Sự Im Lặng Của Bầy Cừu

Chương 22



– Trước hết, đây không phải là một con vật mà trong lúc bình thường, lại chui vào trong một xác chết, và nó không thuộc loại sống trong nước – Pilcher nói – Tôi không biết cô có hiểu chút ít gì về côn trùng không, và nếu cô muốn, chúng tôi cho cô biết tất cả các chi tiết.

– Các anh cứ nghĩ tôi chưa biết gì hết. Hãy cho tôi biết tất cả đi.

– Đồng ý. Đây là một con nhộng loại sâu bọ hai cánh, một con vật chưa thành thục trong cái kén của nó – cái kén chứa đựng nó trong khi nó biến đổi từ ấu trùng thành một con vật trưởng thành – Pilcher giải thích.

– Một cái kén bằng kitin phải không Pilch? – Roden nhăn mũi để đưa cặp kính lên cao.

– Tôi nghĩ đúng vậy. Anh có muốn tham khảo cuốn CHU về các con vật chưa thành thục không? Tốt rồi, đây là loại nhộng trần của một loài lớn đấy. Phần lớn các con côn trùng tiến hóa đều phải trải qua giai đoạn nhộng này. Rất nhiều loài trong số đó phải qua mùa đông như thế này.

– Quyển sách hay kính lúp Pilcher?

– Kính lúp. – Pilcher đặt mẫu vật trên mặt của kính hiển vi và cúi người xuống với que thông trên tay. – Chúng ta bắt đầu: không có cơ quan hô hấp rõ rệt trên vùng bụng và lưng, có lỗ thở ngay ngực giữa và bụng; chúng ta hãy bắt đầu với cái này.

– Coi naaàooo – Roden thì thầm trong khi lật các trang của quyển sách nhỏ – Có hàm chuyên dùng không?

– Không.

– Có hai mảnh ngoài hàm, trên vùng trước bụng không?

– Có, có.

– Râu nằm ở đâu?

– Giáp với bờ trên của cánh. Hai cặp cánh, cái trong bị che phủ hoàn toàn. Chỉ ba đoạn bụng dưới là ở ngoài. Có mấy cơ bìu nhỏ và nhọn, chắc là một loại của họ bộ cánh phấn.

– Đó là những gì quyển CHU cho biết – Roden xác nhận.

– Đây là họ bươm bướm – Pilcher cắt nghĩa – Người ta có thể tìm thấy khắp nơi.

– Sẽ không dễ nếu các cánh vẫn còn ướt. Tôi phải đi tìm sách mới được. Tôi nghĩ chắc không thể ngăn quý vị nói về tôi trong lúc tôi không có mặt.

– Tôi cũng nghĩ như thế – Pilcher đáp lại – Roden là một con người được lắm – anh nói với Clarice, ngay khi người bạn anh ta bước ra khỏi phòng.

– Tôi không nghi ngờ điều dó.

– Thật đấy. – Pilcher có vẻ vui thích – Chúng tôi học chung với nhau; trong thời đại học chúng tôi làm tất cả những việc lặt vặt mà chúng tôi có thể tìm được. Roden tìm được một việc mà anh ta phải ở dưới một mỏ than để canh chừng sự phân rã prôton. Chỉ có điều anh ta ở trong tối quá lâu. Nhưng anh ta khỏe lắm. Với điều kiện là không ai đề cập đến prôton cả.

– Tôi sẽ cố tránh đề tài đó.

Pilcher rời xa vùng ánh sáng chói chang.

– Họ bộ cánh phấn là một họ lớn lắm đấy. Có khoảng ba mươi ngàn loại bươm bướm ngày và một trăm ba mươi ngàn loại đêm. Tôi muốn rút nó ra khỏi cái kén quá đi, buộc phải vậy thôi để thu hẹp phạm vi điều tra.

– Đồng ý. Nhưng anh có thể lấy ra mà không làm hư không?

– Tôi nghĩ là được. Cô hãy nhìn đi, nó bắt đầu muốn chui ra ngoài trước khi chết. Có một vết rách không đều trên cái kén, đây này. Chắc phải mất một ít thời gian.

Pilcher xé cho lớn cái vết rách tự nhiên và thật nhẹ nhàng lôi con côn trùng ra. Hai cánh, còn dính với thân hình, và ướt mèm. Trải hai cánh ra cũng khó như trải một khăn giấy Kleenex ướt được vò thành cục. Không có hình vẽ gì rõ rệt cả.

Roden đã trở lại với mấy quyển sách trên tay.

– Sẵn sàng chưa? – Pilcher hỏi – Tốt lắm. Xương đùi của đốt đầu ở ngực bị che khuất.

– Còn lông thì sao?

– Không có lông. Cô làm ơn tắt ngọn đèn đó được không, cô Starling?

Cô đứng cạnh cái công tắc trên tường, chờ Pilcher bật sang cây bút pin của anh ta và đưa nó ra xa cái bàn để chiếu thẳng vào con vật. Mắt của con côn trùng sáng lên trong bóng tối, phản chiếu lại tia sáng nhỏ bé.

– Một con bướm đêm – Roden lên tiếng.

– Có thể lắm, nhưng là loại nào đây? Nhờ cô bật đèn lại giùm. Đây là loại ngài đêm, cô Starling, một con bướm đêm – Thế có bao nhiêu loại ngài đêm vậy Roden?

– Hai ngàn sáu trăm… và tất cả được mô tả.

– Thường chúng không lớn như thế này. Tốt rồi. Bây giờ hãy cho chúng tôi xem anh biết làm gì đây, anh bạn già của tôi!

Đầu tóc bù xù của Roden bao phủ cái kính hiển vi.

– Bây giờ chúng ta phải xem xét lớp da của nó để tìm được chủng loại, về mặt này, Roden tài lắm.

Clarice có cảm tưởng không khí bây giờ có chút gì đó hòa nhã hơn.

Roden phản ứng lại bằng một cuộc tranh luận thật hăng say với Pilcher về cách bố trí các cục u của thời ấu trùng trên con vật mẫu, có được xếp thành hình tròn hay không. Và cuộc tranh luận trở nên sóng gió khi đề cập đến sự hiện diện của lông trên bụng.

– Con Erebus odora – cuối cùng Roden kết luận.

– Chúng ta hãy đi kiểm tra xem – Pilcher nói.

Mang con vật mẫu theo, họ dùng thang máy xuống tầng có con voi trắng và bước vào một phòng tứ giác chứa đầy hộp màu xanh lá. Đây là một hành lang rộng lớn được chia thành hai tầng để có thể tạo đủ chỗ cho loại côn trùng của viên Smithsonian. Họ bước đến chỗ dành cho bướm đêm. Pilcher coi lại các ghi chú của mình và dừng lại ngay trước một cái hộp cao khoảng một mét rưỡi.

– Chúng ta phải thật cẩn thận với những thứ này – anh ta nói trong lúc tháo cánh cửa nặng bằng kim loại để đặt nó xuống đất – Nếu chẳng may nó rớt xuống chân thì không thể nào đặt chân xuống đất trong nhiều tuần lễ đấy.

Anh ta cho ngón tay trỏ chạy trên các ngăn tủ, rồi chọn một cái và kéo nó ra.

Clarice nhìn thấy nhiều trứng bé nhỏ và một cái kén trong một ống đựng đầy cồn và một con côn trùng trưởng thành làm mẫu. Một con bướm lớn màu nâu đậm, thân hình lông lá, hai cái râu mảnh mai, có chiều ngang khoảng mười lăm phân.

– Con Erebus odora đây rồi – Pilcher nói – Con phù thủy đen.

Roden lật vài trang.

– Một loại của miền nhiệt đới, mà khi đến mùa thu, đi ngược lên tận Canada – anh ta đọc.

Ấu trùng sống trên cây keo và những loại cây tương tự. Có nguồn gốc từ đảo Ăng ti và miền nam Hoa Kỳ, được xem là có hại tại Hawaii.

Mẹ kiếp, Clarice thầm chửi.

– Thật điên rồ – cô nói lớn tiếng – Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi sao!

– Đợi một chút coi… đúng, ở miền cực nam Florida và miền nam Texas.

– Khi nào?

– Vào tháng năm và tháng tám.

– Coi nào… cái mẫu của cô phát triển nhiều hơn cái của chúng tôi và rất mới. Nó bắt đầu xé rách cái kén để chui ra. Tại quần đảo Ăng ti và Hawaii thì tôi có thể hiểu được, nhưng tại đây đang là mùa đông. Đáng lý nó còn phải chờ thêm ba tháng mới có thể bay được. Trừ phi việc đó xảy ra tình cờ trong một nhà kính, hoặc có ai đó nuôi nó.

– Nuôi bằng cách nào?

– Trong một cái lồng trong không khí nóng với lá keo để cho ấu trùng có đủ thời gian tạo thành kén. Không khó chút nào.

– Đó là cách tiêu khiển phổ biến không? Ngoài những người chuyên nghiệp, có nhiều người khác làm như thế không?

– Không, chỉ duy nhất các nhà côn trùng học đang cố thu được những con hoàn hảo, có thể vài nhà sưu tầm nào đó. Ngoài ra còn có công nghiệp tơ lụa, họ cũng nuôi loại bướm đêm, nhưng không phải là loại này.

– Chắc phải có loại sách chuyên môn và các hội đoàn bán trang thiết bị chứ!

– Đương nhiên và chúng tôi nhận được phần lớn là các ấn phẩm đó.

– Tôi sẽ soạn cho cô một mớ – Roden nói – Hai hay ba đồng nghiệp của tôi có đặt mua dài hạn loại ấn phẩm đó. Họ khóa chúng trong tủ và ai muốn xem qua đều phải trả hai mươi lăm xu. Với những người này, chúng ta phải chờ đến sáng mai.

– Tôi sẽ cho người đến lấy, xin cám ơn, anh Roden.

Pilcher cho chụp lại các tham khảo liên quan đến con Erebus odora và đưa cho cô cùng con vật.

– Tôi sẽ đưa cô xuống dưới.

Họ đứng chờ thang máy.

– Phần nhiều, người ta thích bươm bướm ngày hơn và ghét loại bướm đêm – anh cho biết. Nhưng những con này lại… lý thú hơn, đáng chú ý hơn.

– Và cũng tàn phá hơn.

– Chỉ vài loại, có thể là nhiều hơn, nhưng chúng có nhiều cách sống khác nhau. Như chúng ta vậy. – Im lặng suốt một tầng lầu – Có một loài – đúng ra là hơn một – chỉ sống nhờ nước mắt mà thôi. Chúng chỉ ăn và uống nước mắt, không gì khác hết.

– Loại nước mắt gì? Nước mắt của ai vậy?

– Của loài động vật có vú to xác. Như chúng ta vậy – Hồi xưa, bất cứ thứ gì thuộc về đêm đều được xem là ác hại… Đây là công việc chính của cô sao, việc truy lùng Buffalo Bill đấy?

– Tôi cố hết sức mình.

Pilcher đưa lưỡi liếm môi, giống như con mèo chui xuống cái mền vậy.

– Cô có khi nào ra ngoài để ăn một cái bánh mì kẹp pho mát và uống một chai bia, hoặc một ly rượu vang ngon không?

– Những lúc sau này thì không.

– Cô nghĩ sao nếu tôi mời cô đi uống một ly gì đó với tôi ngay bây giờ? Có một quán nước không xa đây.

– Không được, nhưng chính tôi sẽ mời anh một khi công việc này kết thúc… đương nhiên là cả anh Roden nữa.

– Điều này không có vẻ gì là tự nhiên cả – Pilcher đáp lại – Và khi đến thềm nhà, anh nói tiếp – Tôi hy vọng cô sớm kết thúc vụ này, cô Starling.

Cô hối hả bước đến chiếc xe đang chờ cô.

Clarice thấy thư tín và nửa thanh sôcôla trên giường mình. Ardelia Mapp đã ngủ rồi.

Cô đem máy đánh chữ xuống hầm giặt quần áo, để một tờ giấy trắng có giấy than vào trong máy. Cô đã sắp xếp lại trong đầu các thông tin về con Erebus odora trên đường về Quantico, và ngay lúc này cô thảo thật nhanh bản báo cáo của mình.

Sau đó cô ăn phần sôcôla và viết một tin ngắn cho Crawford đề nghị ông đối chiếu các danh sách những người đặt mua các ấn phẩm về côn trùng học của những thành phố gần nơi xảy ra các vụ bắt cóc, với những kẻ phạm tội của FBI cộng thêm hồ sơ của các tên tội phạm về tính dục của Metro Dade, San Antonio và Houston, nơi mà loài bướm đêm rất dễ tìm.

Còn một việc quan trọng cô không thể quên là: hỏi Lecter tại sao ông ta nghĩ tên sát nhân bắt đầu lột da đầu các nạn nhân.

Cô trao bản báo cáo cho người bảo vệ đêm và đi ngủ trong khi vẫn nghe thì thầm các giọng nói của suốt ngày nay và hơi thở nhẹ nhàng của Ardelia. Trong sự lúc nhúc của những hình ảnh trong đêm tối, cô thấy cái khuôn mặt nhỏ bé thật khôn ngoan của con bướm đêm. Đôi mắt như phát sáng này đã nhìn thấy được mặt của Buffalo Bill.

Ngoài hình dáng khôi hài mà viện Smithsonian luôn để lại, trong đầu cô xuất hiện cái ý nghĩ cuối cùng, đoạn kết của ngày làm việc: Trong cái thế giới lạ lùng này, phân nửa cái thế giới hiện tại đang chìm trong bóng đêm, tôi phải truy tìm một vật gì đó sống bằng nước mắt.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.