Chủ nợ ở ngay phòng kế bên, chạy trời không khỏi nắng, vì thế ta không tránh né nữa.
Huống chi còn có sư tổ, trong giấc mộng hỗn loạn ban nãy của ta, một nửa là sự đe dọa chèn ép thường trực của Tinh Trầm, nửa kia và gương mặt luân phiên xuất hiện của sư tổ và A Phụ. Tuy cùng là một khuôn mặt đó, nhưng ta lại cố chấp coi đó là hai người, nên trong giấc mơ, đầu óc ta như muốn nổ tung vì rối rắm.
Ta mở cửa phòng đi ra hành lang tuyết đọng. Lúc đi ngang qua cửa phòng Tinh Trầm, ta cực kỳ cảnh giác tránh rõ xa, cuối cùng dừng lại trước cửa phòng A Phụ.
Ta có rất nhiều lời nói muốn hỏi người, nhưng vào khoảnh khắc giơ tay gõ cửa, ta lại căng thẳng tới độ quên sạch sành sanh. Tiếng mời vào nhanh chóng vọng ra từ trong phòng, ta đành cố đấm ăn xôi đẩy cửa đi vào.
Không ngờ thứ đầu tiên đập vào mắt lại là gương mặt khiến ta cực kỳ đau đầu của Tinh Trầm. Hắn đang đứng dưới cửa sổ, ôm một con bồ câu trắng muốt. Trời ngoài kia sáng bừng, tuyết lấp lánh và ánh mặt trời như càng tôn lên vẻ sáng láng rờ rỡ của vóc người cao dong dỏng ấy.
Ta cụp mắt xuống, tránh né ánh nhìn xuyên thẳng không vật cản của hắn, lí nhí lầu bầu: “Sư tổ…”
A Phụ cười vẫy tay với ta, “Không phải ta đã bảo con đừng gọi ta là sư tổ sao? Đêm qua các con vừa ra ngoài là trời bỗng bổ một tia sét. Trông nguy hiểm thật…”
Ta đứng đực người ngoài cửa, nhất thời xấu hổ như củ khoai lang nướng bỏng rẫy. Ta nhướng mày lườm Tinh Trầm đầy vẻ ẩn ý. Cha nội này thì vẫn ung dung giữa chốn xô bồ đứng tựa cửa sổ, còn quay mặt sang nhoẻn miệng cười với ta, một bên răng nanh như ẩn như hiện, mặt rất là tiểu nhân đắc chí.
Lòng ta càng bi phẫn hơn, lại lườm hắn, nụ cười trên môi hắn càng thêm trắng trợn táo bạo.
A Phụ lại vẫy tay với ta, ta dợm bước, đi tới trước mặt người, đứng im thin thít, cụp mi cụp mắt nói: “Sư tổ… Tối qua đồ nhi say quá chẳng phân biệt già trẻ, mạo phạm người…”
A Phụ chà xát cánh tay, nhe răng trợn mắt nói: “Phinh Phinh, nếu con còn đối xử với ta thế này nữa, thì chúng ta cứ đường ai nấy đi thì hơn. Đỡ để mỗi ngày mỗi lần con mở miệng, da gà da vịt ta lại nổi hết lên.”
Ta đành cười gượng với người, không biết phải nói gì nữa cho phải.
A Phụ thở dài, chỉ vào chiếc ghế nhỏ gần bếp lò, nói: “Nếu con vẫn thấy ngại, thì qua bên kia ngồi nghe chúng ta nói chuyện đi.”
Ta gật đầu, ngoan ngoãn ngồi trước bếp lò, rướn cổ nhìn nồi lẩu nhỏ trên sàn, lại nhìn con bồ câu Tinh Trầm đang ôm, thuận miệng hỏi: “Sư tổ tính hầm canh bồ câu ạ?”
Bồ câu như thể hiểu được lời ta, nó vỗ cánh phành phạch tính chạy thoát thân. Tinh Trầm vội túm nó về tay, nhanh nhẹn vuốt v3 bộ lông trắng muốt của bồ câu, ôn tồn trấn an nó: “Đừng nghe muội ấy nói linh tinh…”
Con bồ câu cọ cái đầu nhỏ vào lòng bàn tay Tinh Trầm, cực kì căm ghét liếc ta.
Ta ngượng ngùng nói: “Không phải để hầm canh ạ…”
Tinh Trầm nhìn ta bằng ánh mắt y như con chim bồ câu kia, bất đắc dĩ nói: “Đây là bồ câu tiên mà huynh trưởng ta nuôi, nó có thể tìm thấy ta bất kể ta đi đến đâu.”
Ta chợt hiểu ra, ngượng ngùng cười cợt với con bồ câu đang tức giận bất bình kia, “Hóa ra là bồ câu đưa thư à, thất kính thất kính.”
Bồ câu còn đảo đôi mắt đen như hạt đậu của nó đượm vẻ khinh thường khí phách, khiến người ta không khỏi trầm trồ.
A Phụ hỏi Tinh Trầm: “Huynh trưởng con gửi thư đến à?”
Ta lại vô thức nhìn về phía Tinh Trầm, chỉ thấy hắn vuốt v3 bồ câu, gật đầu nói: “Huynh trưởng nói Giao Thừa là sinh nhật của nữ thần Vương Ốc, đế hậu lệnh cho huynh ấy đi chúc thọ thay. Huynh ấy bảo tính thời gian có lẽ tụi con cũng sắp đền gần núi Vương Ốc. Tốt nhất cũng nên lên núi, chúc thọ nữ thần, tiện thể gặp huynh ấy luôn.”
A Phụ cười nói: “Vậy chúng ta qua đó chung vui đi, cũng gần mấy trăm năm rồi ta không được uống rượu ngon chúc thọ.”
Tinh Trầm chần chờ nói: “Nơi đó đông người phức tạp, nhỡ có ai nhận ra người thì biết làm sao ạ?”
A Phụ cười lắc đầu, “Không sao không sao, trong trời đất này chỉ có mình Phinh Phinh là phá được thủ thuật che mắt của ta thôi.”
Tinh Trầm nghi hoặc nói: “Hôm qua con đã muốn hỏi sư tổ rồi, vì sao thuật che mắt của sư tổ lại không có tác dụng với sư muội ạ?”
Ta vội gật đầu phụ họa: “Đúng vậy sư tổ, tại sao chỉ mình con mới thấy được tóc mai bạc của người ạ?”
A Phụ nháy mắt với ta, “Bởi vì ta là A Phụ của con đó…”
(Từ Phụ ở đây nghĩa là cha, trong khi từ Phụ bình thường thượng thần Phong Lăng hay dùng nghĩa là trái, phụ lòng.)
Ta ngây người mất một lúc lâu thì mới hiểu rõ ý câu này của sư tổ, vỗ trán kêu lên: “Sư tổ, người xấu tính thật đấy, người bắt con gọi người là A Phụ là vì muốn trêu chọc con đúng không?”
Sư tổ đột nhiên vui phơi phới, cười nghiêng ngả, “Con gái ngốc, giờ con mới ngẫm ra à.”
Tinh Trầm nhìn hai chúng ta với vẻ mặt cạn lời, vuốt v3 con bồ câu trong tay mình từng chặp.
Sư tổ vừa cười vừa chỉ vào Tinh Trầm, khen hắn: “Sư huynh con nhanh nhạy hơn con nhiều, nó chưa mắc mưu lần nào. Trước mặt thì gọi ta là lão già lừa đảo, sau lưng thì chửi ta là lão khọm chết toi. Ngay từ đầu người ta đã biết không được gọi bừa cái tên này rồi.”
Ta nhệch miệng, lạnh lùng liếc Tinh Trầm, lại thấy hình như hắn chợt xúc động, cái tay đang vuốt v3 bồ câu bỗng dừng lại.
Tinh Trầm đột nhiên hỏi: “Sư tổ có biết ai đã tạo ra mê trận được sử dụng trong lễ tế truyền đăng của núi Lưu Ba không ạ?”
Sư tổ nhìn Tinh Trầm thật sâu, mặt lộ vẻ tán thưởng, cười ha hả nói: “Ta tạo.”
Tay Tinh Trầm siết lại, con bồ câu bị hắn bóp thì cáu nhặng lên, nhếch mỏ mổ mạnh một cái lên mu bàn tay hắn. Tinh Trầm thả tay ra, bồ câu vỗ cánh bay phành phạch ra ngoài.
Ta quả thực không thể tin nổi vào tai mình, lắp bắp nói: “Sư tổ… người tạo ra nó một mình ạ?”
Mê trận kia quỷ quyệt vô biên, bên trong có trời đất sông hồ, có bãi bể nương dâu, có năm tháng biến chuyển, có vật đổi sao dời, có vô số sinh vật bằng máu thịt, biết yêu ghét rõ ràng. Đấy rõ ràng là một trong muôn vàn thế giới. Làm sao người tạo ra được nó chỉ bằng sức của bản thân?
A Phụ gật đầu thờ ơ không để ý lắm, giọng điệu cũng cực kỳ bình thường bâng quơ: “Khi đó ta thấy sống chẳng có gì hay, muốn thử tiêu hao toàn bộ nguyên thần, dùng hết khả năng có thể để tạo ra một khoảng đất trời. Tạo xong sức cùng lực kiệt ngủ một giấc, lúc thức dậy phát hiện mình vẫn không chết đi được, lòng lấy làm buồn bã…”
Ta nhéo một cái lên mu bàn tay mình, đau tới nỗi phải nhe răng, chắc chắn rằng mình đang tỉnh táo nghe sư tổ kể chuyện. Vì thế ta vô cùng ngỡ ngàng hỏi: “Tất cả những con người, yêu ma quỷ quái trong mê trận đều do người tạo ra sao?”
A Phụ lại bình thản thờ ơ gật đầu, “Họ được biến ra từ thần thức của ta. Bởi vì lúc đó ta trút xuống quá nhiều thần thức và tiên lực, nên những sinh vật được hóa hình đó tuy đều có linh thức độc lập, nhưng cũng biết được cội nguồn của mình, đều coi ta là cha đẻ sáng tạo vạn vật…”
Ta lẩm bẩm: “Nên họ đều biết bản thân là do người tạo ra? Đều coi người là cha ruột ạ?”
A Phụ cười gật đầu, “Những vật ta tạo ra sau này thì không tự nhận thức được như thế…”
Ta tặc lưỡi cảm thán, không thể không nhìn lão già ba hoa chích chòe trước mặt bằng ánh mắt khác.
Tinh Trầm đột nhiên nói: “Món thần binh mà sư tổ sử dụng trong trận chiến núi Vu đã chấn động tam giới, nhưng nếu so sánh với mê trận này thì vẫn chẳng là gì.”
A Phụ nói nhẹ tênh: “Thanh kiếm kia được biến ra từ nỗi oán giận trong lòng ta, sau này mọi người gọi nó là Oán Tăng, quả là một cái tên cân xứng.”
(Oán Tăng nghĩa là nỗi oán ghét, oán giận)
Nếu đã động đến đề tài này, thì ta càng không kiềm chế nổi nỗi tò mò trong lòng, bèn hỏi: “Sư tổ, người ngoài giới hay đồn người có ba món vũ khí nhiệm màu, đủ sức phá hủy đất trời. Chuyện đấy có phải là thật không ạ?”
A Phụ cười lắc đầu, “Người đời hay nghe nhầm đồn bậy, tất cả oán giận độc địa của ta năm đó đều hóa thành thanh kiếm Oán Tăng rồi, nào còn vũ khí nhiệm màu gì nữa. Nhưng đống tin vịt ấy không phải đều giả dối hư ảo, quả thực ta còn tạo ra ba món đồ khác, chẳng qua không có uy lực tàn sát bốn phương mà thôi.”
Ta vừa nghe thế là tỉnh cả người, năn nỉ A Phụ kể cho ta nghe ba món bảo bối kia là gì.
Vẻ mặt lãnh đạm của Tinh Trầm cũng thay đổi, hắn chậm rãi xích lại gần. Dù sao đây cũng là đề tài được bàn tán xôn xao nhất chín phương trời, không ngờ chúng ta lại được trời phù hộ như thế, có thể tìm hiểu sự thật từ chính sư tổ.
A Phụ cũng không im bặt, có điều trông chẳng lấy làm hứng thú bao nhiêu. Có vẻ người không muốn bàn về đề tài này lắm. Nhưng không chịu nổi ngón đòn một đứa năn nỉ ỉ ôi một đứa trông mòn con mắt của ta và Tinh Trầm, A Phụ đành than nhẹ một tiếng, “Chẳng qua chỉ là mấy chuyện thóc mục vừng thối ngày xưa thôi. Nếu mấy đứa không chê chán, thì ta sẽ kể cho mấy đứa nghe.”
Ta lập tức gật đầu như giã tỏi, “Sẵn lòng nghe, cực kỳ sẵn lòng luôn ạ.”
Tinh Trầm cũng gật đầu từ tận đáy lòng.
A Phụ suy ngẫm một lát, rốt cuộc chậm rãi kể: “Ta tạo ra món Thần Khí đầu tiên vào khoảng ba ngàn năm trước, khi đó ta còn sống lánh đời ở Phong Lăng…”
Biểu cảm của A Phụ hơi ảm đạm, người lưỡng lự một thoáng rồi im lặng. Ta sợ người không chịu kể tiếp, vội hỏi: “Món Thần Khí đầu tiên là cái gì ạ?”
A Phụ lại im lặng một lúc lâu rồi mới nói tiếp: “Là một quyển sách…”
Nói xong câu này người lại không thêm tiếng nào nữa, ta đành hỏi gặng bám riết: “Một quyển sách ư? Dùng làm gì thế ạ?”
A Phụ cười khổ, nhẹ nhàng đáp: “Đó không phải là một quyển sách bình thường, mà là một quyển sách có thể tạo ra ảo cảnh vô hạn. Nếu ai đọc nó, một thời gian sau nó có thể biết tường tận chuyện kiếp trước của người này, và cũng tạo ra ảo cảnh trong trang sách từ kiếp trước của người đó, không sai chút nào.”
Cái này lạ lùng ghê
. Không biết tại sao A Phụ lại bất chợt nghĩ ra một món đồ thú vị như thế.
Ta tò mò hỏi: “Tại sao sư tổ lại tạo ra món Thần Khí như vậy ạ?”
A Phụ lại chần chờ, mãi lâu sau mới lẩm bẩm: “Vì một người con gái…”
Ta lập tức đánh hơi thấy chuyện để hóng hớt, bật thốt lên: “Chắc chắn là người con gái đã làm sư tổ rung động đúng không ạ?”
A Phụ cười cay đắng, tiếp tục từ tốn kể: “Ta sống lánh đời ở Phong Lăng mấy vạn năm, thường xuyên ngồi thiền bên bờ vực thẳm. Có một cây phong lẻ loi mọc trên vách núi ấy. Ta ngồi thiền lâu dưới gốc cây, cây phong dần có linh thức nhờ được tiên khí của ta ngấm vào…”
“Vì thế lâu ngày sinh tình…”
Ta yên lặng nghĩ thầm trong lòng.
A Phụ buồn bã nói: “Tuổi thọ của linh hồn cỏ cây có giới hạn, nàng ở bên ta ngàn năm, dù ta có dùng bao nhiêu tiên lực cứu chữa, chung quy vẫn có ngày phải lìa đời. Nói cũng mỉa mai, khi nàng còn sống, dường như ta chưa từng để nàng trong lòng, nàng chết đi rồi, ta lại không thể sống một mình dù chỉ một ngày. Vách núi cô độc ấy quả là cô độc đúng như cái tên của nó, ta ngồi bên vách đá nhìn biển mây ngày ngày, tóc mai nhuộm trắng như sương. Ta đột nhiên hiểu rõ mùi vị của nỗi khổ yêu mà phải biệt ly trong bốn nỗi khổ cuộc đời. Vậy nên ta đã hóa tất cả cảm xúc trong lòng thành một quyển sách, đặt tên là Tấn Như Sương.
“Sau khi linh hồn cỏ cây chết, họ không vào luân hồi, sợi hồn rất nhẹ sẽ nhanh chóng tan thành mây khói. Ta biến một chiếc lá phong thành tướng mạo của nàng lúc còn sinh thời, nuôi dưỡng một sợi hồn phách còn sót lại của nàng trong lá phong, ngày ngày để nàng đọc quyển Tấn Như Sương kia. Rốt cuộc có một ngày, quyển sách hóa ra từ đầu chí cuối kiếp trước của nàng. Ta bèn đưa nàng vào ảo cảnh, chờ nàng trải qua từng sự việc trong kiếp trước, nhớ lại ta, nhớ lại sớm sớm chiều chiều chúng ta từng kề cận ngày xưa…”
Không biết tại sao, khi nghe câu chuyện này, lòng ta bỗng hơi hoảng hốt, ta lẩm bẩm hỏi: “Sau này thì sao ạ?”
“Sau này nàng thật sự đã trở lại, tìm lại ký ức lúc xưa, trở thành người mà ta từng thân thuộc, lại sống ngàn năm với ta…”
Tuổi thọ của linh hồn cỏ cây có hạn, vậy chắc ngàn năm sau lại phải chia ly trước ngưỡng cửa cái chết, ta đột nhiên không đành lòng nghe tiếp nữa…
“Ngàn năm sau, nàng lại ra đi, ta lấy quyển sách cũ đã phủi bụi nhiều năm, tìm nàng về lần nữa…”
Đây có lẽ là một câu chuyện mất đi rồi lại tìm thấy, hết cơn bĩ cực tới ngày thái lai, nhưng giọng A Phụ mỗi lúc một thêm cay đắng, ta thật sự không dám nghe tiếp nữa…
“Một ngàn năm lại qua đi, ta vẫn đưa nàng vào ảo cảnh Tấn Như Sương. Có lẽ là vì ta đã làm trái lẽ trời sửa đổi vận mệnh cho nàng nhiều lần, nên đạo trời bất mãn. Nàng vừa đi vào ảo cảnh trong sách, thì trời bỗng giáng sét xuống, đánh trúng quyển sách kia. Ta cuống quýt cứu quyển sách, nhưng không thấy ảo cảnh trong sách nữa…”
[HẾT CHƯƠNG 71]