TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH
Khi tôi trở về nhà đêm đó, khéo léo tránh né bà chủ nhà – người bắt đầu cư xử cứ như mẹ tôi – tôi tự nhốt mình trong phòng và nằm trên nệm, đắm mình vào những ảo mộng về Shekure.
Hãy cho phép tôi có được niềm vui mô tả những âm thanh tôi nghe được trong nhà của Enishte. Trong lần viếng thăm thứ hai của tôi sau mười hai năm, nàng không xuất hiện. Tuy nhiên nàng đã thành công trong việc cho tôi biết sự hiện diện của nàng một cách quá diệu kỳ đến độ tôi chắc chắn nàng đang theo dõi tôi, trong khi nàng đánh giá tôi như một người chồng tương lai, đồng thời lấy đó làm tiêu khiển như đang chơi một trò chơi luận lý. Biết được điều này, tôi cũng tưởng tượng tôi luôn nhìn thấy nàng. Vì vậy tôi có thể hiểu rõ hơn khái niệm của Ibn Arabi rằng tình yêu là khả năng làm cho cái vô hình thành hữu hình và khao khát lúc nào cũng cảm thấy được cái vô hình trong con người mình.
Tôi có thể suy ra rằng Shekure không ngừng theo dõi tôi vì tôi đã lắng nghe âm thanh từ trong nhà và nghe tiếng sàn gỗ kêu cọt kẹt. Có lúc, tôi chắc chắn nàng cùng hai đứa con đang ở phòng kế bên, vốn mở ra phòng ngoài kiêm hành lang. Tôi có thể nghe tiếng bọn trẻ xô đẩy và cãi nhau trong khi mẹ chúng hẳn là cố ra hiệu bảo chúng im lặng, dọa chúng bằng những cái nhìn và nhíu mày. Có khi tôi nghe họ thì thầm rất thiếu tự nhiên, không phải như người ta thì thầm để tránh khuấy động những lời cầu nguyện của ai đó, mà thì thầm một cách giả tạo, như người ta thì thầm trước khi nổ ra một trận cười dữ dội.
Một lần khác, khi ông ngoại của chúng đang giải thích với tôi những điều kỳ diệu của ánh sáng và bóng tối, Shevket và Orhan bước vào phòng, và với những cử chỉ cẩn thận rõ ràng đã được diễn tập trước, bưng một khay cà phê cho chúng tôi. Nghi thức này, vốn phải là phần việc của Hayriye, đã được Shekure sắp xếp để chúng quan sát được người có thể sẽ trở thành cha chúng. Và vì thế, tôi khen Shevket: “Cháu có đôi mắt đẹp quá.” Rồi tôi lập tức quay sang em nó, Orhan – tôi cảm thấy rằng có thể nó đang nổi máu ghen tỵ – và nói thêm, “Mắt cháu cũng đẹp nữa.” Kế đến tôi đặt lên khay một cánh hoa cẩm chướng đỏ nhạt mà tôi nhanh chóng lấy ra từ những nếp gấp áo choàng rồi hôn má từng đứa. Sau đó tôi vẫn nghe tiếng cười và tiếng rúc rích từ bên trong.
Tôi càng lúc càng tò mò muốn biết qua cái lỗ nào trên các bức tường, những cánh cửa đóng, hay có lẽ trên trần nhà, và từ góc nào, mắt nàng đang nhìn tôi. Nhìn chăm chú một vết nứt, một mấu gỗ, hay những gì tôi cho là một cái lỗ, tôi tưởng tượng Shekure đang đứng phía sau. Bất chợp cảm thấy nghi ngờ một điểm đen nọ, và để xác định xem nghi ngờ của tôi đúng hay không – dù có nguy cơ bị Enishte cho là láo xược khi ông tiếp tục bài thuyết trình vô tận của mình – tôi đứng dậy. Vẫn làm ra vẻ một môn đồ chú tâm, hoàn toàn bị mê hoặc và chìm đắm trong suy nghĩ, để chứng tỏ tôi tập trung cao độ thế nào vào câu chuyện của ông, tôi bắt đầu đi tới lui trong phòng với vẻ trầm ngâm, trước khi đến gần điểm đen khả nghi trên tường.
Khi không nhìn thấy con mắt của Shekure dán sau cái mà tôi nghĩ là lỗ nhìn trộm, tôi tràn ngập nỗi thất vọng, và sau đó là cảm giác cô đơn kỳ lạ, và cảm giác bồn chồn của một người không biết đi tiếp về đâu. Thỉnh thoảng tôi lại có cảm giác bất chợt và mạnh mẽ rằng Shekure đang theo dõi tôi, tôi hoàn toàn tin chắc mình đang trong tầm nhìn của nàng, đến độ tôi bắt đầu làm điệu bộ giống như một người đang cố chứng tỏ anh ta thông minh hơn, mạnh mẽ hơn, thậm chí giỏi giang hơn thực chất anh ta có để gây ấn tượng cho người phụ nữ anh ta yêu. Sau đó tôi nghĩ đến việc Shekure và các con nàng đang so sánh tôi với chồng nàng – người cha mất tích của bọn trẻ – trước khi đầu óc tôi tập trung lại vào tay minh họa Venice nổi tiếng nào đó mà lúc ấy Enishte của tôi đang tô thêm nét triết lý vào cho những kỹ thuật hội họa của hắn. Tôi ước ao được giống những họa sĩ mới nổi tiếng chỉ vì Shekure đã nghe cha nàng nói quá nhiều về họ, những tay minh họa tạo được tên tuổi không phải bằng việc chịu nỗi đau tử vì đạo trong các xà lim như những vị thánh, hay bằng việc chém đầu quân địch với một cánh tay mạnh mẽ và một thanh mã tấu bén ngót như người chồng vắng mặt đó đã làm, mà nhờ một bản thảo mà họ sao chép hoặc một trang họ đã trang trí. Tôi gắng hết sức hình dung những bức tranh lộng lẫy mà những nhà minh họa nổi tiếng đã tạo ra, những kẻ mà, theo như Enishte của tôi giải thích, được truyền cảm hứng bởi sức mạnh của sự tối đen hữu hình của nó và sự huyền bí của thế giới. Tôi cố hết sức hình dung chúng – những kiệt tác mà Enishte của tôi đã thấy và hiện đang cố mô tả cho một người vốn chưa từng thấy chúng – đến độ cuối cùng, khi trí tưởng tượng của tôi chẳng giúp gì được, tôi chỉ càng buồn nản hơn, càng thấy mình bé mọn hơn.
Tôi nhìn lên thì phát hiện rằng Shevket lại đến trước mặt tôi. Nó tiến đến chỗ tôi một cách dứt khoát, và tôi cho rằng – như phong tục đối với một bé trai lớn nhất trong những bộ tộc Ẳ Rập nào đó ở Transoxiana và những bộ lạc Circassian thuộc vùng núi Caucasus – thằng bé sẽ không chỉ hôn tay khách lúc khách mới đến thăm mà cả khi người khách ra về nữa. Bị bất ngờ, tôi đã giơ tay ra cho nó hôn: Ngay lúc đó, từ đâu đó không xa, tôi nghe tiếng cười của nàng. Nàng đang cười tôi chăng? Tôi bối rối và để cứu vãn tình hình, tôi nắm lấy Shevket mà hôn lên hai má nó như thể phong tục muốn tôi làm thế. Sau đó tôi mỉm cười với Enishte của tôi như để xin lỗi vì đã cắt ngang ông và để cam đoan với ông rằng tôi không có ý vô lễ, trong khi cẩn thận kéo đứa bé lại gần để kiểm tra xem nó có mang hương thơm của mẹ nó không. Đến lúc tôi hiểu rằng thằng bé đã đặt vào tay tôi một mẩu giấy xếp nhỏ thì nó đã quay lưng đi ra tới gần cửa rồi.
Tôi giữ chặt mẩu giấy trong nắm tay như một báu vật. Và khi hiểu ra rằng đây là lá thư của Shekure, tôi không thể nén được nụ cười ngốc nghếch với Enishte của tôi vì quá sung sướng.
Chứng cứ này chưa đủ cho thấy rằng Shekure đắm đuối khao khát tôi sao? Bất chợt tôi tưởng tượng cảnh chúng tôi đang điên cuồng làm tình với nhau. Tôi tin tưởng quá sâu xa rằng hình ảnh khó tin mà tôi vừa tưởng tượng ra đó sẽ sớm xảy ra đến độ cái giống đàn ông của tôi bắt đầu trỗi dậy một cách không đúng lúc – ngay trước mặt Enishte của tôi. Shekure có chứng kiến chuyện này không? Tôi chú tâm vào những gì Enishte của tôi giải thích để chuyển hướng sự tập trung của tôi.
Hồi lâu sau, khi Enishte của tôi sắp cho tôi xem một tấm bản thảo đã minh họa từ cuốn sách của ông, tôi kín đáo mở lá thư ra, nó bay mùi hoa kim ngân, chỉ để phát hiện ra là nàng hoàn toàn không viết gì cả. Tôi không thể tin vào mắt mình, và bất giác cứ lật qua lật lại để xem xét lá thư.
“Một cái cửa sổ,” Enishte của tôi nói. “Việc sử dụng những kỹ thuật phối cảnh giống như việc quan sát thế giới từ một ô cửa sổ – cháu đang cầm gì đó?”
“Chẳng có gì cả, thưa Enishte Kính mến,” tôi nói. Khi ông quay đi, tôi đưa mẩu giấy gấp đó lên mũi mà hít sâu mùi hương của nó.
Sau bữa ăn chiều, vì không muốn dùng bô của Enishte, tôi xin lỗi và bước ra nhà vệ sinh ngoài sân. Trời lạnh cắt da. Tôi vừa lẹ làng giải quyết xong mối bận tâm của tôi mà không để mông bị lạnh cóng thì thấy Shevket bẽn lẽn và lặng lẽ xuất hiện trước mặt tôi, cản đường tôi như một tên cướp. Hai tay nó bưng cái bô đầy nhóc và bốc khói của ông ngoại nó. Nó bước vào nhà xí sau tôi rồi đổ bô. Nó bước ra và vừa dán cặp mắt xinh đẹp của nó vào mắt tôi vừa phùng má, tay vẫn giữ chặt cái bô không.
“Chú thấy con mèo chết bao giờ chưa?” nó hỏi. Mũi nó giống hệt mũi mẹ nó. Nàng có quan sát chúng tôi không? Tôi nhìn quanh. Những tấm rèm cửa sổ trên tầng hai, nơi tôi lần đầu thấy lại Shekure sau nhiều năm, đã đóng kín.
“Không.”
“Để cháu chỉ cho chú con mèo chết trong nhà của Người Do Thái bị treo cổ nghe?”
Nó bước ra đường mà không chờ tôi trả lời. Tôi theo nó. Chúng tôi đi bốn năm mươi bước dọc theo con đường lầy lội và lạnh giá, trước khi bước vào khu vườn hoang phế. Ở đây bốc mùi lá mục và ẩm, phảng phất mùi mốc. Với sự tự tin của một đứa trẻ biết rõ nơi này, bước từng bước nhịp nhàng, vững chắc, nó đi qua cửa một ngôi nhà màu vàng, nằm ngay trước mặt chúng tôi, khuất sau cây vả ủ rũ và hàng cây hạnh đào. Ngôi nhà trống trơn, nhưng nó khô và ấm, như thể có ai đang sống ở đó.
“Nhà này của ai vậy?” tôi hỏi.
“Mấy người Do Thái. Khi ông chồng chết, vợ con ông ta đến khu Do Thái cạnh bến cảng trái cây. Họ nhờ Esther người bán quần áo rao bán nhà.”
Nó bước vào góc phòng và quay ra. “Con mèo mất tiêu rồi,” nó nói.
“Con mèo chết thì đi đâu?”
“Ông ngoại nói người chết đi lang thang.”
“Không phải chính người chết,” tôi nói. “Mà linh hồn của họ mới lang thang.”
“Sao chú biết?” nó hỏi. Nó đang giữ chặt cái bô sát đùi với vẻ hết sức nghiêm trang.
“Chỉ biết vậy thôi. Bộ cháu hay đến đây lắm hả?”
“Mẹ cháu đến đây với Esther. Người chết sống lại, dưới mồ ngoi lên, đến đây vào ban đêm, nhưng cháu không sợ chỗ này. Chú có giết ai chưa?”
“Có.”
“Mấy người?”
“Không nhiều. Hai.”
“Bằng gươm hả?”
“Bằng gươm.”
“Hồn họ có đi lang thang không?”
“Chú không biết. Theo sách nói thì họ phải lang thang.”
“Chú Hasan có một thanh gươm đỏ. Nó bén đến độ cắt đứt tay chú nếu chú đụng vào. Chú ấy còn có một con dao găm có cán nạm ngọc. Chú có phải là người giết cha cháu không?”
Tôi gật đầu chẳng nói “phải” mà cũng chẳng nói “không.”. “Sao cháu biết cha cháu chết rồi?”
“Mẹ cháu nói vậy hôm qua. Cha không về nữa. Mẹ thấy cha trong mơ.”
Nếu có cơ hội, chúng ta quyết định sẽ làm, nhân danh một mục đích lớn lao hơn bất cứ điều khủng khiếp nào mà chúng ta đã chuẩn bị làm vì những lợi lộc khốn khổ của riêng mình, vì nỗi thèm khát cháy bỏng trong ta hoặc vì tình yêu làm tan nát tim ta; và vì thế, một lần nữa tôi quyết định trở thành cha của bọn trẻ bị bỏ rơi này, và, khi trở vào nhà, tôi lắng nghe ông ngoại của Shevket một cách chăm chú hơn khi ông mô tả cuốn sách mà tôi phải hoàn tất lời văn và những tranh minh họa của nó.
Hãy để tôi bắt đầu bằng những tranh minh họa mà Enishte của tôi đã cho tôi xem, chẳng hạn như con ngựa. Trên trang này không có những hình người, và quanh chỗ con ngựa hoàn toàn để trống; tuy nhiên, tôi không thể nói nó đơn giản và thuần túy chỉ là bức tranh vẽ con ngựa. Phải, con ngựa ở đó, nhưng rõ ràng kỵ sĩ đã bước sang một bên, hoặc ai mà biết, có lẽ anh ta sắp hiện ra từ đàng sau một bụi cây được vẽ theo phong cách Kazvin. Điều này lập tức lộ rõ từ chiếc yên trên lưng ngựa, vốn mang những dấu hiệu và vật trang điểm của giới quý tộc: có lẽ một người với thanh gươm lăm lăm trên tay sắp xuất hiện bên cạnh con ngựa.
Rõ ràng là Enishte của tôi đã đặt vẽ con ngựa này từ một nhà minh họa bậc thầy, người mà ông đã bí mật triệu đến từ xưởng vẽ. Bởi nhà minh họa này, đến vào ban đêm, chỉ có thể vẽ một con ngựa – vốn đã ăn sâu vào đầu anh ta như một bản khắc kẽm – nếu như nó là sự mở rộng của câu chuyện, thì anh ta sẽ bắt đầu vẽ theo chính cách đó: theo trí nhớ. Khi anh ta vẽ con ngựa, mà anh ta đã thấy hàng ngàn lần trong các cảnh yêu đương và chiến tranh, thì Enishte của tôi, khởi hứng từ những phương pháp của các bậc thầy Venice, chắc chắn đã chỉ dẫn nhà minh họa này; chẳng hạn, có thể ông đã nói, “Hãy quên tay kỵ sĩ đi, mà vẽ một cái cây ở đó. Nhưng vẽ nó ở hậu cảnh, theo tỉ lệ nhỏ hơn.”
Nhà minh họa, người đến vào ban đêm, sẽ ngồi trước bàn làm việc cùng Enishte của tôi, hăm hở vẽ bên ánh nến một bức tranh kỳ cục, phi quy ước, không giống bất kỳ cảnh bình thường nào mà anh ta quen thuộc và nhớ trong đầu. Dĩ nhiên Enishte của tôi trả công anh ta hậu hĩ cho mỗi bức vẽ, nhưng thực tình thì phương pháp vẽ lạ kỳ này cũng có những hấp dẫn của nó. Tuy nhiên, như với Enishte của tôi, sau một thời gian, nhà minh họa này không còn xác định được bức minh họa sẽ nâng cao và hoàn chỉnh cho câu chuyện nào. Những gì Enishte của tôi mong đợi ở tôi là tôi sẽ xem xét những tranh minh họa được vẽ theo kiểu nửa Ba Tư, nửa Venice và viết một câu chuyện phù hợp đi kèm theo chúng ở trang đối diện. Nếu tôi muốn có được Shekure, dứt khoát tôi phải viết những chuyện này, nhưng tất cả những gì nảy ra trong đầu tôi là những câu chuyện mà người kể chuyện đã kể tại quán cà phê.