn đêm đưa hai đứa trẻ không cha và ba người đàn bà – một đầy tớ, một mụ Do Thái và một góa phụ – lại với nhau, mà chính là những khu xóm xa lạ, những con đường hầu như không thể vượt qua và nỗi sợ hãi Hasan. Đám người chúng tôi, dưới sự bảo vệ của nhóm Siyah, và giống như một cỗ xe ngựa chở châu báu, chúng tôi đi qua những con đường hẻo lánh, những phố nhỏ hẹp và những khu phố hiu quạnh, ít người lui tới, để tránh chạm trán tuần canh, binh lính, những tên côn đồ tò mò trong vùng, bọn ăn trộm và Hasan. Nhiều lần, qua bóng tối như mực đến nỗi xòe tay mình trước mặt cũng không thấy được, chúng tôi phải mò mẫm dò đường, liên tục đụng vào nhau và đụng vào tường. Chúng tôi đi bám chặt vào nhau, hãi hùng trước cảm giác rằng người chết lang thang, âm hồn và ma quỷ có thể từ dưới đất chui lên và bắt chúng tôi vào đêm tối. Ngay đằng sau những bức tường và những tấm rèm đóng kín mà chúng tôi lần mò bằng đôi tay như người mù, chúng tôi nghe tiếng ngáy và tiếng ho của những người trong cái lạnh của đêm cũng như tiếng rống của gia súc trong chuồng.

Ngay cả Esther, vốn đã quen với những vùng tồi tệ và nghèo khổ nhất, kẻ từng đi khắp các con đường Istanbul – trừ những vùng nơi tụ hội đám di dân và các cộng đồng đáng ngại – đôi khi cũng cảm thấy rằng chúng tôi sẽ biến mất trong những con đường này, những con đường quanh co uốn lượn không dứt trong bóng tối bất tận. Nhưng tôi vẫn nhận ra được những góc phố nào đó mà tôi đã kiên trì đi qua vào ban ngày với chiếc túi trên vai; chẳng hạn tôi nhận ra những bức tường của phố Terzi Basi, mùi hăng của phân bón – mà vì lý do nào đó gợi tôi nhớ đến mùi quế – phả đến từ chuồng ngựa kế bên cơ ngơi của Nurullah Hoja; những địa điểm bị hỏa hoạn trên phố Akrobat và Hành lang vòm Sahinci dẫn vào quảng trường với Vòi phun Haji Mù, và vì thế tôi biết chúng tôi không hề đi về phía ngôi nhà của người cha quá cố của Shekure, mà đến một nơi kỳ bí nào khác.

Chẳng ai biết Hasan sẽ làm gì nếu anh ta giận dữ, và tôi biết Siyah đã tìm một chỗ khác để giấu gia đình anh tránh khỏi Hasan và cả tên sát nhân độc ác ấy. Nếu tôi có thể nhận ra đó là chỗ nào, tôi sẽ nói với các vị bây giờ và với Hasan vào sáng mai – không phải vì ác ý, mà bởi tôi tin chắc rằng Shekure vẫn muốn được Hasan quan tâm. Nhưng Siyah, vốn thông minh như thế, không còn tin tôi nữa.

Chúng tôi đang đi theo một con phố tối đằng sau chợ nô lệ thì nghe tiếng la khóc om sòm cuối phố. Chúng tôi nghe âm thanh của một cuộc xô xát, và tôi sợ hãi nhận ra cuộc hỗn chiến đã bắt đầu: tiếng va chạm của rìu, gươm và gậy và những tiếng rống đau đớn cực độ.

Siyah trao thanh gươm lớn của anh ta cho một trong những người thân tín nhất, giật lấy con dao găm từ tay Shevket khiến thằng bé khóc lên, rồi ra lệnh cho cậu học việc của bác thợ cạo và hai người nữa đưa Shekure, Hayriye và bọn trẻ ra xa đến một khoảng cách an toàn. Tay sinh viên thần học bảo tôi hắn sẽ đưa tôi về nhà bằng đường tắt; nghĩa là hắn không để tôi ở lại với những người khác. Đây là một ngã rẽ của số phận, hay một âm mưu tinh khôn nào đó để giữ bí mật chỗ ẩn nấp của họ?

Có một cửa hàng, mà tôi hiểu là quán cà phê, ở cuối con đường hẹp mà chúng tôi đang đi vào. Có lẽ cuộc đọ gươm đã dừng lại ngay khi nó bắt đầu. Những đám người la ó khi họ bước vào hoặc bỏ ra; thoạt tiên tôi nghĩ họ cướp bóc, nhưng không, họ đang đập phá quán cà phê. Họ cẩn thận mang ra các thứ tách gốm, nồi đồng, ly và những cái bàn thấp dưới ánh sáng những ngọn đuốc của người đứng xem và đập nát chúng như một lời cảnh cáo. Họ đấm đá một người đang cố ngăn họ lại, nhưng anh ta thoát được. Ban đầu tôi nghĩ mục tiêu của họ chỉ là cà phê, như chính họ đã tuyên bố. Họ lên án những tác động xấu xa của nó, việc nó tác hại cho thị lực và bao tử như thế nào, làm cùn nhụt trí tuệ và khiến con người mất đức tin ra sao, nó là thuốc độc của bọn Tây vực như thế nào và Muhammad Cao cả đã từ chối cà phê ra sao dù nó do một mỹ nữ dâng lên – đồ Satan trá hình. Có vẻ như đây là màn diễn thái quá cho một đêm giáo huấn về nghi thức đạo đức và nếu rốt cuộc tôi cũng tìm được đường về nhà, tôi nghĩ mình thậm chí có thể rầy la Ne sim, cảnh báo ông ấy không được uống quá nhiều thú thuốc độc đó.

Vì có quá nhiều nhà trọ và quán rượu rẻ tiền gần đó nên một đám đông tò mò tụ tập lại rất nhanh, gồm những kẻ lang thang nhàn rỗi, bọn vô gia cư và lũ chó lai thối tha nhập cư lậu vào thành phố, và họ khích lệ những kẻ thù cà phê này. Đến lúc đó tôi mới hiểu rằng họ là những kẻ ủng hộ nhà thuyết giáo Nusret Hoja xứ Erzurum. Họ có ý định dọn dẹp mọi hang ổ rượu chè, đĩ điếm và cà phê ở Istanbul, và trừng phạt nghiêm khắc những ai lạc bước khỏi con đường của Muhammad Cao cả; những người dùng những nghi lễ của phái khổ tu như một cớ để múa bụng theo âm nhạc chẳng hạn. Họ lên án những kẻ thù của tôn giáo, những kẻ hợp tác với Quỷ sứ, bọn ngoại giáo, đám vô thần và dân minh họa. Tôi chợt nhớ ra rằng đây là quán cà phê nơi có treo nhiều tranh trên tường, nơi tôn giáo và vị hoja xứ Erzurum bị bôi nhọ và nơi sự bất kính là không có giới hạn.

Một thợ học việc của người chế biến cà phê, khuôn mặt cậu ta lốm đốm máu, từ trong bước ra, và tôi nghĩ có lẽ cậu ta ngã quỵ mất, nhưng cậu ta đưa tay áo lên chùi máu trên trán và má, nhập vào nhóm chúng tôi và bắt đầu quan sát cuộc đập phá. Đám đông dãn ra một chút vì sợ hãi. Tôi thấy Siyah nhận ra ai đó và do dự.

Nhân lúc này những người Erzurum bắt đầu tập hợp lại, tôi biết rằng binh lính hoặc băng đảng nào khác vũ trang bằng dùi cui đang trên đường tới đây. Người ta dập tắt đuốc và đám đông trở thành một đám hỗn loạn.

Siyah nắm lấy cánh tay tôi và bảo anh sinh viên thần học đưa tôi đi. “Lựa những con đường nhỏ mà đi.” anh ta nói. “Cậu ta sẽ theo chị về tới nhà.” Anh chàng sinh viên cũng muốn chuồn khỏi chỗ này càng sớm càng tốt và chúng tôi hầu như chạy ngay khi khởi hành. Ý nghĩ của tôi hướng về Siyah, nhưng nếu Esther bị đưa khỏi hiện trường, chị ta không thể tiếp tục câu chuyện được, bây giờ chị ta tiếp tục được không?


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.