Người Trung Hoa làm lịch dựa theo chu kỳ vận hành của mặt trăng, chia một tháng thành ba tuần: Thượng, trung, hạ. Nghĩa là mỗi tuần có đến chín hoặc mười ngày.
Đầu trung tuần tháng sáu, bọn Vô Ưu Cái về đến Lạc Dương. Ba nữ nhân họ Điền, nạn nhân của phép Nhiếp Hồn thuật, được đưa đến cơ sở mật của phe Bạch đạo.
Đấy chỉ là một dược đường nhỏ trên phố Tam Tạng, thưa khách vì vị đại phu họ Tạ kia bất tài, chữa đâu chết đó.
Thực ra, Tạ Y Chuyên chính là bậc thần y đất Triều Châu, phía Bắc tỉnh Phúc Kiến. Ông nghe theo lời thỉnh cầu của Vô Ưu Cái nên về Lạc Dương sinh sống, chủ trì việc nghiên cứu các loại thuốc độc của phe Hắc đạo, trong đó có Mông Hãn Hoa và Vô Hình Chi Độc của Tứ Phạn Thiên cung!
Tạ đại phu vốn có tài diệu thủ hồi xuân, nhưng Cái bang lại tung tin đồn nhảm để bảo toàn bí mật cho cơ sở. Rốt cuộc, bách tính quanh vùng chỉ đến mua thuốc chứ không dám để Tạ lang băm chẩn mạch kê toa.
Dưới trướng Tạ Y Chuyên còn có bảy tám vị lương y già nữa. Họ được nuôi dưỡng suốt đời, vừa nghiên cứu y thuật, vừa hưởng cảnh thanh nhàn trong tòa gia trang rộng rãi, u nhã ở phía sau An Dân đường.
Tạ gia trang nhiều phòng ốc nên Hoàng Nghi Tuyệt, Thúy Sơn và Bất Trí thư sinh cũng đến đấy ở luôn.
Hoàng Nghi Tuyệt đã vể Lưu Sơn, còn Dạ Quân Tử và Nghiên Tái Thuần đã đi Thiểm Tây, thực hiện kế hoạch xâm nhập hàng ngũ Âm Sơn giáo. Thiết Kình Ngư Tào Ưng cùng Tô Châu ngũ tặc thì đóng đô tại Tổng đà Cái bang.
Ba cô gái họ Điền bị phong tỏa chân khí và huyệt đạo tứ chi để Thiều Chân Thần Y chẩn bệnh. Họ không hề nhận ra người thân, ngơ ngác nhìn với ánh mắt sợ hãi, cứ như lọt vào tay kẻ cướp vậy.
Tạ thần y thăm mạch, cắm thử vày cây kim lên đầu Mã Lan. Không thấy hiệu quả, ông gượng cười nói với Nhương Thư :
– Nhiếp Tâm thuật của Kỵ Ba Thần Quân xuất xứ từ Thiên Trúc, thuộc loại tà pháp bí truyền, chẳng thể giải trừ ngay được mà cần có thời gian. Lão phu chỉ dám hứa thành công sau ba tháng, mong công tử lượng thứ cho.
Nhương Thư từng được nghe sư phụ nói về sự lợi hại của tà thuật này nên điềm đạm đáp :
– Tại hạ cũng hiểu được điều ấy, chẳng dám thúc bách, mong Tạ lão ca cứ từ tốn mà chữa trị.
Hai ngày sau, Nhương Thư dặn dò Thúy Sơn :
– Nàng hãy ở lại đây săn sóc bệnh nhân, ta phải đi ngay Tứ Phạn Thiên cung tiêu diệt Độc Biển Thước. Nếu để lão bình phục thì sau này sẽ không còn cơ hội nữa.
Thúy Sơn tái mặt song không dám ngăn cản, chỉ thỏ thẻ :
– Mong đại ca bảo trọng, đừng để bốn chị em tiểu muội phải đau khổ suốt đời.
Nhương Thư cảm động gật đầu, xách trường kiếm và tay nải nhỏ rời Tạ gia trang lúc trời còn mờ tối. Chàng không cho Bất Trí thư sinh biết, sợ lão sẽ ngăn cản. Vì vậy, sáng ra Cao lão dậm chân kêu trời, tất tả chạy sang Tổng đà Cái bang báo với Vô Ưu Cái.
Hầu Mộ Thiên mỉm cười :
– Lão phu đã tiên đoán rằng Nhương Thư sẽ hành động như thế. Tuy y hơi ngốc nhưng cốt cách anh hùng, chẳng biết sợ là gì, tất sẽ noi gương Phật Đăng Thượng Nhân mà dấn thân vào chốn long đàm hổ huyệt. Thực ra, Nhương Thư đi là đúng vì đây là thời cơ tốt nhất. Vả lại, nội bộ tà ma ở Càn Sơn đang lủng củng, có thể đi đến cuộc tương sát giữa Âu Dương Lăng và Độc Biển Thước. Nhương Thư đi chuyến này không chừng sẽ phá tan được cả ổ quỷ đấy.
Bất Trí thư sinh cười mát :
– Tiểu đệ lấy làm lạ khi thấy lão ca chẳng hề lo lắng cho Nhương Thư?
Hầu Mộ Thiên nghiêm sắc mặt :
– Nào phải lão phu vô tình, song y đã kế nghiệp Phật Đăng Thượng Nhân là chấp thuận gác ngoài sanh tử, để lo cho đại cục võ lâm, ngay bản thân lão phu cũng lao tâm khổ trí suốt ba chục năm nay, nào có được an nhàn một khắc nào đâu?
Cao Trường Toản nghe lời chính khí vội vái dài, chậm rãi nói :
– Tiểu đệ vì tình riêng với Nhương Thư mà quên cả đại cục, quả là đáng hổ thẹn. Tuy nhiên, gần đây thần sắc Tần hiền đệ u ám, ấn đường phủ mây đen, e rằng sẽ gặp nạn.
Vô Ưu Cái tái mặt, trầm ngâm một lúc rồi nghiến răng hỏi lại :
– Chuyện đã lỡ, lão phu muốn biết liệu y có sống mà trở về hay không thôi?
Cao Trường Toản bấm tay tính toán, tư lự hồi lâu mới đáp :
– Tuyệt xứ phùng sinh! Y chẳng thể chết được.
Vô Ưu Cái gật gù :
– Y còn sống là đủ rồi! Lão đệ hãy về Tạ gia trang để ta họp hội đổng trưởng lão.
Cao Trường Toản đi rồi, Vô Ưu Cái ngồi lặng người, suy nghĩ rất lung.
Nhắc lại, Nhương Thư rời Lạc Dương lên hướng Bắc. Chàng hóa trang thành Tiêu Trung Kiếm Ngụy Vô Cương nên chẳng sợ hào kiệt võ công nhận ra.
Tàn Khuyết môn chủ Chu Tuế Nguyệt là bái đệ của Vô Ưu Cái nên đã vui lòng hợp tác để giáng cho Độc Biển Thước một đòn chí tử.
Ngay sau người thân bị Tả Nho Quan hạ độc, Chu môn chủ đã thông báo cho Hầu Mộ Thiên biết. Hầu bang chủ đã cử Tạ thần y đi ngay Giới Hưu đối chứng lập phương giải độc, nhưng lại dặn Chu Tuế Nguyệt cứ giả vờ như vẫn còn bị khống chế. Ông định đưa họ Chu vào làm nội gián trong Thần Quang giáo, nào ngờ, ba chị em họ Điền bị bắt nên phải sử dụng ngay vũ khí bí mật này!
Thanh kiếm bản nhỏ, vỏ là đoạn tiêu sắt, chính thị vũ khí tùy thân của Ngụy Vô Cương chứ chẳng phải đồ giả. Họ Ngụy đã khẳng khái tặng luôn cho Nhương Thư sử dụng.
Vai trò của Tàn Khuyết môn trong cuộc chiến ở Hắc Ưng cốc không được nhiều người biết đến, ngoài bọn Độc Biển Thước và các Chưởng môn Bạch đạo. Do vậy, Nhương Thư có thể bình yên thoát khỏi những lời tán tụng của thiên hạ. Bọn hào khách gặp chàng cũng chỉ vẫy tay chào qua loa vì chút tình cùng nhau chiến đấu mà thôi. Họ không biết Tiêu Trung Kiếm là Tần Nhương Thư.
Giờ đây, thanh danh của Nhương Thư vang dội khắp nơi vì đã phá hủy được Thần Quang giáo. Thực ra, công đầu thuộc về Bang chủ Cái bang Hầu Mộ Thiên, những tiếng nổ long trời của Bạt Sơn Thần Lựu đã khiến người ta chỉ nhớ đến Tần Nhương Thư. Không có Thần lựu của chàng thì kế hoạch kia chẳng thể thành công.
Từ đầu tháng đến nay, đâu đâu cũng xôn xao kể cho nghe về chiến thắng Hắc Ưng cốc. Hàng ngàn hảo hán có mặt đêm ấy đã không quên vỗ ngực kể lể, nhân tiện khoe rằng mình đã tham gia.
Trưa mười hai, Nhương Thư sang đất bờ Bắc Hoàng Hà, một mình dong ruổi dưới ánh nắng gay gắt và những trận mưa hạ tầm tã như trút nước.
Hành trang của chàng là tay nải nhỏ chứa y phục, sáu trái Bạt Sơn Thần Lựu và hình bóng của ái thê. Không phải chỉ ba đôi mắt lạc thần, si dại mà có cả dáng vóc yêu kiều của người quá cố là Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Đại Ngọc.
Chiều xuống, khói lam từ bếp của những nếp nhà tranh đơn sơ bên bia rừng bốc lên, quyện với sương lạnh, hờ hững, bãng lãng trên tàn cây, nhắc nhở đến một cuộc sống gia đình êm đềm mà chàng chưa bao giờ được hưởng.
Sau mười mấy năm nương nhờ cửa Phật, tu hành trai giới, chàng lại lao ngay vào cuộc sống giang hồ sóng gió và tanh máu, chẳng một ngày yên ả. Nhương Thư thở dài, chua chát thầm nghĩ :
– “Tứ đại giai không, vạn vật vô thường, sao ta lại phải bôn ba lận đận làm gì nhỉ? Kẻ nào gieo nhân ác, sẽ gặt quả xấu, ta có quyền gì mà đem báo ứng đến cho họ? Phật tổ Như Lai nào có dạy đệ tử dĩ sát chỉ sát?”
Nhương Thư bỗng xấu hổ khi nhớ đến ân sư. Suốt đời hành hiệp, tạo phúc cho bách tính, ông chưa hề giết một ai cả. Chính bởi chàng bất tài nên mới phạm giới sát, máu nhuộm đỏ đôi bàn tay từng Thanh Đăng Cổ Phật.
Tiếng chuông chùa từ đâu vọng lại làm Nhương Thư rùng mình vì hối hận, đau đớn kêu lên :
– Ân sư! Đồ nhi đã sai rồi!
Trong tâm trạng hoang mang, Nhương Thư quên cả việc bóng chiều ngã dần để nhường chỗ cho đêm tối. Chàng lỏng dây cương, lững thững phi nước kiệu, mặc cho tiếng chim về tổ hối thúc trên cao. Nhương Thư trân trối nhìn đỉnh Càn Sơn phía xa, đang che khuất vầng dương để những đường nét được viền một dải ánh hồng rực rỡ. Chàng phân vân chẳng biết có nên đến đây nữa hay không, vì sáu trái Bạt Sơn Thần Lựu sẽ rút ngắn chu kỳ hạn quả của hàng trăm thủ hạ Tứ Phạn Thiên cung.
Được vài dặm, Nhương Thư gương mặt vì tiếng sột soạt ở bìa rừng mé hữu. Chàng quay sang nhìn và phát hiện một con đường mỏn nhỏ, dẫn đến ngôi chùa cổ đang thấp thoáng không xa, có lẽ tiếng chuông lúc nãy xuất phát từ đây?
Ăn năn vì sát nghiệp nặng nề, Nhương Thư khao khát được quỳ trước Phật đường mà sám hối. Chàng mừng rỡ rẽ vào Phật đường.
Nhương Thư buồn rầu nhìn ngôi cổ tự hoang phế, tiêu điều, đầy cỏ dại. Lòng tự hỏi vì sao nơi hoằng dương đạo pháp, giáo hóa chúng sinh lại đến nỗi này?
Và tiếng hổ gầm đâu đó đã giải đáp thắc mắc của Nhương Thư. Chính bầy ác thú đã xua đuổi tăng lữ ra khỏi chùa.
Chàng bâng khuâng xuống ngựa bước vào đại điện, nhận ra các pho tượng Phật đều đã biến mất. Bảng gỗ mục nát nằm lây lất trước hiên vẫn còn lờ mờ ba chữ Đồng Phật tự, nghĩa là trước đây chùa này thờ Phật đúc bằng đồng. Phải chăng bọn trộm cướp đã khiêng cả tượng đi bán rồi?
Nhương Thư vén áo đảnh lễ tòa sen trống không rồi bẻ nhành cây quét dọn mạng nhện và bụi bặm. Với khinh công xuất chúng và kình lực của đôi tay mạnh mẽ, chàng bay lượn khắp nơi, múa tít nhánh cây đầy lá, tạo nên những trận cuồng phong thổi bay bụi đất ra ngoài.
Nhương Thư nghĩ một lúc, trăng lên rồi cặm cụi nhổ sạch cỏ dại, bụi rậm trên mảnh sân gạch quanh chùa.
Chàng say mê làm đến nửa đêm mới xong, hài lòng nhảy xuống mảnh ao sau chùa tắm gội. Đã quen tịnh cốc, Nhương Thư có thể nhịn đói vài ngày, huống hồ một bữa tối nay. Chàng ung dung gom cành khô nhóm lửa trước sân và ngồi cạnh đấy ngắm vẩn trăng mười bốn khá tròn trịa, như chiếc đĩa ngọc đang ban phát ánh sáng nhạt nhòa để vỗ về giấc ngủ của cây rừng.
Tiếng côn trùng mùa hạ rỉ rả chung quanh chợt nhác chàng nhớ đến tiếng chuông ban chiều. Trong chùa không có chuông, vậy âm thanh kia từ đâu vọng lại? Là người học võ, tai mắt vô cùng minh mẫn, chàng có thể xác định tiếng chuông xuất phát từ khu vực này, chẳng thể xa hơn được.
Nhương Thư chợt chấn động vì một linh cảm kỳ lạ, liền niệm Phật rồi tọa thiền. Trong cảnh giới tĩnh lặng, trước mắt chàng hiện ra cảnh một nhà sư vặm vỡ đang vác từng thân cây to lớn về cho đám thợ mộc đẽo gọt. Bắp thịt ông nổi lên cuồn cuộn dưới lớp tăng bào, biểu hiện một sức mạnh kinh hồn.
Sau đó đến cảnh ngôi chùa được hoàn thành, ngày sóc, ngày vọng nghi ngút khói hương, đông đúc tín đồ đến nghe thuyết pháp. Nghe xong, gương mặt họ đầy vẻ từ bi, vui vẻ trở về khu làng ở phía Tây chùa. Ngày thường, nhà sư dạy chữ và đạo nghĩa cho lũ trẻ.
Thời gian trôi đi, vị hòa thượng kia đã già, đang quỳ trước Phật đường, nghiêm trang khấn vái :
– Nay bọn ác thú từ phương xa đột nhiên đến lộng hành quanh chùa, xua đuổi bách tính khiến việc hoằng dương Phật pháp bị gián đoạn, đồng thời đành phạm giới để tiêu diệt chúng. Dẫu kiếp này đệ tử không thành Phật cũng giúp cho hàng ngàn người thấm nhuần giáp pháp, nuôi dưỡng thiện căn.
Khấn xong, ông xách thiền trượng đi vào rừng đánh nhau với bọn mãnh hổ. Nhà sư giết được vài con nhưng không may vấp rể cây ngã xuống và bị ác thú vồ. Chúng xâu xé thân hình của lão hòa thượng với vẻ thỏa mãn khôn cùng.
Cảnh cuối là xóm làng phía Tây kia. Giờ đây, tiếng cãi cọ, chửi bới vang lên hàng ngày, vẻ mặt ai cũng đầy nét hung ác, tham lam. Họ không đi chùa, đi học nữa vì sợ cọp và cũng vì chẳng có sư trụ trì. Thay vào đó, họ đến sòng bài, kỹ viện và quán nhậu. Phong hóa, đạo đức suy đồi nên có cả những cảnh con giết cha, vợ giết chồng.
Nhương Thư giật mình mở mắt, bàng hoàng suy nghĩ. Lát sau, chàng nghiêm trang, kiên quyết phát nguyện :
– Kiếp này đệ tử nguyện tận lực giáng ma vệ đạo để chúng sinh được yên lành dưới bóng từ bi của Phật pháp, dẫu phải đọa A Tỳ cũng cam tâm.
Nhương Thư thanh thản nằm xuống đi vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, chàng lên đường, thầm nhủ sẽ trở lại trùng tu chùa, tiêu diệt đàn mãnh hổ và tìm vài nhà sư đến Đồng Phật tự chấn hưng Phật pháp, dạy dỗ trẻ thơ.
Con đường đến Càn Sơn chìm trong những cánh rừng bạt ngàn cạnh bờ Bắc Hoàng Hà, thỉnh thoảng mới có một làng nhỏ. Khi chỉ còn cách sào huyệt đối phương chục dặm, Nhương Thư xóa bỏ lớp hóa trang, búi tóc lên và kéo sụp nón tre rộng vành xuống. Dung mạo thực của chàng chẳng đến nỗi dọa khiếp lão chủ nhân của một quán trọ nhỏ dọc đường.
Đường vắng, khách thưa nên lão chủ nhân, kiêm chưởng quỹ, kiêm tiểu nhị của An Bình lữ điếm vô cùng mừng rỡ, cúi rạp người chào đón.
Đêm nay trăng đã tròn xoe, rực rỡ trên cao, soi rõ bước chân của khách dạ hành. Nhương Thư rời quán trọ, trổ khinh công lướt nhanh về hướng núi Càn Sơn. Chàng đã nhiều lần được nghe Vô Ưu Cái miêu tả sào huyệt Tứ Phạn Thiên cung nên chẳng hề bỡ ngỡ.
Cuối canh hai, Nhương Thư đã có mặt ở chân núi, êm thắm vượt qua cánh rừng nồng nàn mùi hương độc hại của Mông Hãn Hoa. Dưới ánh trăng bàng bạc, tòa nhà đá ba tầng đồ sộ kia kiêu hãnh vươn cao những góc ngói cong vút, chạm trổ hình đầu rồng. Chung quanh thạch cung là hàng trăm tiểu xá, tiểu việc xinh đẹp, tường gạch, mái ngói khang trang.
Nhương Thư không biết Độc Biển Thước ngủ ở đâu nên tìm đến nhà bếp để hỏi thăm. Nội gián của Cái bang chính là đầu bếp của Tứ Phạn Thiên cung, tên gọi Đồ Tắc Thông.
Họ Đồ đã gởi tin về Lạc Dương báo rằng thương thế của Độc Biển Thước rất nặng và dường như Kim Mẫu Trác Phụng Hoan đang muốn nhân cơ hội này sát hại Tả Nho Quan, giành lại cơ nghiệp Thiên cung. Tuy bà bị Phật Đăng Thượng Nhân phế bỏ võ công, song dưới trướng vẫn còn mấy lão Hộ cung Chân khanh võ nghệ cao cường và rất trung thành.
Nhương Thư phát hiện những toán mai phục ở quanh thạch cung và khu hậu viện, nhưng cho rằng họ phòng thủ là phải đạo.
Sau nhiều lần dụng kỳ trân như Thủy Xà Giác Huyết, Hồng Vĩ Hắc Dâm Ngư, nhãn quang Nhương Thư cực kỳ tinh tường, luôn nhìn thấy đối phương trước. Nhờ vậy, chàng dễ dàng vượt qua những chốt gác, đến được nhà bếp ở cạnh vườn hoa phía sau.
Lạ thay, ở nơi không quan trọng này cũng có phục binh, cứ như chúng đoán được rằng chàng sẽ đến tìm Đồ Tắc Thông vậy? Nhương Thư lo lắng cho an nguy họ Đồ, ẩn mình phía sau phòng tuyến mai phục mà suy nghĩ.
Chàng vận công nghe ngóng, nhờ gió Nam mà loáng thoáng nghe được tiếng đối thoại trong bếp. Giọng nói quen thuộc ấy chính là của Tả Nho Quan :
– Này Đồ lão đệ! Ngươi đã gởi tin giả về Lạc Dương, sao không thấy tiểu tử họ Tần đến?
Người kia bật cười, nói hơi lớn :
– Tả giáo chủ nóng ruột làm gì, nếu Nhương Thư trúng kế khởi hành thì Vô Ưu Cái sẽ phải báo tin cho tại hạ biết để phối hợp hành động. Mấy đêm nay, Giáo chủ bắt bọn thuộc hạ phải thức trắng thật uổng công. Vô Ưu Cái tuyệt đối tin tưởng tại hạ, tất sẽ bảo Nhương Thư đến tìm.
Nhương Thư không ngờ Đồ Tắc Thông lại phản bội Cái bang, lòng vô cùng đau đớn và chán ngán cho tình đời. Chàng đã thầm mừng vì đã lén ra đi chứ không bàn với Vô Ưu Cái, nên Hầu bang chủ chẳng kịp báo tin cho họ Đồ biết. Chim câu không thể bay đến Càn Sơn gây sự nghi ngờ, người đưa thư đã chậm hơn chàng một bước.
Đồ Tắc Thông nói tiếp :
– Giáo chủ cứ để anh em nghỉ ngơi đêm nay cho lại sức, sáng mai tại hạ xuống trấn mua thực phẩm thế nào cũng nhận được tin.
Độc Biển Thước nghe có lý, bước ra bảo bọn kiếm sĩ Thiên cung :
– Các ngươi hãy truyền lệnh giải tán, nhưng nhớ khi ngủ phải để vũ khí bên cạnh.
Bọn này đang ngáp ngắn ngáp dài, mừng rỡ đứng lên, ra ngoài truyền đạt lệnh xả hơi của thủ lĩnh.
Tả Nho Quan lại quay vào bếp nói chuyện với Đồ Tắc Thông. Nhương Thư mừng rỡ chờ toán mai phục đi khuất mới áp sát khung cửa sổ của tường bếp.
Nhận ra Tả Nho Quan và Đồ Tắc Thông đang đối ẩm ở góc Đông nam. Nhương Thư móc hai trái Bạt Sơn Thần Lựu, bấm chốt rồi ném thật mạnh. Hỏa khí chạm vào tường gạch cứng tất sẽ phát nổ lớn hơn.
Song Tả Nho Quan phản ứng cực kỳ thần tốc và xảo quyệt vì nghe tiếng động quen thuộc đã túm lấy Đồ Tắc Thông làm mộc che thân. Bay ngược về hướng Tây. Tuy nhiên, sức ép kinh hồn của Thần lựu đã làm dập phổi ác ma, đẩy lão văng đến tận bức tường bếp.
Tả Nho Quan buông xác Đồ Tắc Thông, cố gượng đứng lên đào tẩu nhưng trái Thần lựu thứ ba đã bay đến xé nát cơ thể của lão và đánh sập luôn nửa gian bếp còn lại.
Nhương Thư không dám vào vì tường bếp đang sập từng mảng, ngói rơi như mưa, đành phí thêm hỏa khí để kết liễu đời ác tặc.
Biết đã thành công, Nhương Thư lao vút về phía trước, chạy như bay trên những mái ngói, để tránh việc giết người.
Chiêng báo động vang trời, đèn đuốc sáng rực, át cả ánh trăng rằm. Âu Dương Lăng đích thân chỉ huy cuộc truy bắt thích khách, nhưng bọn thủ hạ chỉ hô hoán chứ không dám đến gần Nhương Thư. Uy lực của Bạt sơn Thần Lựu đã khiến họ thất kinh hồn vía.
Nhương Thư đã đến tòa thạch cung ba tầng, ném một lúc hai trái Thần lựu làm cho công trình rung chuyển dữ dội rồi bốc cháy.
Thấy cơ ngơi tổ truyền bị phá hủy, Âu Dương Lăng điên tiết huy động bọn Hộ cung Chân khanh bao vây Nhương Thư, mặt khác hô hào thủ hạ chữa cháy.
Chàng trai họ Tần vẫn còn hỏa khí, nắm chặt trong tay tả rồi múa kiếm phá vây. Nhương Thư chỉ cần giơ cao ống đồng đáng sợ ấy lên đe dọa là đối phương dạt cả ra, không dám liều mạng chặn đường nữa. Vạn cỗ tử vi nan, dẫu là con sâu cái kiến cũng ham sống, huống hồ là con người?
Chẳng mấy chốc, Nhương Thư đã vào được cánh rừng, thoát đi an toàn. Âu Dương Lăng uất ức mắng chửi :
– Tần Nhương Thư! Ta thề sẽ phân thây mi thành ngàn mảnh nhỏ.
Nhương Thư mỉm cười thầm nghĩ :
– “Nay Độc Biển Thước đã chết, trước sau gì ngươi cũng bỏ mạng vì chất độc trong người thôi.”
Chính vì lý do này mà chàng chẳng cần phải đích thân tiêu diệt Cung chủ Tứ Phạn Thiên cung. Nhương Thư còn hy vọng sau cái chết của Âu Dương Lăng, Thiên cung sẽ tan rã và võ lâm bớt đi một mối họa.
Chạy đã khá lâu mà không ra khỏi được khu rừng. Nhương Thư suy nghĩ và hiểu rằng mình đã vô tình lạc dần về hướng Tây bắc Càn Sơn, nơi mà rừng phủ che trùng điệp, chẳng hề có đường đi.
Vần trăng rằm đã bị mây đen che phủ, chuẩn bị đổ mưa, không gian dưới tán rừng tối đen như mực, chẳng thể nhân định phương hướng được. Nhương Thư đành tìm chỗ nghỉ ngơi và trú mưa, chờ ánh dương quang ló dạng rồi sẽ tính.
Chung quanh toàn những cây tùng suông đuột, Nhương Thư chạy tiếp để kiếm cái cây nào có chạng ba. Sấm sét nổi lên đùng đùng, ánh chớp liên tục lóe sáng khiến không gian nhập nhoạng nên Nhương Thư đã không nhận rõ địa hình trước mặt. Khi chàng phát hiện bước chân bị hụt hẫng thì đã quá muộn.
Mặt đất cứ như đột nhiên bị nứt ra, Nhương Thư rơi xuống một khe sâu hun hút và đen tối. Chàng kinh hãi than thầm, chỉ còn cách dồn hết chân khí xuống song cước, còn hay tay dang rộng, cố nắm lấy bất cứ vật gì.
Nhưng khác với lần trước, Nhương Thư rơi quá xa cách bờ vực nên không chạm phải cây cối, cứ thế gieo thẳng xuống đáy vực. May thay, chàng hạ thân xuống đúng vùng trũng nhất, đang đầy ắp nước của những cơn mưa vừa rồi. Do sức căng mặt nước, xương chân Nhương Thư gãy răng rắc, song phủ tạng chẳng thương tổn gì. Chàng mừng rỡ cố trồi lên, dùng tay bơi về về một hướng. Đến được bờ của vũng nước, lần mò kiểm tra cơ thể.
Nhương Thư thở phào vì thấy chỉ có xương đùi bị gãy, chắp tay cảm tạ Phật tổ Như Lai rồi nằm xuống nghỉ ngơi. Chàng đã sửa cho hai đoạn xương gẫy trở về chỗ cũ, nhưng phải bất động khá lâu mới bình phục được.
Gần trưa, Nhương Thư thức giấc, chàng nhẹ nhàng ngồi lên quan sát địa thế vực thẳm, tự nhủ rằng khe núi dài thườn thượt này chắc chắn phải có lối ra. Bề rộng của vực rất lớn, cây cối um tùm nên chẳng thiếu dưỡng khí. Chỉ cần tìm được thực phẩm cầm cự đến lúc xương chân liền lại là chàng có thể trở lên mặt đất.
Thú nhỏ ở dưới khe khá nhiều, Nhương Thư dùng sỏi trổ tài phóng ám khí mà săn thịt. Nửa tháng sau, chàng có thể tỳ vào hai đoạn gỗ mà đi lại thám sát địa hình. Té ra vực thẳm này chỉ có thể thoát ra bằng cách trèo qua vách. Độ cao hai chục trượng của đoạn vách phía Nam chẳng làm khó được Nhương Thư nếu chàng lành lặn. Song với đôi chân yếu ớt hiện nay, chàng đành phải bó tay, kiên nhẫn đợi chờ.
Thời gian cứ thế chậm chạp trôi qua, rồi cũng đến rằm tháng bảy. Đêm ấy, Nhương Thư nghe được những tiếng nổ ì ầm từ hướng Càn Sơn vọng lại.
Vậy là người thân của chàng vì lo lắng mà cầu viện đến quan quân Hà Nam, mang đại pháo mở đường tiến vào Thiên cung. Ở thời điểm giữa tháng bảy hàng năm, Mông Hãn Hoa héo tàn, rơi rụng và không có độc tố.
Nhương Thư đoán đúng, sự thất tung của chàng đã khiến Vô Ưu Cái phát điên lên, tụ hội quần hùng phối hợp với quan quân mà báo phục.
Ông đích thân đi điều tra, phát hiện Nhương Thư từng trọ ở An Bình lữ điếm, gởi ngựa và hành ký rồi rời nơi ấy đêm mười bốn tháng sáu.
Trinh sát Cái bang ở Sơn Trấn phía Nam núi Càn cũng xác nhận việc Thiên cung có tiếng nổ và phát hỏa giữa đêm mười bốn. Hôm sau, người của Thiên cung xuống trấn mua hai cỗ quan tài, không biết dành cho ai? Việc khó hiểu nhất là sự bặt tăm của Đồ Tắc Thông, kẻ làm nội gián cho Cái bang. Dường như lão đã chết vì Thiên cung có đầu bếp mới. Đường chính dẫn vào Thiên cung xuyên rừng theo hướng Bắc Nam, chỉ rộng mười bốn bước chân và được phòng thủ nghiêm mật. Bọn Vô Ưu Cái tiến vào bằng lối này, nhờ đại pháo mà mau chóng đè bẹp sự kháng cự của đối phương.
Biết thế đã cùng, Âu Dương Lăng quyết định bỏ của chạy lấy người, mặc cho sào huyệt bị san phẳng.
Thiết Kình Ngư may mắn bắt được một gã thủ hạ Thiên cung, đem ra tra khảo. Gã quắc đôi mắt hổ nghiến răng đe dọa :
– Nếu ngươi không thành thực khai báo thì lão gia thề sẽ bẻ gẫy từng đốt xương của ngươi đấy.
Vẻ hung ác của ánh mắt đổ lửa đã khiến gã tù binh run bần bật, thề thốt rằng sẽ chẳng nói láo nửa lời. Nghe hỏi, gã liền kể lại cuộc chiến đêm mười bốn tháng sáu, khẳng định Tần Nhương Thư dùng hỏa khí giết xong Độc Biển Thước và Đồ Tắc Thông, thoát đi an toàn.
Vô Ưu Cái ngơ ngác :
– Lạ thực! Thế thì y đi đâu mà không trở về Lạc Dương?
Bất Trí thư sinh cau mày hỏi gã tù binh :
– Thế lúc thoát ra, Tần Nhương Thư đi theo hướng nào?
Gã kia đáp ngay :
– Dạ bẩm hướng Nam.
Thực ra gã không hề biết nhưng vẫn sốt sắng trả lời để khỏi ăn đòn. Nhương Thư càng nhiều hy vọng sống sót thì mạng gã may ra mới vẹn toàn. Trong lòng, gã cũng đoán rằng tên tiểu tử họ Tần kia không thấy đường nên rơi xuống vực thẳm trong khu rừng rậm phía Tây bắc. Nhưng gã dại gì mà khai để mang họa vào thân.
Phương trượng chù Thiếu Lâm, Khánh Hỉ đại sư cũng có mặt trong cuộc chinh phạt này. Ông hiền hòa bảo :
– Tần thí chủ phúc tướng sâu dầy, chẳng thể yểu mạng được. Dẫu có gặp tai ương cũng sẽ vượt qua, chư vị bất tất phải quá lo lắng như thế.
Ông nói vậy thì thấy Bạch Thúy Sơn nhỏ lệ khóc như mưa. Nàng không khóc thành tiếng nhưng sắc diện cực kỳ thống khổ khiến ai cũng phải mủi lòng. Thúy Sơn đã mang theo một dải khăn tang, chỉ cần xác định được rằng Nhương Thư về suối vàng là nàng sẽ tự sát đuổi theo ngay.
Nay thực hư chưa rõ, Thúy Sơn tuy tràn trề hy vọng nhưng nỗi khổ đau chẳng hề giảm sút. Bất giác nàng đau đớn gọi vang :
– Nhương Thư! Chàng ở đâu?
Hoàng Nghi Tuyệt nghe tin Nhương Thư thất tung đã vội đến Lạc Dương để cùng tham gia chiến dịch càn quét Thiên cung. Gã là kẻ có tính tình cô độc, chỉ xem mình Nhương Thư là bằng hữu sinh tử chi giao, cho nên, cái chết của chàng là nỗi mất mát lớn lao nhất đời, chẳng thua gì lúc Đao Đế thăng thiên.
Song gã là nam nhi nên không bi lụy như đàn bà, bình tâm suy nghĩ và buột miệng nói :
– Nhương Thư còn một trái Bạt Sơn Thần Lựu, dẫu gặp bất cứ cao thủ nào cũng không đáng sợ.
Mọi người tán thành, yên tâm rút quân, sau khi phá hủy tất cả những công trình lớn nhỏ của Thiên cung. Tội cho tòa thạch cung, đang sửa chữa dở dang thì lại bị đại pháo bắn sập.
Hoàng Nghi Tuyệt đã không ngờ rằng Bạt Sơn Thần Lựu cũng có lúc vô dụng. Sáng hôm ấy, khi nghe tiếng đại pháo ngưng nổ, Nhương Thư biết phe nhà đã thành công, liền ném trái Thần lựu để gây sự chú ý của người thân.
Chàng vận toàn lực tung mạnh hỏa khí lên miệng vực, nhưng chân gẫy chưa lành, không thể xuống tấn, chỉ tựa vào đoạn cây ở vách trái nên lực đạo không đủ. Thần lựu chỉ bay đến gần mép vực thì rơi xuống, còn cách mặt đất bốn trượng, chạm phải tảng đá lồi và phát nổ.
Tất nhiên tiếng nổ kia chỉ làm điếc tai Nhương Thư chứ không đi xa được. Vả lại, khe sâu này cách Càn Sơn đến mười mấy dặm rừng dầy đặc. Chàng cố vớt vát bằng cách vận công hú vang.
Lạ thay, có tiếng người phúc đáp ngay lập tức :
– Tiểu tử kia, ngươi là ai mà dám đến đây quấy nhiễu lão phu? Chỉ chút nữa là ta tẩu hỏa nhập ma rồi.
Lời chửi mắng kia xuất phát từ một động khẩu trên vách cách vực trước mặt Nhương Thư, cách đấy chừng ba trượng, khá gần với chỗ mà Bạt Sơn Thần Lựu phát hỏa.
Trước đây, động khẩu này bị dây leo che phủ chằng chịt nên Nhương Thư không thể ngờ rằng có người cư trú. Chắc ông ta là bậc kỳ nhân tuyệt thế.
Trong cảnh tuyệt vọng mà gặp người thì còn niềm vui nào bằng. Nhương Thư hoan hỉ vái dài :
– Bẩm tiền bối! Vãn bối bị rơi xuống vực không sao lên được nên đành phải dùng hỏa khí để cầu cứu. Mong tiền bối tha thứ cho tội quấy nhiễu chốn thanh tu.
Người kia giận dữ nhảy xuống, hạ thân êm ái như lá mạ trên mặt cỏ. Ông ta nhảy đông đổng chửi tiếp :
– Ngươi mù hay sao mà dám gọi ta là tiền bối? Bộ trông ta già lắm hay sao?
Nhương Thư sửng sốt, ngơ ngác khi thấy đối phương chỉ cao đến ngực mình, mặt mũi xinh đẹp, da dẻ trắng trẻo mịn màng như đứa trẻ mười ba. Tuy nhiên, gương mặt tiên đồng kia hơi quái dị vì có đến hai cặp lông này chữ nhất đen nhánh. Cặp thứ nhất nằm ở vị trí bình thường, còn cặp thứ hai kéo từ mi tâm đến góc trán.
Ký ức tuyệt luân của Nhương Thư phản ứng rát nhanh. Chàng thảng thốt kêu lên :
– Ải Thần Quân!
Ân sư chàng thưòng kể về nhân vật độc đáo này. Ông ta tên gọi Tần Nhật Phủ, bằng tuổi Phật Đăng Thượng Nhân, nghĩa là năm nay đã chín mươi hai. Họ Tần tính tình quái dị, hiếu thắng, hiếu sát, nhưng chỉ giết bọn ác nhân. Ông từng thách đấu với bốn người trong Vũ Nội tứ thần, bị đả bại nên phẫn chí thoái xuất giang hồ đã hơn ba chục năm. Bỏ đi đâu chẳng rõ.
Ải Thần Quân không ngờ là gã tiểu tử kia lại nhận ngay ra mình, liền hiếu kỳ hỏi :
– Ngươi là đồ đệ của ai mà lại biết lão phu?
Nhương Thư kính cẩn đáp :
– Bẩm tiền bối! Vãn bối tên gọi Tần Nhương Thư, học trò của Phật Đăng Thượng Nhân núi Ngũ Đài sơn.
Mối hận năm xưa trỗi dậy, Ải Thần Quân nhảy loi choi, chửi bới xối xả :
– Té ra lão trọc Đinh Doãn! Năm xưa cũng vì lão ấy mà Ải Thần Quân ta phải phẫn chí rời bỏ Trung Nguyên, lưu lạc nơi đất khách quê người. Ta chỉ xin lão đổi Tứ thần thành Ngũ thần để Tần mỗ có chân, thế mà lão hẹp hòi chẳng chịu. Thật là đồ hòa thượng đáng ghét.
Nhương Thư mỉm cười :
– Tiên sư có kể lại yêu cầu của tiền bối. Song việc ấy là do sự phong tặng của đồng đạo võ lâm, tiên sư nào có quyền gì?
Ải Thần Quân kinh hãi :
– Cái gì mà tiên sư? Chẳng lẽ lão trọc họ Đinh đã chết rồi?
Nhương Thư lặng lẽ gật đầu, Thần Nhật Phủ hấp tấp hỏi thêm :
– Thế còn ba lão quỷ kia thì sao?
Nhương Thư đáp :
– Đao Đế và Địch Thánh cũng đã tọa hóa, chỉ còn mình Hồng Diện Tôn Giả tại thế, song ông ta quyết chí tu hành, chẳng màng đến sự đời nữa.
Ải Thần Quân thất vọng nói lẩm bẩm :
– Thế là công toi lão phu khổ luyện mấy chục năm, giờ còn ai để rửa hận nữa?
Lão tần ngần suy nghĩ một lúc, mắt dán vào mặt Nhương Thư, đôi mắt đẹp chợt lóe lên những tia tinh quái. Và Ải Thần Quân bỗng hỏi :
– Tiểu tử kia! Ngươi có đồng ý bái lão phu làm sư phụ hay không?
Nhương Thư giật mình ấp úng :
– Bẩm tiền bối! Thư này đã có thầy, đâu thể đầu nhập cửa khác được.
Ải Thần Quân cười khanh khách :
– Ngươi không muốn cũng không được.
Và ông bất thần ập đến, song trảo dương ra, xạ liền tám đạo chỉ kình xé gió.
Cách Không Chỉ Giáp đã thất truyền cả trăm năm nay, nào ngờ Ải Thần Quân lại luyện thành. Nhương Thư đi lại còn khó khăn nên không tài nào tránh nổi, bị trúng ba chỉ, thân hình tê tái, bất động.
Ải Thần Quân đắc ý bước đến sờ nắn gân cốt và thăm dò công lực Nhương Thư. Ông tấm tắc khen :
– Mới từng tuổi này mà đã có đến gần năm mươi năm chân khí thì quả là hãn thế! Gân cốt y thuộc hàng thượng thặng, mặt mũi phúc hậu, xứng đáng làm hóa thân cho lão phu.
Nhương Thư không hiểu, ngơ ngác hỏi lại :
– Tiền bối định làm gì Tần mỗ?
Ải Thần Quân cười ha hả, hoa tay múa chân, sôi nổi giải thích :
– Trời sinh lão phu anh tuấn hơn người nhưng cơ thể thấp bé, chịu nhiều thiệt thòi. Nay ngươi cũng họ Tần, khiến lão phu nghĩ ra một kế hoạch vô cùng tuyệt diệu. Lão phu lưu lạc sang Ba Tư học được Di Hồn đại pháp nên sẽ biến ngươi thành một Tần Nhật Phủ hiên ngang anh tuấn, dương danh thiên hạ.
Lão dừng lại rồi hớn hở nói như tự nhủ :
– Hay thực! Lúc ấy nữ nhân trong võ lâm sẽ say mê như điếu đổ, bu lại như ruồi, tha hồ cho ta lựa chọn.
Bỗng lão đổi sắc giọng, chửi đổng :
– Mả mẹ nó! Năm xưa, bọn đàn bà con gái chê lão phu lùn, chỉ đứng đến vú họ, nên không thèm để ý.
Nhương Thư nhân hậu có thừa, rất thông cảm với tâm trạng của người khiếm khuyết. Chàng không giận mà dịu giọng giãi bày :
– Vãn bối cũng có chút danh tiếng, dung mạo ai cũng biết, làm sao giả làm tiền bối được?
Ải Thần Quân mỉm cười ranh mãnh :
– Ngươi lầm rồi! Tài dao kéo của lão phu vốn đứng đầu thiên hạ, đã ra tay thì không thể chê được! Lúc ấy, ngay vợ ngươi cũng chẳng nhận ra chồng mình được.
Nhương Thư bắt đầu lo sợ, bối rối trước âm mưu quái đản của đối phương. Chợt chàng nhận ra mình bị đôi mắt của Ải Thần Quân thu hút, chưa kịp quay đi thì đã mê muội.
Ải Thần Quân hài lòng vác Nhương Thư nhảy lên động khấu. Mang một người mà bay cao đến ba trượng thì thật đáng khâm phục. Xem ra bản lãnh Ải Thần Quân còn cao hơn cả Phật Đăng Thượng Nhân rồi.
Trong suốt nửa năm trời, Ải Thần Quân dùng Di Hồn đại pháp để truyền tuyệt học cho Nhương Thư. Chỉ có cách này mới rút ngắn được thời gian. Ông thôi miên chàng, đọc thầm khẩu quyết và giảng giải động tác.
Kỳ diệu thay, Nhương Thư học thuộc rất dễ dàng, tinh thông như chính bản thân Thần quân vậy. Chàng bị khống chế tâm thức nên rất hiền lành, ngoan ngoãn, gọi Thần quân là cha vì lão muốn thế.
Lúc đầu chỉ là chút trò đùa ngông cuồng, song dần dà Tần Nhật Phủ cảm động trước lòng hiếu thuận của Nhương Thư và yêu chàng như con ruột. Tuy nhiên, lão vẫn không từ bỏ kế hoạch oái oăm của mình, tiến hành giải phẩu, sửa đỗi gương mặt của Nhương Thư. Từng nét một, Tần Nhật Phủ thứ hai ra đời.
Ải Thần Quân sang Ba Tư về, đến ranh giới giữa A Phú Hãn và Trung Hoa thì gặp dãy Tứ Trụ Phong. Trong lúc săn thịt, đuổi theo một con thỏ, họ Tần đã lạc vào nơi Sấu Tiên tọa hóa, học được Huyền Không kiếm pháp và Lục Mạch thần chỉ.
Pho chỉ pháp này vốn xuất xứ từ Lục Mạch thần chỉ của giòng họ Đoàn nước Đại Lý. Sau khi Đại Lý bị quân Mông Cổ tiêu diệt thì tuyệt học thất truyền. Sấu Tiên Vương Hàn Lâm vốn là người Vân Nam, may mắn nhặt được tàn thư, khổ công nghiên cứu, bổ khuyết nên phục hồi được Lục Mạch thần chỉ.
Nhưng mãi đến khi ông ẩn cư thì mới thành công, do vậy trong võ lâm không ai biết việc này.
Ải Thần Quân truyền thụ khinh công, kiếm pháp và cả chỉ pháp cho Nhương Thư.
Đến rằm tháng giêng năm sau, thấy con nuôi đã học hết nghề của mình, Thần Nhật Phủ liền đưa chàng lên mặt đất.
Đoạn ký ức dưới vực thẳm lại bị xóa đi, trừ võ công. Giờ đây, Nhương Thư chỉ nhớ được rằng mình là Tần Nhật Phủ, người đất Trường Trị, đất Sơn Tây, hai mươi bốn tuổi, mồ côi cha mẹ từ nhỏ.
Chàng thức giấc trong một quán trọ cạnh An Dương vài chục dặm. Nhương Thư thản nhiên thanh toán tiền trọ, lên ngựa tiến về hước Bắc. Chàng cũng không hề thắc mắc khi thấy trong bọc có vạn lượng vàng ngân phiếu và rất nhiều châu báu.
Ba tháng sau, thanh danh của Tứ Mi Ngọc Diện kiếm khách Tần Nhật Phủ đã vang lừng đất Hà Bắc. Chàng ta có võ nghệ siêu phàm, tính tình hiệp nghĩa và ăn xài rộng rãi như vương tôn công tử.
Cặm lông mày kép của họ Tần chẳng hề làm giảm sút vẻ đẹp thiên thần, ngược lại còn tạo cho chàng vẻ đặc biệt, siêu nhân.
Trên đường từ An Dương đến Bắc Kinh, Tần Nhật Phủ liên tiếp phá tan mấy chục ổ cướp, tiêu diệt mười tám cao thủ hắc đạo thành danh, và đem tài sản của nạn nhân phân phát cho dân nghèo.
Cái danh hiệu Tứ Mi Ngọc Diện kiếm khách lại đúng là của Tần Nhật Phủ thời trai trẻ. Sau này, lão giết người nhiều quá, chọc ghẹo thiên hạ cũng không ít, nên bị gọi là Ải Thần Quân.
Mấy tháng nay, Cái bang đã tung toàn lực truy tìm tung tích Nhương Thư, vì thế, Phân đà Hà Bắc lập tức thông báo cho Vô Ưu Cái biết mọi chi tiết về ngôi sao mới tỏa sáng là Tần Nhật Phủ.
Tại sao vậy? Bởi vì Tứ Mi Ngọc Diện kiếm khách có đôi tai Phật giống hệt Nhương Thư. Hai là giọng nói Tần Nhương Thư cũng chẳng hề khác.
Người thân của Nhương Thư đang mỏi mòn trong hy vọng mơ hồ, liền bá víu lấy tin này như chiếc phao giữa biển khơi.
Đại cục võ lâm đang hồi rối ren nên các Chưởng môn Bạch đạo ở cả Thiếu Lâm tự để trù hoạch kế sách. Nhận được thư mời của Vô Ưu Cái, họ mau chóng có mặt ở Lạc Dương.
Hầu bang chủ kể rõ cho bốn vị khách quý nghe về hiện tượng Ải Thần Quân tái sinh rồi hỏi :
– Trong bốn vi ai là người năm xưa có dịp tiếp xúc với Ải Thần Quân nhiều nhất, xin cho biết cao kiến về tính cách của lão ta.
Thông Thiên chân nhân, Chưởng môn phái Võ Đang, vuốt râu đáp :
– Tần lão thí chủ vốn là bằng hữu của tiên sư, từng ghé chơi Ngọc Nữ Phong nhiều lần, nên bần đạo có biết đôi chút.
Ông chậm rãi hớp trà rồi nói tiếp :
– Ải Thần Quân tính tình cổ quái, thích làm chuyện ngông cuồng nhưng không phải là người xấu. Lão thí chủ ấy từng ăn được một trái Vô Thu Quả nên mãi mãi giữ được tuổi xuân. Có lẽ Thần quân còn sống, nổi tính trẻ con nên đào tạo ra một hóa thân để chọc phá thiên hạ.
Bất Trí thư sinh thở dài :
– Lập luận của đạo trưởng rất chí lý, nhưng kẻ ấy là Nhương Thư thì rất khó xảy ra, trừ phi Ải Thần Quân tinh thông cả nghề cải sửa dung mạo lẫn phép Nhiếp Hồn.
Phổ Chứng thiền sư lên tiếng :
– Đúng thế! Nhưng theo lão nạp được biết thì Ải Thần Quân không hề luyện hai công phu ấy.
Vô Ưu Cái cười mát :
– Ba mươi năm đủ để một nhân vật tài hoa như Tần Nhật Phủ luyện thành vài môn tuyệt học. Lão phu tin chắc rằng Nhương Thư hiền đệ đã xui xẻo lọt vào tay lão ta và trở thành công cụ để thực hiện kế hoạch hóa thân.
Thấy cử tọa lộ vẻ nghi ngờ, Vô Ưu Cái buồn rầu bảo :
– Lão phu cũng chỉ đoán mò thế thôi, phải giáp mặt và tiếp cận Tần Nhật Phủ thì mới biết hư thực.
Thúy Sơn nóng nảy nói :
– Tiểu muội phải đi Bắc Kinh mới được.
Bất Trí thư sinh hưởng ứng :
– Lão phu sẽ đi với Bạch hiền muội. Nếu Tần Nhật Phủ đúng là Nhương Thư thì không thể thoát khỏi cặp mắt của lão phu.
Vô Ưu Cái gật đầu dặn dò :
– Lão đệ cứ đi. Dẫu Tứ Mi Ngọc Diện kiếm khách không phải là Nhương Thư cũng phải đưa gã về đây bằng mọi giá. Nếu để Kỵ Ba Thần Quân lôi kéo được một đại cao thủ kiệt xuất như gã thì chúng ta nguy mất.
Phổ Chứng thiền sư, Chưởng môn phái Nga My tán dương :
– Thiện tai! Thiện tai! Hầu lão thí chủ quả là người tâm mưu viễn lực, lúc nào cũng nghĩ đến đại cục võ lâm trước.
Được khen, Vô Ưu Cái hơi ngượng, liền trợn mắt nói :
– Hòa thượng ngươi đừng học thói vuốt mông ngực khiến lão phu hổ thẹn. Nếu lão phu có thực tài thì đâu đến nỗi bị Âm Sơn lão tổ nắm gáy? Không hiểu sao lão ta lại phát hiện Trung Nguyên Cao Sĩ Phương Tử Kiến là người của chúng ta và đang thực hiện kế Tá Đao Sát Nhân. Thế nên Lương Dã Toàn cứ nằm lì ở Cô Ðộc bảo hưởng thụ, chẳng thèm khởi binh chinh phạt Kỵ Ba Thần Quân, mặc cho Sơn Hải giáo bành trướng khắp Sơn Đông, Giang Tô và lăm le uy hiếp Cưu Sơn. Hôm qua, Lão tổ đã gửi thư đến đòi năm vạn lượng vàng và chức Minh chủ võ lâm, có thế lão mới chịu đánh nhau với Sơn Hải giáo.
Cử tọa nghe xong tin này kinh hãi ồ lên. Khánh Hỉ đại sư bối rối hơn :
– Chúng ta có thể đặc cách trao tặng danh vị quyền Minh chủ võ lâm cho Lão tổ, nhưng như thế thì khác nào giao trứng cho ác?
Các vị Chưởng môn còn lại trong hội đồng võ lâm đều cùng một ý ấy. Bất Trí thư sinh cau mày tư lự :
– Lạ thực! Mưu kế này được tiến hành rất tinh vi, chu đáo, làm sao có thể bại lộ được? Chẳng lẽ một kẻ quê mùa, thô mảng như Âm Sơn lão tổ lại thông minh hơn Quách Tàn Bôi và Nghiên Tái Thuần?
Vô Ưu Cái mỉm cười thê lương :
– Có điều gì khó hiểu đâu? Trong hai người ấy có kẻ đã phản bội lại võ lâm Trung Nguyên, khiến chúng ta lâm cảnh rước hổ vào nhà.
Cả bàn tái mặt nhìn nhau, riêng Cao Trường Toản run giọng :
– Tiểu đệ nuôi dưỡng Thuần nhi đã lâu, tin chắc rằng y không phải là kẻ đốn mạt.
Thúy Sơn cười lạnh :
– Tiểu muội thì lại tuyệt đối tin tưởng Quách đại ca. Lão vốn là người có bản chất anh hùng, lại cảm kích tấm lòng tri ngộ của Nhương Thư, dẫu chết cũng không lỗi đạo. Khi đồng hành với chúng ta, Quách Tàn Bôi được cả võ lâm kính trọng, sao lại đánh mất vinh dự ấy? Lão đã già rồi, còn cần gì tài lợi hay tuyệt học nữa? Ngược lại, Nghiên Tái Thuần có nhiều điều để ham muốn.
Nàng phân tích rất rạch ròi, hữu lý, khiến Bất Trí thư sinh hiểu ra vấn đề. Lão toát mồ hôi lẩm bẩm :
– Thuần nhi! Ngươi đã hại lão phu rồi.
Trong cảm giác nhục nhã vô cùng, uất khí công tâm khiến Cao Trường Toản hộc máu gục xuống bàn.
Phổ Chứng thiền sư ngồi bên cạnh vội truyền chân khí cứu Bất Trí thư sinh hồi tỉnh. Họ Cao buồn bã vái Vô Ưu Cái, nói với giọng nghẹn ngào :
– Hầu đại ca, tiểu đệ bất tài nên đã phụ lòng tin tưởng của đại ca và võ lâm. Tiểu đệ sẽ đi ngay Khai Phong bắt gã đệ tử phản phúc kia.
Hầu Mộ Thiên cười nhạt :
– Cha sinh con, trời sinh tính, ngươi chẳng có lỗi gì cả. Thực ra, ngươi có đến Cô Ðộc bảo cũng chỉ uổng công mà thôi. Khi lòng người đã tráo trở thì tình nghĩa sư đồ chẳng đáng một xu. Chi bằng ngươi đem tài trí bày thần mưu diệu kế mà trừng trị phản đồ chẳng hơn hay sao? Hay là ngươi đã dốc túi truyền hết nghề nên giờ phải bó tay?
Câu khích tướng của Hầu bang chủ khiến Bất Trí thư sinh tỉnh táo lại. Họ Cao gượng cười :
– Hầu đại ca quả có tài miệng lưỡi. Tiểu đệ xin tuân mệnh.
Gã cau mày suy nghĩ một lúc rồi trình bày kế sách :
– Xét ra, việc Nghiên Tái Thuần phản bội chỉ là chuyện nhỏ. Trước mắt chúng ta phải làm cho Âm Sơn lão tổ và Kỵ Ba Thần Quân tương tranh cái đã. Thiển ý của lão phu là thế này…!
Nghe xong, cả nhà gật gù khen ngợi.