Thấy rõ năm chữ này, lập tức Tả Đăng Phong cầm lấy cuộn thẻ tre trở lại đông phòng, đốt bếp lên, mượn ánh sáng từ bếp truyền đến bắt đầu đánh giá thẻ tre, gỡ sạch bùn đất, Tả Đăng Phong phát hiện có tổng cộng tám mươi mốt cái thẻ tre, mỗi thẻ tre có chiều dài vượt quá một bàn tay, chúng được cuốn lại thành một bó vừa thô vừa dài, so với các loại thư tịch tra cứu bình thường thì còn lớn hơn nhiều. Bùn đất được trát kín lên bó thẻ tre vậy mà cùng với pho tượng thần Nguyên Thủy Thiên Tôn tạo thành tỷ lệ rất cân xứng, như là cùng một thể, đây cũng là nguyên nhân làm cho Tả Đăng Phong không có chút nghi ngờ về nó.
Toàn bộ thẻ tre trải ra, tổng độ dài gần một mét, thẻ tre la do Thanh Trúc gọt chế mà thành, có màu thanh vàng, mỗi thẻ dài chừng hai mươi mấy centimet, bề rộng chừng hơn 1cm, cứ mỗi một cái thẻ trúc đều có hai mươi mấy chữ nhỏ màu hồng; loại thẻ tre cổ đại, bình thường có số lượng chữ gấp đôi sau này, nên chữ viết đặt biệt nhỏ, Tả Đăng Phong phi thường cố gắng mới có thể thấy rõ chữ viết trên mặt thẻ.
Đọc lướt qua thẻ tre, Tả Đăng Phong xác định đây là một quyển thẻ tre ghi lại đạo thuật từ thời cổ đại, tám mươi mốt thẻ tre có số chữ không quá hai nghìn, ghi lại đạo thuật thâm ảo khó hiểu, từng chữ cũng phải cần cẩn thận cân nhắc, nhưng làm cho Tả Đăng Phong đau đầu nhất là văn tự trên thẻ trúc không có dấu ngắt câu, giữa hai câu nhận biết chỉ là một khoảng cách kéo ra rất nhỏ, cách viết và thói quen đọc hiện giờ làm Tả Đăng Phong liên tục phạm lỗi, cùng đường hắn đánh phải lấy giấy bút sao chép, tách câu ra. Sao chép hai ngàn chữ, mãi cho đến mặt trời ngày hôm mọc lên hắn mới viết xong, lúc này đối với đạo thuật ghi lại trên quyển thẻ tre hắn đã có chút minh bạch.
Âm Dương Sinh Tử Quyết thật ra là Âm Dương Quyết cùng Sinh Tử Quyết gọi chung lại. Âm Dương Quyết có thể phân rõ âm dương, Sinh Tử Quyết có thể định sinh tử. Nói ngắn gọn Âm Dương Quyết là nhìn thấy được sự vật và phân tích sự vật, mà Sinh Tử Quyết thì xử lý sự vật và cải biến (thay đổi) sự vật.
Nửa phần trước của thẻ tre biểu đạt lý giải của Xiển Giáo đối với vạn vật thế gian; như trên đó viết: vạn vật đều do khí tạo thành, cái gọi là khí cũng không phải đơn giản chỉ là không khí chúng ta hít thở, mà là chỉ loại vật chất nhỏ nhất, cơ bản nhất mắt thường không nhìn thấy cấu thành, hợp thì hữu hình, tan thì vô hình. Điều này tương tự như lý luận của triết học, sử dụng Âm Dương Quyết để quan sát sự vật, sử dụng Sinh Tử Quyết để thay đổi sự vật.
Phần giữa thẻ tre ghi lại hai loại phương pháp Luyện Khí, loại phương pháp thứ nhất thông qua ngồi thiền cùng ý niệm dẫn đường, tự đưa máu huyết chuyển thành nguyên khí chứa đựng ở đan điền khí hải. Loại phương pháp thứ hai thông qua điều chỉnh thay đổi tiết tấu hô hấp, lấy phương thức thổ nạp hấp thu khí tức ở bên ngoài có lợi với bản thân. Khí được hấp thu thông qua phương pháp này chứa đựng ở đan điền, nhưng chúng không phải là nguyên khí mà được gọi là Linh Khí. Nói đơn giản hơn, nguyên khí là do tự thân, là tiên thiên hình thành. Linh khí là ngoại giới, là Hậu Thiên hấp thụ. Nguyên khí có thể chuyển hóa thành linh khí, nhưng linh khí thì không có cách nào chuyển hóa thành nguyên khí. Nguyên khí bị tổn hại thì có thể thông qua tự thân trao đổi chất mà chữa trị; còn linh khí sau khi tiêu hao hết, có thể thu nạp khí ở ngoại giới, trong thời gian ngắn tiến hành bổ sung.
Thông qua cô đọng nguyên khí hoặc hấp thu linh khí, có thể chứa được một lượng lớn khí ở đan điền khí hải. Những khí này phần lớn đều là linh khí từ ngoại giới hấp thu vào. Nếu linh khí bị tiêu hao hết thì có thể thông qua phương pháp tiêu hao: dùng nguyên khí bản thân tự chuyển thành linh khí tiếp tục sử dụng, nhưng loại phương pháp này tương đối nguy hiểm. Thứ nhất: nguyên khí bị tổn hại thì khôi phục chậm chạp, thứ hai: nguyên khí tiêu hao quá độ thì rút ngắn tuổi thọ của con người. Mục đích của Luyện Khí cuối cùng là ở đan điền chưa đựng linh khí, chỉ có linh khí đạt được số lượng nhất định, độ tinh thuần tới trình độ nhất định thì mới có thể thi triển Âm Dương Quyết và Sinh Tử Quyết. Nói ngắn gọn: sử dụng hai loại pháp quyết Luyện Khí cơ sở có thể tu hành ra linh khí..
Phần sau thẻ tre ghi lại cặn kẽ kỹ xảo tu hành và phương pháp sử dụng Âm Dương Quyết và Sinh Tử Quyết. Âm Dương Quyết chỉ có một thức tu hành và một khẩu quyết để sử dụng, theo sự đề cao tu vi linh khí của bản thân, ban đầu có thể làm bản thân người tu hành tăng thị giác, khứu giác, thính giác, vị giác… lên nhiều lần, làm tăng mạnh khả năng nhạy cảm quan sát sự vật thuộc tính dương. Trung kì có thể thông qua mắt thường quan sát được sự vật thuộc tính âm mà người thường không nhìn được, luyện đến mức tận cùng có thể giúp con người tránh hung tìm cát, lúc này bản năng hoàn toàn kích phát ra, chỉ bằng vào cảm giác có thể đoán chính xác sự vật âm dương, cát hung, thiện ác. Tên Âm Dương Quyết cũng vì vậy mà ra.
Sinh Tử Quyết cũng chỉ có một bí quyết tu hành cùng một khẩu quyết để sử dụng. Sinh Tử Quyết cũng chia ra làm ba giai đoạn tu hành, trên thẻ tre ghi nguyên văn: “Nguyên thủy sinh tam chính, tam chính hóa Chí Tôn, Chí Tôn huyễn vô cùng” ý nghĩa của Cổ ngữ quá nhiều, cần cẩn thận nghiên cứu. “nguyên thủy” có thể lý giải “số một” (là một, là khởi nguyên, là ban đầu, sơ khởi), “tam chính” có lẽ chỉ Thiên, địa, nhân, đại biểu là “số ba” (chữ tam trong tam chính), “số chín” là số lớn nhất trong dãy số, vì vậy Chí Tôn có thể đại biểu cho “số chín”; “vô cùng” ở thời cổ đại đươc dùng phép ẩn dụ cho chín lần chín tám mươi mốt.
Nếu như dựa theo ý tứ của mặt chữ mà hiểu, Sinh Tử Quyết giai đoạn sơ cấp có thể làm lực lượng bản thân tăng mạnh: có thể nhảy cao, tốc độ di chuyển và sự chịu đựng của cơ thể cao hơn bình thường khoảng ba lần. Tương ứng thời gian phản ứng trước sự việc sẽ giảm đi ba lần. Trung kì là chín lần, đến giai đoạn này có thể đưa linh khí chứa đựng trong cơ thể phóng xuất ra ngoài, lúc này dĩ nhiên đã vượt qua cực hạn của thân thể con người. Sinh Tử Quyết luyện đến mức tận cùng có thể đưa tiềm lực con người đề cao đến tám mươi mốt lần, điều này chỉ có tiên nhân trong truyền thuyết mới có khả năng. Mặc dù không thể thay đổi Càn Khôn, nhưng đủ để tu bổ, thay đổi âm dương; hơn nữa có thể dễ dàng nắm sinh tử của người khác trong tay nên mới được gọi là Sinh Tử Quyết
Nội dung trong thẻ tre cũng không ghi lại quá nhiều chiêu số và chiêu thức, Âm Dương Quyết chỉ có một thức, Sinh Tử Quyết cũng như vậy chỉ có một thức mà thôi. Đối với điều này, Tả Đăng Phong cho là nên như thế, bởi vì ngày hôm qua, đạo nhân tiếp khách từng nói qua sự tình Nguyên Thủy Thiên Tôn. Nguyên Thủy Thiên Tôn đã được gọi là nguyên thủy, nên sở học đạo thuật của môn nhân Xiển Giáo sẽ không quá nhiều chiêu số lòe loẹt.. Một thức Âm Dương Quyết có thể phân rõ âm dương, một thức Sinh Tử quyết có thể định sinh tử, đơn giản mà bá đạo, đây chính là bổn nguyên tu hành. Đợi đến ngày sau, pháp thuật đại thành là có thể tự mình lĩnh ngộ ra nhiều phương pháp và chiêu thức
Đạo thuật ghi lại trên thẻ tre làm Tả Đăng Phong vô cùng cao hứng, chỉ cần học được pháp thuật trên thẻ tre, cho dù chỉ là giai đoạn đầu của pháp thuật cũng đủ để hắn báo được đại thù. Thế nhưng hiện tại hắn lại gặp ba vấn đề nan giải.
Thứ nhất: trên thẻ tre có ghi rõ thời gian tu hành cần thiết: ba năm, chín năm, tám mươi mốt năm. Chỉ có thể theo tuần tự mà tiến hành, nếu tùy tiện vượt cấp; thân thể, trái tim, xương cốt, kinh mạch không thể thừa nhận được áp lực tăng nhanh đột ngột. Lấy chạy bộ làm ví dụ: mỗi giờ một người có thể chạy hai đến ba mươi dặm, nhưng nếu dựa vào sinh tử quyết luyện đến trung kì, mỗi giờ có thể đi đến ba trăm dặm, dưới tình huống này, trái tim và xương cốt con người không thể thừa nhận áp lực lớn như vậy được. Tám mươi mốt năm, Tả Đăng Phong không dám nghĩ, bởi vì hắn lo lắng mình không có sống dai như vậy.
Khó khăn thứ hai là: yêu cầu về cảm xúc đối với người tu hành Âm Dương Sinh Tử Quyết cực cao, lòng phải yên tĩnh như nước, bằng không sẽ không có cách nào lấy được đạo khí; thêm nữa, nếu tâm hỗn loạn, thì rất dễ xảy ra khả năng linh khí sai đường mà bị tẩu hỏa nhập ma. Vấn đề nữa, chính là Tả Đăng Phong không rõ huyệt vị và kinh lạc ghi trên thẻ trúc nằm ở nơi nào trên cơ thể.
Điều làm Tả Đăng Phong đau đầu nhất là: thẻ tre này rõ ràng cho thấy sư phụ Vu Tâm Ngữ để lại cho Vu Tâm Ngữ, pháp môn cô đọng nguyên khí này chính là dùng máu hóa khí, nói đến âm dương cũng không phải Tả Đăng Phong một chút cũng không hiểu; hắn biết mình là nam nhân, hẳn là phải luyện tinh hóa khí chứ không phải lấy máu hóa khí. Nếu dựa theo phương pháp tu luyện trên thẻ tre, Tả Đăng Phong lo lắng mình sẽ biến thành tên yêu quái bất nam bất nữ.
Không biết huyệt vị và kinh lạc có thể rời núi tìm người hỏi, hiện tại trung y thịnh hành, là một trung y ắt hẳn phải nắm rõ những thứ này. Nếu quả thật cần thiết thì có thể ở trong núi tu luyện ba năm, chờ khi Sinh Tử Quyết hơi có chút thành tựu thì có thể tìm Đằng Khi. Tâm không yên ổn, có thể từ từ điều chỉnh, đây cũng không phải là vấn đề, điều quan trọng nhất là: vạn nhất tu luyện pháp môn sai lầm thì xem như toàn bộ tiêu rồi.
Một đêm không chợp mắt, Tả Đăng Phong cảm thấy bế tắc, đứng dậy đi đến nam phòng, Thập Tam đang nằm chỏng vó ngủ trên gường sưởi. Sau khi Vu Tâm Ngữ mất đi, Tả Đăng Phong đồng ý cho nó lên giường ngủ chung. Lúc trước nó biết rõ, trở lại sẽ nguy hiểm, vậy mà vẫn cùng về với Vu Tâm Ngữ đối mặt với đám người Đằng Khi. Sau khi Vu Tâm Ngữ chết, chính là nó kéo quan tài ra mộ phần; cũng là nhờ nó săn bắt thức ăn khi Tả Đăng Phong dưỡng thương nằm liệt trên giường. Trải qua nhiều chuyện như vậy, Tả Đăng Phong sớm đã xem nó như bằng hữu, tự nhiên sẽ không để cho nó co rúc nơi ổ mèo nhỏ hẹp nữa.
Đêm qua Tả Đăng Phong liên tục nhóm lửa, trên giường sưởi giờ rất ấm áp, làm cho Tả Đăng Phong cảm thấy thật thoải mái. Nhưng loại cảm giác thoải mái này lại khiến nội tâm hắn đau nhói, lập tức xoay người ngồi dậy, ôm chăn mền đi ra ngoài Thanh Thủy quan.
Mộ phần Vu Tâm Ngữ cách Thanh Thủy quan chỉ trên dưới ba dặm. Ba dặm đường này chính là ngày đó Vu Tâm Ngữ dùng máu tươi của mình dẫn đến, nhờ vậy mà Tả Đăng Phong nhặt được tính mạng của mình về. Hôm nay, Vu Tâm Ngữ đã nằm dưới mặt đất giá lạnh, Tả Đăng Phong lúc trước trên thân thể có thương tích nên mới ngủ trên giường sưởi, giờ này thương thế đã sắp khỏi hẳn, hắn cảm giác mình ngủ ở trên giường ấm áp chính là đã quên đi Vu Tâm Ngữ, hắn muốn cùng ở chung với Vu Tâm Ngữ, hắn muốn cùng Vu Tâm Ngữ đồng cam cộng khổ.
Tả Đăng Phong nằm ngủ trước mộ phần của Vu Tâm Ngữ; tuy rất lạnh, nhưng trong nội tâm hắn cảm thấy ấm áp, bởi vì có vợ hiền bên cạnh.
Giấc ngủ ngắn ngủi trôi qua, Tả Đăng Phong ôm chăn mền trở lại Thanh Thủy quan, cầm theo túi ngô rời núi, nếu không nghiền (xay) ngô thành bột (để nướng làm bánh ngô) thì hắn xem như đã cạn hết lương thực rồi, quan trọng hơn nữa là hắn muốn ra ngoài tìm một thầy thuốc để tìm hiểu về vị trí của huyệt vị và kinh lạc. Tuy Âm Dương Sinh Tử Quyết là pháp môn chuyên viết riêng cho nữ giới tu luyện, nhưng Tả Đăng Phong mạnh mẽ quyết định tu luyện, bởi vì đây là hy vọng duy nhất báo thù cho Vu Tâm Ngữ…