Chắc là ngài giận em,” cô nói, “nên ngài mới bước đi xăm xăm với vẻ mặt tối sầm và khinh khỉnh thế kia.”
Rất nhiều người ở Enfield Park có vẻ mặt ấy, cô kết luận. Cô sẽ không bị lây nhiễm mà trở thành một trong số đó. Và cô không còn là một người quan sát ngoan ngoãn nữa – dù ban đầu cô cũng không được như thế là bao. Cô đã có một tiếng rưỡi đồng hồ hứng khởi với Claudia và bà Co
lette – người nói tiếng Pháp rất chuẩn song thỉnh thoảng lại chêm vào mấy từ khu Đông đáng ngờ. Bọn họ đã mải mê nghiên cứu các mẫu trang phục và lục tung tất cả những súc vải ở đó. Họ đã cười đùa, nói chuyện, lấy số đo và đặt hàng. Có vẻ người thợ may đã hoàn tất những bộ đồ mới của Claudia và chuẩn bị – một cách miễn cưỡng, bà ta nói thế – trở về London trong vài ngày tới. Nhưng giờ bà đã nhiệt thành đồng ý quay lại làm việc, để cho ra đời một tủ váy áo hoàn chỉnh và hợp thời trang cho quý cô đây trong vòng chưa đầy một cái búng tay. Tất nhiên là buổi vũ hội sẽ được ưu tiên hơn hết.
Claudia đã kể hết về buổi tụ họp ấy cho mọi người nghe khi quay lại, và ép Hầu tước phải tuyên bố rằng anh chưa bao giờ vui mừng đến thế trong đời. Anh lại nở nụ cười choáng ngợp ấy lần nữa – và nhìn vào mắt Charity.
Song giờ anh đang sải bước trên lối đi, mắt nhìn thẳng về phía trước, trông quá ư lầm lì, thậm chí độc đ
“Cái gì?” Anh dừng bước và quay lại đối diện với cô, khiến cô giật mình hốt hoảng. “Tối sầm và khinh khỉnh ư, lệnh bà? Vậy tôi phải cười toe toét với mấy ngọn cây như thằng ngốc à? Tôi phải làm thơ về vẻ đẹp của buổi sáng và sự tuyệt vời của cuộc sống chắc? Và tại sao tôi phải bực mình với em?”
“Ngài thích em trong bộ đồ màu nâu,” cô nói. “Ngài hài lòng với chiếc váy muslin thêu và chiếc váy lụa xám của em. Ngài không lấy làm phiền vì chúng là thứ khả dĩ nhất trong tủ áo thanh lịch của em. Giờ ngài sắp lãng phí cả gia tài để may sắm cho em trong vài tuần chúng ta bên nhau, Ngài đã bị mắc kẹt. Nhưng em cũng thế, ngài hãy thừa nhận đi.”
“Tôi thích em trong màu nâu ấy à!” anh nói, quét mắt từ đầu đến chân cô, “Chúng là những bộ đồ khủng khiếp, phu nhân. Chúng tìm tới chỗ thích đáng của chúng dưới đáy thùng rác sớm bao nhiêu, tôi càng vui mừng bấy nhiêu.”
“Ồ,” cô thốt lên. “Vậy là ngài không để tâm cho lắm đến việc em sẽ sớm đổi chúng – ngài sẽ sớm đổi chúng?”
“Nó nằm trong hợp đồng giữa hai ta đó thôi,” anh nói, đột ngột quay đi và bước tiếp. “Rằng tôi sẽ tạo cho em một phong cách thích hợp với vị trí của em.”
Trừ chuyện lúc ấy anh đã không cho cô biết chính xác vi trí đó là gì. Và trừ chuyện bản hợp đồng đã không nhắc đến thứ cô sẽ được nhận sau khi họ chia tay, Nhưng cô sẽ không tranh cãi điểm đó. Cô cũng thích những thứ phù phiếm như váy áo mới. Nhưng họa hoằn lắm cô mới có được hơn một bộ mỗi lần. Claudia đã nhất quyết đặt riêng cho cô một lô đồ mới. Thậm chí số lượng hạn chế mà Charity chấp nhận lúc cuối cùng cũng đủ khiến cô ngất ngây.
Thì ra không phải do vụ xống váy của cô mà chồng cô bước xăm xăm về nhà, nom như vừa nuốt phải chùm nho chua như vậy. Anh đã có một tiếng rưỡi với William và bọn trẻ. Với em trai và các cháu mình.
Cô chạm vào cánh tay chồng và nhìn vào mắt anh khi sóng bước bên anh. “Ngài đã nói chuyện với William chưa?” cô hỏi. “Hai người đã dàn xếp ổn thỏa rồi
Một lần nữa anh dừng bước, nhưng vẫn nhìn thẳng về phía trước, môi anh mím lại. “Nói tôi hay,” anh cất tiếng, “lúc nào em cũng là một phụ nữ lắm chuyện thế này à?”
Phillip ắt cũng nói thế, song có lẽ không chính xác đến từng chữ. Penny thì không, con bé luôn trung thành và thường thể hiện niềm ngưỡng mộ tính cách mạnh mẽ không cam phận mặc cho cuộc sống xoay vần của chị gái. Lũ trẻ có thể đồng ý, nhất là khi cô dồn chúng vào một phòng mỗi khi chúng gây hấn với nhau thay vì tách chúng ra như bất cứ người lớn bình thường nào vẫn làm, và cấm chúng ra ngoài cho đến khi giải quyết được các bất đồng.
“Vâng, đúng vậy,” cô nói. “Mâu thuẫn giữa hai người là gì?”
Cánh mũi anh phập phồng.
“Có phải về Claudia không?” cô buột miệng hỏi và rồi ước gì mình đừng làm thế. Có những điều tốt nhất không nên biết tường tận. Đúng là cô không phải vợ anh theo bất cứ nghĩa thông thường nào và thời gian cô với anh sống chung cũng không quá vài tuần lễ. Nhưng dẫu vậy, hiện giờ cô vẫn là vợ anh và mấy tuần lễ này vừa mới bắt đầu.
Đột ngột anh túm chặt lấy cánh tay cô và bất ngờ kéo cô ra khỏi con đường, dắt cô len lỏi giữa những thân cây trong cánh rừng phía xa. Nó tối tăm hẻo lánh và dường như biệt lập với nền văn minh. Anh đang giận dữ. Nhưng cô không thấy sợ.
“Trong những tháng ngày trẻ trung ngu ngốc của tôi,” anh nói, “cái thời tôi còn tin vào nào là tình yêu, nào là lòng trung nghĩa, trung thực rồi đến cả hạnh phúc đời đời và tất cả những ảo tưởng khác của tuổi trẻ, tôi đã quyết tâm theo đuổi Claudia. Chúng tôi gần như lớn lên cùng nhau – cô ấy là con gái một tòng nam tước sống cách đây chỉ sáu dặm. Tôi đã tâm sự với người bạn thân nhất, em trai tôi, người vừa biết thông cảm lại vừa thức thời. Cậu ta đã rất sáng suốt khi phản đối vụ bỏ trốn mà tôi sắp đặt sau khi Công tước từ chối tác thành mối lương duyên – Claudia chỉ là con gái một tòng nam tước, không đời nào xứng với Hầu tước Staunton, Công tước Withingsby tương lai. Ngoài ra, một cuộc hôn nhân đã được sắp đặt sẵn cho tôi. Em trai tôi đã khuyên tôi hãy kiên nhẫn. Mẹ tôi thì khuyên tôi hãy dũng cảm – tình yêu, bà nói với tôi, là lý do đúng đắn duy nhất cho một cuộc hôn nhân. Nhưng bà đang có mang, lại rất ốm yếu nên tôi không muốn bỏ bà lại. Thế cho nên em trai tôi đã tháo gỡ cho tôi tất cả những tiến thoái lưỡng nan. Cậu ta kết hôn với Claudia – cùng với sự chúc phúc của Công tước.”
Họ đã giảm nhịp bước. Anh đã thả cánh tay cô ra. Cô tự hỏi không biết anh có nhận thấy anh đang nắm chặt bàn tay cô, những ngón tay đan vào ngón tay cô hay không?
“Cậu ấy sợ phải nói với ngài tình cảm cậu ấy dành cho Claudia,” cô lên tiếng. “ Và thế là cậu ấy không nói gì, ngay cả khi bắt buộc phải nói. Người ta vẫn thường thế, vô cùng nhút nhát, nhất là với những người thân thiết với mình. Hẳn là cậu ấy đã tự giày vò mình trong tám năm qua.”
Cậu ta không cần phải làm thế,” anh nói. “Tôi đã có sự giải thoát đầy may mắn. Tôi đã trưởng thành. Tôi học được rằng mọi loại cảm xúc đều ngu ngốc, rằng người ta tự dối gạt mình ra sao khi tin vào tình yêu.”
“Vậy ngài tin vào cái gì?” cô hỏi anh. “Người ta ai cũng phải tin vào một điều gì đó chứ?”
“Tôi tin vào chính mình,” anh đáp, nhìn cô bằng cặp mắt hoang vắng, “vào khả năng tự kiểm soát cuộc đời và số mệnh chính mình.
“Tại sao Claudia lại lấy William,” cô hỏi, “nếu cô ấy yêu ngài? Nếu em yêu ngài, em không thế lấy người nào khác, càng không phải là em trai ngài.”
“Em đã lấy tôi,” anh nói, giọng thoáng vẻ hài hước. “Nhưng em hãy biết khôn ngoan mà đừng yêu tôi, Charity.”
Phải, cô nghĩ, cô sẽ làm như vậy. Yêu Anthony Eartheart, Hầu tước Staunton, đức ông chồng của cô, sẽ chỉ chuốc lấy đau đớn. Nhưng anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của cô.
“Claudia có từng yêu ngài không?” cô hỏi.
“Tôi nghĩ là có,” anh nói. “Cô ấy luôn tươi cười với tôi, cô ấy quyến rũ, ấm áp và xinh đẹp. Will bảo rằng cô ấy yêu cậu ta, rằng họ lấy nhau vì tình yêu. Có lẽ đó là cách lý giải duy nhất làm cho cuộc hôn nhân ý nghĩa. Bao năm qua tôi thường xuyên tự hỏi hai người đó – Will và Công tước – đã sử dụng quyền lực nào đối với cô ấy.”
“Cô ấy chưa từng nói với ngài là cô ấy yêu ngài ư?” Charity hỏi. “Cô ấy chưa từng nói muốn lấy ngài, rằng cô ấy sẽ bỏ trốn cùng ngài ư?”
“Em phải hiểu cái gia đình này. Không được tự ý làm gì cả. Tôi biết được sự khó khăn đối với dòng dõi của Claudia. Khi đó tiểu thư Marie Lucas đã được chín tuổi. Cô ta đã đến đây vài lần cùng với cha mẹ. Tôi không thể cầu hôn Claudia khi còn chưa biết chắc mình có thể cho cô ấy những gì và thời điểm nào được tự do để làm thế. Xét cho cùng, lúc đó tôi mới hai mươi tuổi.”
“Em bắt đầu hiểu,” cô nói, “nguyên nhân khiến ngài cuối cùng cũng quyết định vùng lên. Em còn hiểu được lý do ngài từ bỏ tất cả trừ niềm tin vào bản thân.”
Cô có thể hiểu được, nhưng không thể cho qua. Cô tự hỏi liệu anh có nhận ra đoạn đời đã ngủ yên trong anh tám năm qua vừa bắt đầu thức giấc trở lại không. Cô tự hỏi anh có để cho nó thức dậy không. Nhưng sự lựa chọn có khi không còn là của anh nữa. Ban nãy anh đã nói chuyện với William và William bảo anh rằng Claudia yêu cậu ấy. Có lẽ một điều gì đó đã bắt đầu, một điều không thể ngăn cản.
Đám cây trước mặt họ bỗng dưng thưa thớt hẳn và cô trông thấy một hồ nước ngay phía trước, xa xa là những bãi cỏ và ngôi nhà. Bờ bên kia cây cối được trồng thưa thớt, nhưng bên này chúng gần như mọc ngay mép nước, và sau chúng là lau sậy um tùm. Có một vẻ đẹp hoang dã và nguyên vẹn ở đây – cách xa nề văn minh.
Họ dừng bước. Anh vẫn nắm tay cô, nhưng đã bớt chặt hơn, bớt đau hơn.
“Nếu không có những cánh rừng và những hồ nước này,” anh lên tiếng, nheo mắt nhìn ra mặt nước lấp loáng nắng, “thì tôi không biết làm cách nào qua được thời niên thiếu.”
Charity không nói gì để tránh phá vỡ mạch suy tưởng của anh. Nom anh như đã quên mất cô và đang đắm chìm vào ký ức.
“Will và tôi đã chơ không biết chán ở đây,” anh nói. “Những cánh rừng này là rừng nhiệt đới, những hang ngầm và là khu rừng Sherwood [1] của riêng chúng tôi. Hoặc chúng chỉ là một chốn ẩn cư tĩnh mịch khỏi thực tại. Ở đây tôi đã dạy Claudia trèo cây, dạy cậu ta bơi lội và cưỡi ngựa.” Anh hít một hơi thật sâu rồi chầm chậm thở ra.
[1]Rừng Sherwood là nơi Robin Hood đã cùng những người dân biển chạy trốn và ẩn náu.
Đúng vây, cô biết rõ sức mạnh của trí tưởng tượng trẻ thơ, của tình bạn trẻ thơ. Cô biết rõ niềm hạnh phúc của việc dạy dỗ những đứa em mạng lại.
“Ai đã dạy em biết làm một người lắng nghe tốt như vậy?” Anh đột nhiên hỏi. Giọng anh, vừa rồi còn lắng trong hồi ức, đã trở lại hoạt bát hơn. Và bàn tay anh, đã kín đáo trượt khỏi bàn tay cô – hoặc theo lối mà hẳn anh hy vọng là kín đáo. “Phải chăng do em lớn lên một mình không có anh chị em bên cạnh?”
Cô đâm hối hận vì lời nói dối của mình. Cô ghét phải che giấu sự thật. “Hồi bé em có nhiều bạn chơi cùng lắm,” cô nói. “Em đã có một tuổi thơ hạnh phúc.”
“À.” Anh quay đầu nhìn cô. “Nhưng không được bao lâu. Ông trời giáng những cú đòn nghiệt ngã một cách khá bừa bãi. Cuộc sống chẳng là gì ngoài một trò đùa nghiệt ngã.”
“Cuộc sống là một tài sản quý giá,” cô nói. “Mà con người đã tạo ra.”
“Và rốt cuộc em đã có một cơ hội làm một điều gì đó cho cuộc sống của mình dễ thở hơn,” anh nói. “Em được khuyên hãy chớp ngay lấy cơ hội ấy không chậm trễ.”
Chất giễu cợt đã quay lại trong giọng anh, nụ cười nửa miệng trở lại gương mặt anh.
“Còn ngài đang được trao cơ hội,” cô sắc sảo đáp, “sửa lại sai lầm trong cuộc đời khi ngài trốn chạy khỏi nó tám năm trước.”
“A,” anh nhận xét, “em có miệng lưỡi xấc xược khó sửa nổi, phu nhân. Nhưng em lầm rồi. Tôi đã chạy khỏi ngột ngạt để đến với cuộc sống mới của tôi.”
“Chúng ta bị muộn giờ ăn trưa rồi thì phải?” cô nói.
“Khỉ thật!” anh thốt lên. Charity ngạc nhiên khi anh cười toe toét đến cả ánh mắt cũng lấp lánh. “Tôi cá là thế. Thật giống với những lần ngày xưa, trừ việc lần này Công tước có lẽ sẽ vẫn cho chúng ta ăn và không bắt tôi phải đợi trong thư viện cho đến khi ông ăn xong rồi mới bảo tôi cúi xuống mặt bàn nhận hình phạt. Bắt nhịn đói chưa bao giờ là hình phạt đủ nặng, em thấy đấy.”
“Một người nghiêm khắc, thậm chí hết sức nghiêm khắc, không có nghĩa là người đó thiếu vắng lòng yêu thương,” cô nói.
Anh bật cười và chìa tay ra. “ Em đúng là một nhà đạo đức nhỏ nhiêm nghị, phu nhân ạ,” anh nói, “luôn có vẻ thông thái về những vấn đề nằm ngoài kinh nghiệm và tầm hiểu biết của em. Nhưng tôi lại cưới em bởi vẻ đạo mạo đó, đúng không nào? Và bởi những bộ trang phục gớm guốc nữa. Song em đã nói dối một điều.”
Cô ngước mắt nhìn anh trong lúc anh dắt cô lên lỏi qua những thân cây hướng về chiếc cầu.
“Em đã giả bộ làm một cô chuột nhỏ xấu xí,” anh nói. “Em che giấu con người thật của mình rất giỏi và nên lấy thế làm xấu hổ. Khi đó tôi thậm chí không mảy may ngờ rằng em xinh đẹp.”
Kì cục làm sao – đáng chê làm sao – một lời khen thiếu thiện chí, châm biếm như vậy lại khiến cô vui đến mức đầu gối nhũn ra. Anh nghĩ rằng cô xinh đẹp? Thật ư? Thậm chí trước khi trông thấy cô trong những trang phục mới? Nhưng tất nhiên điều đó chẳng thay đổi được gì. Anh vẫn là người sẽ thấy nhẹ nhõm hẳn đi khi thoát khỏi cô sau mấy tuần tới. Cô vẫn chỉ là một cái khiên anh mang về nhà để ngăn chặn gia đình không xâm phạm vào hàng rào phòng thủ của anh. Nhưng anh đã nghĩ rằng cô xinh đẹp?
“Chí ít cái đó cũng làm em nín lặng,” anh nói.
Hình như, cô nghĩ, chồng cô cũng có
Công tước Withingsby đã quyết định không đón tiếp người bạn cũ, Bá tước Tillden bằng tất cả sự long trọng ông trưng ra với con trai ngày hôm trước. cả gia đình được miễn việc tập trung trong sảnh và thay vào đó phải có mặt đúng giờ trong phòng khách để dùng trà. Ông gửi một lời nhắn thông báo chuyện đó tới ngôi nhà dower.
“Staunton và ta sẽ gặp Tillden cùng con gái ông ấy trong sảnh,” ông nói.
Họ đang ngồi quanh bàn ăn trưa. Hầu tước đã biết trước sự khó chịu ngấm ngầm của ông vì vợ chồng anh muộn giờ ăn trưa mất mười phút. Nhưng anh sẽ không im lặng theo như thói quen ngày xưa.
“Vợ tôi sẽ tham dự cùng chúng ta,” anh nói.
“Phu nhân Staunton,” Công tước đáp, “sẽ chờ chúng ta trong thư viện.”
Tranh cãi thêm cũng chẳng ích gì, con trai ông quyết định. Anh không nói gì nữa.
Và thế là vài giờ sau anh đứng một mình cùng ông bố sau khi tin báo đưa về là đã trông thấy cỗ xe của bá tước đi qua cầu. Anh cảm thấy hồi hộp, xấu hổ và hết sức khinh miệt bản thân. Chuyện này đâu phải mối bận tâm của anh. Anh chưa từng biểu lộ hứng thú đối với tiểu thư Marie Lucas. Anh cũng đâu có được hỏi ý kiến về quyết định mời cô ta, cùng cha mẹ cô ta, tới Enfield Park vào ngay sau hôm anh trở về. Công tước đã coi sự long trọng đó là hiển nhiên sau tám năm im lặng. Hầu tước chẳng có gì phải tự trách mình vì chuyện đó.
Tuy nhiên, anh vẫn hồi hộp và xấu hổ – chỉ nhẹ nhõm hơn khi thấy vợ anh đang đợi trong thư viên, lại mặc chiếc váy muslin thêu, trông xanh xao và bình tĩnh.
Bá tước Tillden sau bao nhiêu năm không hề thay đổi, Hầu tước nghĩ khi ông ta dẫn đầu gia quyến bước vào sảnh lớn. Kềnh càng cả về chiều cao lẫn bề ngang, cái đầu hói nhẵn bong, ngài Bá tước có lẽ trông sẽ thật vui tính nếu không có nếp nhăn bất mãn thường trực giữa hai lông mày, và nếu miệng với mũi ông ta không kém may đến nỗi được xếp đặt cùng nhau để tạo thành một cái khịt mũi khinh b
Bà Bá tước hiện ra sau lưng chồng, nhỏ bé và nhợt nhạt như một hồn ma, một nụ cười cố hữu hiện trên mặt – tuy thế nó có vẻ giống một nụ cười xin lỗi hơn là vui vẻ. Bà ta luôn dễ thương và nhút nhát – đến giờ vẫn vậy.
Bên cạnh bà có lẽ là tiểu thư Marie Lucas. Tất nhiên “cô không còn là đứa trẻ gầy gò và rụt rè như trong trí nhớ của anh. Cô nhỏ bé, mảnh mai và xinh xắn, với gương mặt rất dễ thương bên dưới mái tóc ngày xưa là màu đỏ cà rốt nhưng bây giờ đã chuyển sang nâu hung rực rỡ. Cô là một mỹ nhân theo định nghĩa của bất cứ ai. Và trong vài giây trước khi Công tước bắt đầu nghi thức chào đón khách, đôi mắt màu nâu lục nhạt của cô bắt gặp mắt anh và mở lớn. Cô đỏ mặt.
Bất chấp tuổi mười bảy, trang phục hợp mốt và nhan sắc mỹ miều, cô vẫn là một đứa trẻ ngây thơ. Hầu tước nghĩ thầm, không khỏi phiền muộn và khó chịu.
“Tillden,” Công tước nói, nghiêng đầu lịch thiệp. “Người đánh xe của ông đi thật là nhanh. Xin chào bà, mừng bà đến Enfield Park. Tôi tin rằng bà đã có một chuyến đi vui vẻ. Tiểu thư Marie. Chào mừng cả cháu nữa.”
Mọi người nhiệt tình trao nhau những câu chào mừng, những cái nghiêng đầu và nhún gối.
“À, cậu Staunton,” cuối cùng Bá tước nói. “Thì ra cậu về trước chúng tôi hả? Rất vui được gặp lại, chàng trai của tôi.”
Hầu tước Staunton nghiêng đầu. “Chào ngài,” anh nói nhỏ.
“Cậu sẽ thấy ngạc nhiên và chắc chắn là hài lòng khi thấy Marie nhỏ bé của chúng tôi đã lớn lên trong thời gian cậu xa nhà,” Bá tước hể hả nói, xoa hai tay vào nhau.
“Và trở thành một cô gái vô cùng xinh đẹp,” Công tước tiếp lời.
Con trai ông lại nghiêng đầu lần nữa.
“Cho phép tôi mời mọi người thư viện trước khi quản gia dẫn mọi người về phòng,” Công tước nói.
“Còn ông thế nào, Withingsby?” Bá tước hỏi khi Công tước đưa tay cho phu nhân Tillden, còn Hầu tước, vì phép lịch sự, đưa tay cho tiểu thư Marie. Cô nở nụ cười xinh xắn và đặt bàn tay nhỏ nhắn thanh nhã lên tay áo anh. “Trông ông rất ổn đấy!”
Thực tế trông ông rất nhợt nhạt. kể cả đôi môi, con trai ông nghĩ.
Charity đang đứng lặng lẽ bên cửa sổ thư viện. Hầu tước buông cánh tay khỏi bàn tay tiểu thư Marie, định băng qua phòng tới chỗ cô, song cha anh đã chặn trước bằng việc hướng bàn tay về phía cô.
“Lại đây con,” ông nói.
Hẳn ông thấy cay đắng lắm khi phải gọi cô như thế, Hầu tước thầm nghĩ, ở yên tại chỗ bên cạnh tiểu thư Marie khi Charity băng qua phòng và đặt tay vào tay Công tước. Cô mỉm cưới với ông và… ông cười đáp lại.
“Để ta giới thiệu con với các vị khách,” ông nói. “Tillden? Thưa phu nhân? Tiểu thư Marie? Cho phép tôi giới thiệu nữ Hầu tước Staunton. Cô ấy và Staunton đã làm đám cưới ở London hai ngày trước.”
Hầu tước cảm thấy tiểu thư Marie đứng cạnh anh bỗng hít vào đột ngột.
“Tôi rất vui được làm quen với mọi người,” Charity nói, nở nụ cười ấm áp với cả ba vị khách. “Mọi người không định ngồi xuống sao? Và cha nữa, thưa cha? Cha đang vận động quá sức rồi.”
Cô đang hành xử như một nữ công tước bẩm sinh. Trừ việc hầu hết các nữ công tước mà anh quen biết không tỏa ra sức quyến rũ và thân thiện như vậy.
“Đã cưới? Hai ngày trước?” Cặp lông mày của Bá tước gần như giao nhau.
“Rất hân hạnh được gặp cô, Staunton phu nhân,” phu nhân Stillden nhã nhặn nói, ngồi xuống cái ghế gần đó. “Và xin chúc cô mọi điều tốt l cũng vậy, thưa ngài.” Bà mỉm cười vẻ lo lắng với Hầu tước.
“Đã cưới ư?” Ngài Bá tước, không như vợ, không được chuẩn bị để đối phó với thời điểm này bằng những phép lịch sự xã giao. “Có thật không?”
“Thật ạ,” Hầu tước mỉm cười. “Công tước đã cho cháu hay về bênh tim của ông và thế là cháu muốn về nhà ngay không chậm trễ. Nhưng cháu không đành lòng bỏ lại người vợ chưa cưới trong thời gian chưa biết trước là bao lâu, nên chúng cháu đã làm lễ cưới bằng giấy phép đặc biệt.”
“Mẹ cô chắc hẳn rất buồn khi cô không có một đám cưới đúng nghi thức, cô Staunton nhỉ,” nữ Bá tước nói. “Song trong hoàn cảnh như vậy…”
“Cha mẹ cháu đều đã qua đời, thưa bà,” Charity nói. “Cháu không có ai để tham khảo ý kiến ngoài bản thân mình.”
“Và không có người giám hộ nào để trở nên câu nệ trước mọi chuyện,” Hầu tước nói. “Cháu đã gặp vợ cháu khi cô ấy đang làm gia sư, thưa bà.”
“Ôi trời ơi,” nữ Bá tước nói yếu ớt, đưa bàn tay lên họng.
“Tôi muốn nghe lời giải thích đầy đủ cho chuyện này, Withingsby,” Bá tước Tillden lên tiếng. “Và tôi muốn ngay bây giờ.”
“Con à,” Công tước vỗ nhẹ lên tay Charity. “Bà Alyward đang đợi ngoài sảnh. Con đưa phu nhân Tillden và tiểu thư Marie ra chỗ bà ấy được không? Và con không cần trở lại đây đâu. Trà sẽ được phục vụ trong phòng khách, thưa quý bà quý cô, vào lúc bốn giờ.”
Hầu tước mở cửa cho họ và nghiêng đầu khi họ đi ra. Vợ anh mỉm cười khi đi lướt qua anh. Anh đóng cửa vào và đứng nhìn nó một lúc, rồi mới quay lại. Rốt cuộc đây chính là lý do anh trở về. Để giũ sạch ảnh hưởng và ảo tưởng quyền lực họ từng áp đặt lên anh. Để cho họ thấy Hầu tước Staunton không phải con rối của bất cứ ai.
“Tôi nghĩ tôi phải yêu cầu thỏa đáng về chuyện này,” Bá tước Tillden rít lên bởi lòng t trọng bị tổn thương.
Trời đất! Ông ta định nói về một cuộc đấu súng chăng?
“Ngồi xuống đi, Tillden,” Công tước vừa nói vừa ngồi xuống. Ông có vẻ mệt mỏi, Hầu tước nhận ra, và nỗi hoảng sợ nhói lên khiến anh ngạc nhiên. “ Từ lúc về nhà, con trai tôi đã nhắc tôi rằng nó chưa từng tham dự bất cứ lễ đính ước nào với tiểu thư Marie Lucas, kể cả trên giấy lẫn ngoài miệng. Và tôi phải thừa nhận nó có chính kiến riêng.”
“Cậu ta cần quái gì phải nhảy vào đây?” Bá tước nói, giọng vút lên oang oang vượt mức thông thường. “Đây là thỏa thuận giữa hai ông bố. Từ khi nào những người tác thành lương duyên phải cần sự bằng lòng của bọn trẻ vậy? Ông không quản lý nổi con ruột của mình sao, Withingsby? Đứa con cả của ông – người thừa kế của ông – sao lại xấc xược phớt lờ giao ước được ấn định mười bảy năm trước của bố nó để cưới một phụ nữ thấp kém thế?”
Hầu tước đứng gần cửa, hai tay chắp sau lưng. Anh điềm tĩnh lên tiếng, không muốn bị lôi vào một cuộc đấu khẩu ầm ĩ. “Ngài hãy dùng lời lẽ cẩn thận, thưa ngài,” anh nói, “khi nói về vợ tôi.”
“Hả?” Nắm đấm đồ sộ của Bá tước giáng xuống bàn đủ khiến lọ mực bị bắn tung tóe ra ngoài. “Cái thằng láo toét! Mày dám mở miệng khi cha mày chưa cho phép à? Còn dám dọa tao nữa?”
“Tôi hai mươi tám tuổi rồi, thưa ngài,” Hầu tước đáp. “Tôi đã sống tách khỏi cha tôi từ năm tôi hai mươi tuổi. Tôi sống theo nguyên tắc của mình. Tôi đã cưới người phụ nữ theo lựa chọn riêng, đó là quyền của tôi. Tôi rất xin lỗi nếu hôn nhân cuả tôi có gây cho ngài và bà Tillden nỗi xấu hổ, và hết lời xin lỗi vì những đau buồn tiểu thư Marie phải gánh chịu. Nhưng tôi thấy mình chẳng có gì đáng chê trách khi làm ngơ một thỏa thuận từ đời nảo đời nào, tuy liên quan đến tôi nhưng tôi lại chẳng được tham gia.”
“Tôi sẽ bắt các người trả giá,” Bá tước nói, chỉ tay vào Hầu tước rồi đến Công tước đang im lặng. “Tôi sẽ bôi đen tên tuổi hai người tới mức hai người sẽ không ngẩng đầu lên được suốt phần đời còn lại.” Ông ta đứng lên. “Tôi sẽ cho xe ngựa vòng lại và gọi vợ con tôi ra. Tôi sẽ không lưu lại dưới mái nhà này thêm một giờ nào nữa, nơi mà danh dự không đáng một xu!
“Ngồi xuống Tillden,” Công tước bảo, giọng ông ngạo mạn và mệt mỏi. “Trừ khi ông muốn biến mình thành trò cười và con gái ông không thể lấy được chồng. Không một ai ngoài gia đình tôi biết lý do ông đến đây, dù chắc chắn người ta có suy đoán. Không có một bản thỏa thuận nào trên giấy. Không có lễ đính hôn chính thức nào. Ông đến đây với tư cách là bạn tôi, giống như bao năm qua. Ông đến vì lo lắng cho sức khỏe của tôi. Cũng chẳng có ai bảo rằng buổi vũ hội tối mai sẽ có một lễ đính hôn. Nó được tổ chức để chào mừng Staunton về nhà và niềm vui bất ngờ khi nó mang cả vợ mới cưới về cùng. Nó được tổ chức để kỷ niệm ngày gia đình tôi được đoàn tụ lần đầu tiên từ sau đám tang nữ Công tước. Và để chào đón chuyến viếng thăm của người bạn thân lâu năm, Bá tước Tillden. Chuyện này có thể trôi qua êm đẹp.”
Bá tước một lần nữa ngồi xuống và rõ ràng đang khôn ngoan nghĩ lại sự xốc nổi ban đầu của mình.
“Tôi bị xúc phạm nặng nề, Withingsby ạ,” ông ta nói. “Tôi mong được nghe từ miệng ông rằng Staunton và… vợ anh ta biết cư xử khéo léo.”
“Staunton đã biết sự tức giận của tôi,” Công tước nói, “Cô Staunton không có lỗi gì cả. Và từ hôm tôi gặp con bé tới nay, càng lúc tôi càng thấy mến nó.”
Hầu tước nhướng mày.
“Kể cả cô ta là một kẻ mới phất vô danh?” Bá tước hỏi. “Kể cả cô ta chỉ là một nữ gia sư đang có tiền đồ trở thành…”
Nhưng khi Hầu tước dợm bước lên, thì cha anh đã đáp lại một cách lạnh lùng và lịch sự – và khá kiên quyết.
“Tôi càng lúc càng quý mến con dâu tôi, nữ Hầu tước Staunton,” ông nói.
Hầu tước có thể thấy Bá tước Tillden sẽ ở lại Enfield, ít nhất là đến sau buổi vũ hội tối mai. Ông ta đã nhận thức được rằng vụ tai tiếng mà ông ta khao khát muốn giáng cho hai cha con anh cũng sẽ khiến cho gia đình ông ta rơi vào cảnh nhục nhã bị chê cười.
“Anh hãy rung chuông gọi quản gia, Staunton,” cha anh bảo. “Ông ta sẽ đưa ông về phòng, Tillden ạ. Tôi tin ở đó ông sẽ cảm thấy thoải mái và đầy đủ tiện nghi. Ông hãy hộ tống vợ và con gái xuống dùng trà vào bốn giờ nhé?”