Tuy mây mưa ngập trời, nhưng nhìn từ lầu hai quán trọ, con hẻm dẹp dài quanh co uốn lượn ngoài kia vẫn vô cùng náo nhiệt. Những chiếc ô giấy hoa hòe lòe loẹt uốn lượn trong mưa, xa dần tới khi chỉ còn mờ nhạt. Từng luồng khí trắng tỏa ra từ tiệm bánh bao cách vách, trông nóng hôi hổi, nhuộm chút ấm áp hòa hợp cho ngày mưa tí tách.
Ta ngồi trước cửa sổ, chán chẳng buồn chết ngắm mưa hơn một canh giờ. Hồi trưa ta bị hương thơm chiên xào nấu nướng từ bốn phương tám hướng quấy nhiễu tới độ đứng ngồi không yên, nên lại đi gọi Tinh Trầm lần nữa, nhưng vẫn không thể đánh thức hắn khỏi giấc ngủ say.
Ta đành về phòng đánh một giấc trưa, lúc thức dậy không rõ trời âm u hơn hay mình lỡ ngủ tới tận tối luôn, mà ngoài cửa sổ đã đen kịt một màu. Những ngọn đèn dầu điểm xuyết con phố dài, ta đứng dậy chạy qua phòng kế bên lần nữa. Lần này đi gọi mà hắn còn không dậy, là ta sẽ đập hắn.
Vì thế ta gọi hắn mấy tiếng, rồi phồng cái gan chuột túm bả vai hắn lay một lúc. Ta nghĩ thầm, lát nữa mà không dỗ được cha nội này hết gắt ngủ, có khi hắn sẽ tống ta vào lò, nung ra cái bình khác mới tinh…
Ta lắc hắn mãi, hơi lạnh mới muộn màng dâng lên trong tim. Ta đột nhiên luống cuống kiểm tra hơi thở của hắn, lòng tự an ủi lòng rằng, chưa tắt thở chưa tắt thở.
Ta bắt chước Bạch Chỉ tiên quân, cầm cổ tay hắn lên, ấn hai ngón tay lên đó. Mãi tới khi cảm nhận được mạch của hắn đang đập, ta mới ngồi bệt xuống mép giường, thở phào nhẹ nhõm.
Không chết không chết, chắc hắn chỉ mệt quá thôi.
Hôm ấy, sau khi hắn cảm tử đưa chúng ta vượt qua kết giới lôi trận của Ngưỡng Sơn Tiên Tôn, ta đã cảm thấy sắc mặt hắn cực kỳ mệt mỏi. Ta nghĩ bụng chắc hắn vận dụng quá nhiều tiên lực. Có điều lúc ấy hắn không hé răng, ta cũng không phát hiện ra hắn mệt đến mức nào.
Ta cầm cổ tay lạnh lẽo của hắn, chần chờ không thả tay ra vội, phải lắng nghe mạch đập đều đều của hắn thì trái tim mới dần thôi hoảng loạn. Không biết bao lâu đã qua, ta đột nhiên nhớ ra đống viên đan mà Bạch Chỉ tiên quân để lại lúc gần đi. Ta nhớ lão bảo dùng để bổ khí dưỡng thân, ta vội vàng lấy hai viên đan ra, lấy viên lớn nhất đút cho hắn. Ngặt nỗi hắn cắn chặt răng, ta đành phải bẻ đan thành từng miếng nhỏ nhét cho hắn, sau đó lại rót thẳng nước vào miệng hắn từ bình trà nhỏ để hắn nuốt cho xuôi. Vật vã đến khuya mới đút xong một viên đan.
Ta ngồi mất hồn mất vía ở đầu giường trông hắn cả đêm mà chẳng thấy viên đan Bạch Chỉ tiên quân để lại có tác dụng gì. Hắn ngủ thật sự sâu giấc, nhưng lại không được yên ổn, chốc chốc lại nhíu chặt mày, mồ hôi lạnh đầm đìa trên trán, tựa như phải chịu sự tra tấn rất khổ sở…
Ta lau mồ hôi lạnh trên trán hắn đi rất nhiều lần, luôn vô thức hỏi hắn: “Huynh bị đau ở đâu thế…”
Ta tựa lên đầu giường ngủ gật, chỉ cảm thấy mình vừa nhắm mắt một lát rồi mở mắt ra, mà nắng sớm đã len vào qua khe cửa sổ, nhẹ nhàng rọi lên đầu giường. Thốt nhiên ta lại cảm thấy gương mặt điển trai thanh thoát của hắn có vẻ thật sự hơi trong suốt, như thể cảnh tượng đáng sợ trong giấc mộng của ta lại tái diễn.
Trái tim ta lại lập tức hoảng loạn, không biết nên làm sao cho phải.
Đúng rồi, đổ bệnh thì phải gặp đại phu để khám chứ
. Tuy Tinh Trầm là thần tiên, nhưng lần này đổ bệnh là do mệt. Phải tìm đại phu, tìm đại phu nào kê canh thập toàn đại bổ cho hắn, có lẽ cũng là cách hay.
Ta cuống quít đứng dậy, chạy xuống lầu dưới hỏi thăm hầu bàn xem gần đây có y quán không. Hầu bàn của quán trọ quan tâm hỏi han đủ đằng, sau đó cười vỗ tay nói: “Trùng hợp ghê, hiện giờ trong quán chúng tôi có một thầy lang vân du bốn phương, đã khám bệnh cho dân tình quanh đây mấy ngày, ai cũng bảo y thuật của thầy ấy tốt lắm. Mấy ngày trước vốn thầy định cất bước khởi hành ngay, bà con láng giềng khuyên can mãi thầy mới đồng ý ở lại hai ba ngày, vừa hay kịp cho cô gặp đấy.”
Ta bèn nhờ hầu bàn dẫn ta đi gặp thầy lang nọ.
Trùng hợp mà lại không trùng hợp làm sao, đúng là ông thầy thuốc kia ở ngay phòng cheo chéo đối diện Tinh Trầm, nhưng đã đi dạo từ sáng sớm rồi.
Ta bèn đứng trước cửa quán trọ chờ ông ta về. Ngõ nhỏ buổi sớm như nửa thức nửa tỉnh, tất cả đều im ắng chậm chạp. Ta rướn cổ ngước qua từng cửa tiệm nhấp nhô trong hẻm nhỏ, nhìn con đường nhỏ đá xanh uốn lượn trước mặt chằm chằm, chờ đến tận khi tiệm bánh bao bên cạnh toả ra từng làn sương mù nóng hầm hập.
Trong làn sương trắng lượn lờ, một bóng dáng cao gầy dong dỏng bước tới từ phương xa. Bộ áo xanh khoác trên thân hình gầy gò của người đó có vẻ hơi thùng thình, lại thêm vẻ hào sảng khó tả.
Ta ngơ ngẩn nhìn người nọ, cảm thấy có chút chờ mong, không biết người ấy có phải thầy lang đi dạo đã về không.
Khi người đó đi xuyên qua màn sương trắng chạm mắt với ta, hai chúng ta đồng thời ngẩn ra một lát, sau đó lại đồng thời kinh ngạc gọi tên người kia.
“Phinh Phinh…”
“A Phụ…”
Quả là ở đời làm gì có chuyện không tương phùng…
Điều khiến ta ngạc nhiên hơn nữa là, A Phụ chính là thầy lang mà ta đợi suốt buổi sáng…
“Sao…”
Ta ngóng trông nhìn A Phụ nhắm mắt tập trung khám mạch một lúc rõ lâu cho Tinh Trầm. Khi y buông ngón tay ra, ta bèn sốt sắng đi lên hỏi.
A Phụ lại chẳng tinh mắt gì cả, y rụt tay về không chút hoang mang, cười ha hả bảo ta lâu lắm mới gặp nhỉ.
Ta đành gắng kìm nén cơn sốt ruột, hàn huyên với y vài câu, sau đó lại sốt sắng hỏi y bệnh tình của Tinh Trầm thế nào rồi.
Nói được hai ba câu, ta mới phát hiện A Phụ không phải là một người kém tinh tế thiếu tinh mắt, mà tên này đúng là một kẻ mù dở. Y thậm thụt liếc Tinh Trầm như kẻ trộm, rồi lại trưng vẻ mặt mờ ám cười với ta.
“Đưa nhau đi trốn à?”
“Hả?”
Nghe y hỏi thế, ta chẳng hiểu mô tê gì.
“Tình yêu tình đương hử?”
A Phụ căn cứ vào biểu cảm của ta, điều chỉnh cách hỏi ngay tắp lự.
“Hả?”
Ta tiếp tục chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao.
A Phụ bất đắc dĩ, đành phải hỏi bằng tiếng người, “Cậu ta là gì của cô?”
Ta nói thầm trong lòng,
thứ thầy lang chân đất mắt toét nhà ông, thăm bệnh cho ai cũng ba hoa chích chòe dấm da dấm dớ thế này, sao chưa bị người nhà bệnh nhân tẩn chết?
Tuy sắp bị y chọc cho tức điên đầu óc bốc khói, nhưng ta chẳng biết ai trong thế giới xa lạ này, vất vả lắm mới gặp được người quen, còn là một người quen có thể khám bệnh cho sư huynh, ta không thể phũ phàng trở mặt với y ngay được.
Ta đành phải dằn cơn tức lại, nói: “Huynh ấy là sư huynh của ta, cũng là đệ tử Lưu Ba.”
A Phụ gật đầu như đã hiểu, ta vội vàng hỏi: “A Phụ, sư huynh ta rốt cuộc bị làm sao thế?”
Ai ngờ A Phụ lại hỏi tiếp với vẻ mặt bà tám: “Hai cô cậu không chăm chỉ học hành ở Lưu Ba, chạy xa như thế làm gì?”
Ngón tay ta giần giật, ta rất muốn xé tan tành cái miệng ba hoa chính chòe không được câu nào đứng đắn của y, tự móc đáp án ra khỏi họng y.
Ta nhắm mắt lại, gắng bình tĩnh trả lời: “Mỗi một giáp Lưu Ba đều tổ chức lễ tế truyền đăng một lần. Chúng ta là sứ giả truyền đăng, nghe lệnh sư phụ xuống núi du lịch, hộ tống mồi lửa Tu Di tới nhân gian.”
A Phụ khí là kinh ngạc hỏi: “Cô là sứ giả truyền đăng ư?”
Ta cũng khí là kinh ngạc hỏi lại: “Ngài biết lễ tế truyền đăng à?”
A Phụ cười ha hả nói: “Cái đấy có phải bí mật gì đâu, sao ta lại không thể biết?”
Ta ngẫm lại thấy cũng đúng, lễ tế truyền đăng cũng được coi là một sự kiện rất có sức nặng trong tiên môn, tất nhiên có rất nhiều người biết về nó rồi.
A Phụ lại chỉ vào Tinh Trầm, ngạc nhiên hỏi: “Cậu ta là sứ giả truyền đăng á?”
Giọng điệu của y nghe như thể Tinh Trầm trông rất không xứng được làm sứ giả truyền đăng vậy.
Ta nhìn vị sư huynh đang nằm trên giường,
ông tướng này dù nhắm mắt vẫn có thể làm biển quảng bá sống cho núi Lưu Ba mà, không biết tại sao A Phụ lại có thái độ phản đối như thế.
Vì thế ta hỏi lại: “Không được sao?”
A Phụ vội cười, phẩy tay, “Hỏi bừa thế thôi, hỏi bừa tí mà.”
Đến tận lúc này hình như y mới nhận ra lòng ta đang cực kỳ nôn nóng, rốt cuộc cũng kéo đề tài đã lạc xa tít tắp như ngựa hoang thoát cương quay về người bệnh.
Hắn nhìn kỹ mặt Tinh Trầm, vô cùng hứng thú nói: “Linh lực trên người cậu sư huynh này của cô hơi kỳ đấy.”
Ta nghe y nói nhảm cả buổi sáng, gần như đã kết luận kẻ này là phường giang hồ bịp bợm bán thuốc tăng lực, không ngờ y lại đánh trúng vấn đề chỉ bằng một câu, ta không khỏi phải nhìn y bằng ánh mắt khác.
Ta vô thức ngồi thẳng hơn, thì thầm hỏi nhỏ: “Kỳ là kỳ thế nào ạ?”
A Phụ nói: “Linh lực trên người cậu ta như cây không có rễ, nước không có nguồn…”
A Phụ vừa nói vừa ấn cổ tay Tinh Trầm, cau mày nghe ngóng một lúc lâu.
Y thả tay ra, chậm rãi lắc đầu, một thoáng nghi hoặc hiện lên trên nét mặt, “Cũng không thể nói vậy được, cây không có rễ nước không có nguồn tóm lại chỉ là một thoáng hư vô, rồi cũng chẳng trông cậy nổi. Linh lực trên người sư huynh cô…”
A Phụ cau mày cân nhắc từ ngữ, mãi lâu sau mới phun ra mấy chữ: “Khí thế như sói hổ…”
Ta lại chẳng hiểu ra sao cả,
chẳng lẽ ông nội này lại tính ba hoa bốc phét hay sao…
Nhưng y chỉ nói một câu mà đã chỉ được ra vấn đề linh lực của Tinh Trầm, khiến người ta không thể nào coi nhẹ y được.
Ta chần chờ hỏi: “Linh lực là linh lực thôi, sao lại ác ôn như sói như hổ được.”
(Câu trên khí thế như sói hổ ý chỉ mạnh mẽ, uy lực. Câu dưới như sói như hổ là một cụm nghĩa là độc địa, hiểm ác)
Vẻ mặt bí ẩn thâm sâu của A Phụ lập tức trở thành nhe răng trợn mắt vì nghẹn đứ. Y ho sặc sụa phẩy tay với ta: “Cô nhóc, ăn uống linh tinh thì được, nói năng bậy bạ là không được đâu nhé.”
Người dịu dàng đôn hậu như ta, trong giờ phút này cũng không nhịn được cái tay ngứa ngáy, rất muốn bổ sọ cha nội này ra xem trông đầu y có đống hổ lốn gì.
A Phụ đột nhiên thôi bông đùa, nghiêm mặt hỏi ta: “Sao sư huynh cô lại không có nội đan?”
Ta thầm rùng mình, không dám hoài nghi A Phụ là phường giang hồ bịp bợm nữa, “Sao… Sao ngài biết nội đan của huynh ấy mất rồi?”
A Phụ cười nói: “Không có chút bản lĩnh, làm sao chữa bệnh cho người ta được.”
Ta chần chờ một lát, nói với A Phụ: “Huynh ấy bất cẩn làm mất nội đan rồi ạ.”
A Phụ nhướng mày, vô cùng hứng thú liếc ta, cười nói: “Thú vị thú vị, làm mất thế nào đấy?”
“Cái này… Cái này…”
Một câu hỏi thẳng thừng xuyên thấu tâm hồn như thế, thực sự làm ta không biết nói sao.
A Phụ rốt cuộc cũng tinh ý hơn một tẹo. Thấy ta có vẻ khó xử, y bèn chuyển qua đề tài khác, “Cơ thể của cậu ta được chống đỡ nhờ một luồng linh lực ngoại lai. Linh lực này tuy lợi hại đấy, nhưng cũng có chỗ không tốt. Cô có biết linh lực của cậu ta ở đâu mà ra không?”
Ta trả lời đúng sự thật: “Mẫu hậu huynh ấy cho ạ.”
A Phụ giật mình: “Mẫu hậu?”
Ta thấy vẻ mặt kinh ngạc của y, lúc này mới muộn màng nhận ra không phải ai cũng có mẫu hậu. Hiện giờ trong tam giới, chỉ có con cái của gia đình Thiên Đế, người trong hoàng gia, và gia đình Yêu Vương là có kiểu gọi mẹ thế này.
Ta hơi hối hận vì mình nói năng không suy nghĩ. Bây giờ làm gì có mấy người trong người ngoài biết chuyện Tinh Trầm mất nội đan. Tuy đây là việc riêng của Tinh Trầm, nhưng lần trước Bạch Chỉ tiên quân từng nói, việc của cung Tử Vi cũng là việc của Thiên tộc. Viên nội đan của Tinh Trầm có liên quan đến thần thú tá mệnh chậm trễ mãi chưa chịu xuất hiện của hắn. Mà thần thú tá mệnh của hắn lại liên quan đến người được chọn lên làm đế tôn đời kế tiếp của cung Tử Vi. Nếu ai đấy biết được Tam điện hạ của cung Tử Vi bị mất nội đan, thì không biết sẽ tạo ra sóng to gió lớn gì trên Thiên giới.
Ta đột nhiên cảm thấy viên nội đan trong bụng mình quá đỗi nặng nề. Nỗi niềm áy náy vất vả lắm mới nhạt nhoà nay lại ngóc đầu về, mang khí thế hừng hực như muốn vả ta về nguyên hình.
Ta gục đầu xuống, cuống quít nói qua loa lấy lệ: “Mẹ, mẹ… mẹ huynh ấy cho ạ.”
[HẾT CHƯƠNG 60]