TÔI NGHIÊNG NGƯỜI SANG,
cố gắng không để đầu gối chạm vào cần gạt số, háo hức muốn nghe nốt câu chuyện. Nhưng anh Nash đã xoay người ngó ra ngoài cửa sổ. “Chân anh tê cứng hết cả rồi. Ra ngoài đi dạo một vòng đi.” Nói rồi anh mở cửa chui ra khỏi xe, không buồn đợi xem câu trả lời của tôi là gì.
“Hả?” – tôi nhoài người qua cái vô-lăng và thấy anh Nash đã đang đứng vươn vai, duỗi chân duỗi tay rồi – “Anh định làm cho em chết vì tò mò đấy à?”
“Đâu có” – Anh ngó đầu vào trong xe, nhe răng cười toe toét với tôi, trong khi tôi nhăn nhó mặt mày vì sốt ruột – “Sao chứ, em không thể vừa đi vừa nói chuyện được à?”
Ngay lập tức, đèn xe tự động bật sáng và tôi bước ra khỏi xe, đắm chìm trong những tia nắng cuối cùng đang trải dài trên cái sân chơi liền kề và một phần của cái cầu cảng. Tôi đi vòng ra đằng sau xe tới chỗ anh Nash đang đứng, và nắm lấy tay anh khi anh chìa tay ra. “Đây, em ra đi dạo với anh rồi nhé. Giờ thì anh…”
Chẳng nói chẳng rằng, anh Nash kéo tôi sát lại gần và bắt đầu hôn tôi. Câu nói dang dở của tôi cũng theo đó mà kết thúc. Khi môi anh rời môi tôi, mắt anh chỉ cách mắt tôi có vài phân, và tôi lại thấy những vòng xoáy trong mắt anh chuyển động không ngừng. Là do tác động của nụ hôn cuồng nhiệt vừa rồi nên tôi bị sinh ảo giác chăng?
Đột nhiên tôi không còn thấy đôi mắt ấy lạ lùng nữa. Kể cả sự tò mò của tôi với nó cũng vậy. “Thế… đôi mắt của anh….” – tôi thì thầm hỏi anh, tay vẫn đang ôm chặt lấy cổ anh – “có phải cũng là một phần của bean sidhe nam không?”
“Mắt anh á?” – anh nhíu mày hỏi lại – “À, các vòng xoáy màu sắc đang quay loạn cả lên đúng không?”
“Vâng”
“Ừm…” – tôi cúi đầu hắng giọng, hai tay đút vào trong túi áo – “Đôi mắt anh rất đẹp” – phải mất một lúc tôi mới dám ngẩng mặt lên nhìn anh. Nãy giờ anh vẫn đang im lặng quan sát tôi – “Nhưng có phải chúng biết thôi miên người đối diện không? Vì anh… không phải là con người mà.”
“Không” – anh hất phần tóc mái đang lòa xòa trước mặt sang một bên và cười toe toét – “Nó chỉ xảy ra khi anh gặp phải chuyện gì đó… ừm… cực kỳ căng thẳng. Đôi mắt của một bean sidhe giống như một chiếc nhẫn đổi màu theo cảm xúc mà em không thể tháo ra. Nhưng em không thể đọc được suy nghĩ của chính mình, và con người thì lại càng không thể nhìn thấy dòng cảm xúc của em. Chỉ các bean sidhe khác mới có thể thôi” – kế đó, anh nhìn thật sâu vào trong mắt tôi rồi mỉm cười nói – “Đôi mắt em cũng đang làm điều tương tự. Chúng còn xanh hơn cả nước đại dương, đang xoay tròn như những xoáy nước của vùng biển Ca-ri-bê.”
Ôi, lãng mạn thế. Hai má tôi đỏ bừng lên vì thẹn. Anh ấy có thể nhìn thấy tôi đang nghĩ gì – muốn gì – và tôi cũng thế.
“Anh kể nốt cho em nghe mọi chuyện đi.” – tôi quay lưng lại đi về phía công viên, hai tay vẫn đang đút khư khư trong túi áo. Tôi muốn biết mọi chuyện – nhưng quan trọng hơn, tôi muốn thay đổi chủ đề.
Anh Nash rảo bước đi theo tôi. “Truyền thuyết của con người nói rằng khi một nữ thần báo tử than khóc, là cô ấy đang khóc thương cho một người đã chết, hoặc sắp chết, nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện” – anh quay sang lén nhìn phản ứng của tôi – “Anh đã chứng kiến em nén tiếng khóc than của mình hai lần. Em có còn nhớ gì về cái lần em thả nó ra khỏi cổ họng mình không?”
Tôi khẽ rùng mình, do dự không muốn nhớ lại cái biến cố đã khiến tôi bị nhốt vào trong viện mất nhiều ngày. “Khủng khiếp lắm anh ạ. Một khi đã thả nó ra, em không sao thu hồi lại được. Và em không thể nghĩ về bất cứ chuyện gì khác. Đầu tiên là cảm giác tuyệt vọng đến cùng cực cứ xâm chiếm lấy cơ thể em, kế đó tiếng thét khủng khiếp cứ tuôn trào ra khỏi cổ họng em.” – tôi bồi hồi nhớ lại – “Tiếng thét đó đã hoàn toàn khống chế em, chứ không phải điều ngược lại. Mọi người xung quanh cứ đứng nhìn em trân trối, vứt hết cả túi xách và túi mua hàng để giơ tay lên bịt tai. Có một cô bé đã khóc thét lên và bám chặt lấy mẹ, nhưng em không sao ngừng lại được. Đó là một ngày tồi tệ nhất của cuộc đời em. Thật đấy.”
“Mẹ anh nói lần đầu tiên luôn là khó khăn nhất.”
Đúng rồi, mẹ anh ấy cũng là một nữ thần báo tử, một bean sidhe. Hèn gì hôm đó cô ý cứ nhìn tôi chằm chằm. Có lẽ cô ấy biết tôi chưa hề biết về thân thế thực sự của mình.
Một lát sau, chúng tôi đã đi vào tới trung tâm của cái sân chơi – một lâu đài bằng gỗ khổng lồ với nhiều tòa tháp, đường hầm và cầu trượt. “Em có nhìn thấy toàn bộ quá trình tiền-khởi-hành khi người đó thực sự… ra đi không?” Tôi nhướn một bên lông mày lên. “Tiền-khởi-hành ý ạ?”
Anh nhe răng cười. “Đó là một thuật ngữ chuyên ngành.”
“À. Không ạ, em chẳng kịp nhìn thấy cái gì hết.” – tôi ngồi phịch xuống cái xích đu và đung đưa qua lại, cố gắng quên đi những gì mình vừa kể – “Em còn đang mãi tìm cách bắt cái tiếng thét kia ngừng lại. Bảo vệ trung tâm đã gọi điện cho hai bác em và khi em không thể ngừng khóc, họ đưa em tới thẳng bệnh viện.”
Anh Nash ngồi xuống mấy bậc thang bọc nhựa của một cái cầu trượt gần đó và nhìn tôi từ xa. “Nếu em không mải nhìn quanh nhìn quẩn, thì có lẽ em đã nhìn thấy linh hồn của người đã khuất. Đang lảng vảng đâu đấy.”
“Lảng vảng á?”
“Ừ. Về cơ bản thì các linh hồn bị thu hút bởi tiếng khóc than của bean sidhe và một khi tiếng khóc ấy chưa dứt thì họ không thể đi tiếp được. Họ sẽ cứ lượn lờ, lơ lửng ở đó. Em còn nhớ các nàng tiên cá trong truyện thần thoại không? Về việc tiếng hát của họ có thể hút hồn các thủy thủ cho đến chết ý?”
“Vâng…?” Và hình ảnh đó vẫn không hề giúp tôi nguôi ngoai nỗi sợ hãi đang mỗi lúc một lớn dần lên.
“Giống như thế. Trừ việc những người này đã chết trước khi nghe thấy tiếng hát đó. Và thường thì họ không phải là thủy thủ.”
“Ối” – tôi đặt chân xuống để dừng cái xích đu lại – “Vậy là em có khác gì một cái bẫy ruồi dành cho linh hồn. Thật là… kỳ cục. Tại sao có người lại muốn làm một việc như thế nhỉ? Giam hãm linh hồn của những con người xấu số tội nghiệp.”
Anh Nash nhún vai, đứng dậy kéo tôi lên. “Có rất nhiều lý do. Một bean sidhe biết mình đang làm gì, có thế níu giữ một linh hồn đủ lâu để người đó chuẩn bị tinh thần cho kiếp sau. Để họ ra đi trong thanh thản.”
Tôi nhíu mày, chịu không thể tưởng tượng ra được đó. “OK, em hỏi anh, làm sao họ có thể thanh thản mà đi được trong khi em đang gào thét đinh tai nhức óc như vậy?”
Anh Nash cười ầm lên và tôi bám theo anh đi lên cái cầu gỗ chòng chà chòng chành, được chắp nối từ những miếng gỗ ván rời. “Với các linh hồn, nó không hề giống một tiếng thét đâu. Với anh cũng vậy. Trong mắt các bean sidhe nam, tiếng than khóc của em rất đẹp.” – anh Nash quay lại nhìn tôi từ trên cao, ánh mắt dịu dàng và ấm áp vô cùng – “Nghe giống như một khúc hát linh hồn, tràn đầy nỗi nhớ nhung da diết và sự khát khao. Giá như em có thể nghe thấy như cách bọn anh nghe thấy thì hay biết mấy.”
“Em cũng chỉ mong có thể.” – nghe thành âm thanh gì cũng được, miễn là không phải cái tiếng thét muốn thủng màng nhĩ mà tôi phải chịu đựng – “Nhưng em đâu có thể làm được gì? Anh hãy kể cho em nghe những chuyện nào mà không khiến em chỉ muốn moi lỗ tai mình ra khỏi hộp sọ ý.”
Anh Nash kéo tôi lên trên cầu, và tôi ngồi xuống, hai chân vắt vẻo sang hai bên. “Em có thể giữ chân một linh hồn ở lại đủ lâu để anh ta có thể lắng nghe những suy nghĩ và những lời chia buồn từ bạn bè của mình. Hoặc nói lời tạm biệt với gia đình và người thân, mặc dù họ không thể nghe thấy anh ta.”
“Vậy là em… cũng có ích?” – giọng tôi tràn trề hy vọng.
“Tất nhiên rồi.” Anh Nash ngồi xuống miếng ván bên cạnh tôi, một chân chống ra sau lưng tôi, một chân thả xuống dưới.
Tôi thấy lòng mình ấm dần lên, không còn cái cảm giác bứt rứt không yên khi nghĩ rằng mình chính là thủ phạm giam hãm linh hồn của loài người. Tôi cũng không dám chắc sự thanh thản ấy xuất phát từ việc tôi đã tìm thấy mục đích sống mới của cuộc sống – và cái chết – hay là từ cái cách anh Nash nhìn tôi, như thể anh sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để khiến cho tôi cười.
“Thế anh có thể làm được những gì?”
“Dây thanh quản của anh không có được quyền năng mạnh mẽ như em. Nhưng giọng nói của một bean sidhe nam có… sức ảnh hưởng rất lớn. Có khả năng tác động tới suy nghĩ và cảm xúc của người khác” – anh nghiêng đầu để tôi nhìn được rõ hơn – “Bọn anh có thể khiến người khác tự tin hay phấn khích hơn. Nói chung là bất kỳ loại cảm xúc nào. Khi một nhóm bean sidhe nam tập hợp lại với nhau, họ có thể kích động được dân chúng hoặc kiềm chế một đám đông. Ngày xưa, người ta thường cần rất nhiều bean sidhe nam có mặt tại các phiên xử phù thủy. Nhưng giờ nhiệm vụ chính của bọn anh là xoa dịu mọi người mỗi khi họ thấy lo lắng hay buồn bã.” Anh Nash nhìn tôi đầy ý nhị trong khi tôi xém chút nữa thì ngã ngửa ra đằng sau vì kinh ngạc.
“Chính anh đã giúp em bình tĩnh trở lại, đúng không? Trong cái con hẻm ở quán Taboo.”
“Và đằng sau trường học, buổi chiều hôm nay. Với Meredith…”
Sao tôi không nhận ra điều đó nhỉ? Trước giờ đã lần nào tôi khống chế được cơn hoảng sợ của mình đâu? Trừ phi tôi phải cách rất xa với… người sắp chết đó.
Tôi chớp chớp mắt, ngăn không cho nước mắt chảy ra và còn chưa kịp mở lời cảm ơn anh thì anh đã cất tiếng nói trước. “Không cần đâu. Ít ra thì cuối cùng anh cũng được phô diễn khả năng của mình.”
“Tức là anh còn khả năng khác nữa à? Ngoài khả nàng xoa dịu đó ra?”
Anh gật đầu, và rướn hẳn người sang phía tôi, làm cho cây cầu rung lên bần bật. Mặt anh dí sát vào mặt tôi. “Anh có thể ra lệnh cho các linh hồn.”
“Cái gì cơ ạ?” – đột nhiên tôi thấy lạnh hết cả sống lưng, mặc dù thời tiết tối nay khá là ấm áp.
Anh Nash nhún vai, như thể chuyện đó không có gì là to tát. “Em có thể giam hãm một linh hồn, còn anh có thể điều khiển được linh hồn. Chỉ cho họ biết phải đi về đâu.”
“Thật ý ạ? Thế anh thường chỉ cho họ đi về đâu?” – tôi vần chưa thông được cái khái niệm “dẫn đường cho linh hồn” này lắm.
“Chẳng về đâu cả” – anh Nash thở dài – “Đó chính là vấn đề. Mấy cái khả năng của em vô cùng hữu ích. Nếu không muốn nói là mang đậm chất vị tha cao cả. Còn của anh…? Chẳng có mấy.”
“Tại sao lại không?”
“Bởi vì chỉ có duy nhất một nơi để gửi các linh hồn đã lìa khỏi xác.”
“Kiếp sau á?” – tôi khoanh hai chân lại, quay sang ngồi đối diện với anh.
Anh lắc đầu. Từ phía đằng xa tôi nghe thấy tiếng ve sầu kêu râm ran. “Các linh hồn không cần anh phải làm điều đó.”
Đột nhiên tôi chợt hiểu ra vấn dề. “Anh có thể nhét chúng trở lại! Vào trong thân xác” – tôi bật ngồi thẳng dậy, làm cho cái cầu nghiêng hẳn sang một bên – “Anh có thể làm cho ai đó sống trở lại!”
Anh Nash lắc đầu, mặt vẫn tiếp tục ủ rũ, trái ngược hẳn với sự phấn khích tột độ của tôi. Anh đứng dậy kéo tôi lên. “Để làm được điều đó cần có cả hai người chúng ta. Một cô gái có thể nắm giữ được linh hồn và một chàng trai có thể phục hồi lại nó” – anh vòng tay ôm lấy hông tôi. Anh mắt anh như muốn đốt cháy con tim tôi – “Chúng ta sẽ là một cặp đôi hoàn hảo, Kaylee ạ.”
Hai má tôi ửng hồng.
Và rồi tôi choàng tỉnh trước hiện thực của những điều anh vừa nói, giống như bị một gáo nước lạnh dội thẳng vào mặt.
“Chúng ta có thể cứu người hả anh? Đảo ngược lại cái chết? Đáng ra anh phải nói cho em biết điều đó đầu tiên chứ!” – tôi thật không hiểu tại sao anh ấy lại lắc đầu.
Và đi liền ngay sau sự phấn khích đó của tôi là một nỗi ân hận vô bờ bến. Mặc cảm tội lỗi vốn luôn chất chứa trong lòng tôi nay lại một lần nữa ùa về. “Vậy là em không những không cảnh báo được cho Meredith, mà còn để mặc cho bạn ấy chết, trong khi chúng ta hoàn toàn có thể cứu được bạn ấy. Tại sao anh không nói cho em biết?” Tôi không sao kiềm chế được cơn giận dữ đang bốc ngùn ngụt trong đầu mình. Meredith đáng ra vẫn còn sống nếu tôi biết cách cứu bạn ấy!
“Không đâu, Kaylee ạ” – anh Nash nâng cằm tôi lên cho tới khi tôi nhìn thấy một nỗi ân hận đang ẩn sâu trong mắt của anh – “Chúng ta không thể tự tiện nhét các linh hồn trở lại thân xác người đã chết được. Mọi chuyện không phải chỉ đơn giản như vậy. Em thậm chí còn không thể cảnh báo cho người khác về cái chết của mình. Ít ra về mặt thể chất là không thể, bởi vì em đâu làm được việc gì khác trong lúc đang cất giọng hát khúc hát linh hồn. Đúng không nào?”
Tôi đau khổ gật đầu. “Nó kiểm soát em hoàn toàn…” – không thể tin được tiếng thét kinh khủng đó lại được coi là khúc hát linh hồn cơ đấy – “Nhưng chắc là phải có cách gì đấy chứ anh” – tôi sốt ruột quay sang hỏi anh Nash – “Chúng ta có thể nghĩ ra một kiểu ra dấu riêng với nhau. Ngay khi em có linh cảm một cái là em sẽ ra hiệu cho anh và anh có thể đi cảnh báo cho người… ừm… sắp chết kia.”
Anh Nash lại lắc lắc đầu. Anh nắm lấy tay tôi, kéo tôi đi chậm lại nhưng rồi thả ra khi thấy người tôi cứng lại. “Ngay cả nếu em có thể cảnh báo cho người đó biết thì cũng chẳng thể thay đổi được điều gì. Nó chỉ càng khiến cho thời khắc cuối cùng của người ta thêm khủng khiếp mà thôi” – tôi lắc đầu quầy quậy, từ chối không muốn nghe tiếp, nhưng anh ấy vẫn tiếp tục nói – “Đó chính là điều anh đang cố nói cho em hiểu, Kaylee ạ. Em không thể ngăn chặn được cái chết.”
“Nhưng anh vừa nói là chúng ta có thể đấy còn gì”- tôi đứng dựa lưng vào cái cầu trượt màu xanh lá – “Cùng với nhau, chúng ta đáng ra đã có thể cứu sống được Meredith. Thậm chí là cả chị Heidi Anderson. Chẳng nhẽ anh không cảm thấy gì khi mà đến một lần cứu họ chúng ta cũng chưa hề thử à?”
“Tất nhiên là có chứ, nhưng cho dù chúng ta có cứu Meredith lần này thì vẫn không thể ngăn chặn được cái chết của bạn ấy. Nó chỉ kéo dài cuộc sống của bạn ấy thêm một thời gian. Và việc em can thiệp vào sự sống chết của người khác, nhất là khi số của họ đã tận, sẽ để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Tin anh đi, cái giá phải trả không đáng đâu.”
“Anh nói thế nghĩa là sao?” – tại sao cứu sống một mạng người lại không đáng?
“Một mạng đổi một mạng, Kaylee ạ. Nếu chúng ta cứu Meredith, một người khác sẽ phải chết thay. Có thể là một trong hai chúng ta, hoặc bất kỳ ai đang đứng gần đó.”
Ối.
Tôi ngồi phịch xuống chân cầu trượt, nhắm chặt mắt lại vì kinh hãi. OK, cái giá đó thì đúng là hơi đắt thật. Và ngay cả nếu tôi sẵn sàng mạo hiểm bằng mạng sống của mình thì tôi cũng không thể quyết định hộ một người vô tội đang đứng gần đó. Hay anh Nash. Mặc dù vậy, tôi vẫn không sao gạt bỏ được chuyện này ra khỏi đầu. Cho dù anh Nash có đưa ra lý do gì đi chăng nữa, cho dù chúng có logic đến đâu đi chăng nữa thì việc để yên cho Meredith chết đi như thế là không đúng chút nào. Tôi không thể chịu đựng được cái ý nghĩ một ngày nào đó tôi sẽ lại phải chứng kiến chuyện đó thêm một lần nữa.
Anh Nash thở dài và ngồi xuống bên cạnh tôi, hai tay ôm lấy đầu gối. “Kayleee ạ, anh hiểu cảm giác của em bây giờ, nhưng cuộc đời là như vậy. Khi thời gian của ai đó đã điểm thì họ cần phải ra đi, và em sẽ chỉ càng khiến bản thân thêm rối trí nếu cứ mải đi tìm các kẽ hở trong hệ thống. Tin anh đi.” Sự bi thương trong giọng nói của anh Nash khiến trái tim tôi quặn đau. Tôi đưa tay chạm vào anh, mong sao có thể xoa dịu đi phần nào cái nỗi đau đang giằng xé trong anh.
“Anh đã thử rồi, đúng không?” – tôi thì thào hỏi anh. Anh lặng lẽ gật đầu, và tôi nhoài người sang đặt lên môi anh một nụ hôn, sau đó ôm anh vào trong lòng – “Là ai vậy anh?”
“Bố anh.”
Tôi lặng người, khẽ buông anh ra để có thể nhìn rõ được mặt anh. Tôi có thể cảm nhận được nỗi đau của anh qua ánh mắt anh nhìn tôi. “Chuyện gì đã xảy ra vậy anh?”
Anh Nash thở ra chậm rãi và ngả hẳn lưng ra đằng sau. Ánh sáng từ cái đèn điện trên cao chiếu thẳng vào mặt anh. Anh đưa tay lên xoa trán, như thể để ngăn không cho cái ký ức đau thương kia tràn về. “Bố anh đang quét lại sơn cửa sổ tầng hai thì bị rơi từ trên thang xuống và đập đầu vào mấy viên gạch trong vườn. Mẹ anh đang làm cỏ trong vườn nên đã chứng kiến toàn bộ sự việc.”
“Khi đó anh đang ở đâu?” – tôi nhẹ nhàng hỏi.
“Anh đang chơi ở sân sau thì nghe thấy tiếng mẹ hét thất thanh nên đã chạy vội ra. Khi anh tới nơi, mẹ đang khóc nức nở và ôm bố anh trong lòng. Máu chảy vẫn ướt đẫm chân mẹ. Và rồi bố anh tắt thở và mẹ anh bắt đầu cất tiếng hát.”
Anh Nash nhỏm dậy nói tiếp. “Đó là một khúc hát rất hay. Nhưng buồn. Và rồi anh nhìn thấy linh hồn của bố, đang lơ lửng trên đầu bố và mẹ. Anh đã cố tìm cách chỉ đường cho ông. Anh không biết phải làm như thế nào, chỉ biết là phải tìm mọi cách để cứu bố. Nhưng bố đã ngăn anh lại. Linh hồn của bố… Anh có thể nghe thấy tiếng bố nói. Rằng anh cần phải đi và chăm sóc cho mẹ. Rằng mẹ rất cần anh. Và bố anh đã đúng, mẹ anh không ngừng trách móc bản thân vì đã yêu cầu bố đi sơn lại cánh cửa sổ ngày hôm đó. Cho đến giờ mẹ anh cũng vẫn chưa thể quên được chuyện xảy ra năm ấy.”
“Khi đó anh bao nhiêu tuổi vậy?”
“Mười” – anh nhắm nghiền mắt lại – “Bố anh là linh hồn đầu tiên anh nhìn thấy và anh đã không thể cứu được ông. Trừ phi tìm được một người khác thế mạng, và anh không thể mạo hiểm tính mạng của mình. Hay của mẹ” – anh mở mắt nhìn tôi đầy nghiêm nghị – “Và bố anh đã nói đúng, Kaylee ạ. Chúng ta không thể lấy đi mạng sống của một người vô tội để cứu một người đã đến số phải chết.”
Tôi công nhận cái đó thì đúng. Nhưng… “Nhỡ Meredith chưa đến lúc phải chết thì sao hả anh? Nhỡ thời gian của bạn ấy chưa tận thì sao?”
“Không, đã hết thật rồi” – anh Nash nói giọng đầy quả quyết.
“Làm sao anh biết được?”
“Bởi vì mỗi người khi sinh ra đều đã được định sẵn một lịch trình riêng. Một bảng danh sách chính thức. Và có riêng một nhóm người chỉ chuyên làm nhiệm vụ thực hiện theo những gì đã ghi trên bảng danh sách đó.”
Tôi chớp mắt kinh ngạc. “Anh nói thật đấy à?”
“Đáng tiếc là như vậy” – anh cay đắng gật đầu.
“Như thế có vẻ hơi… quan liêu anh nhỉ.”
Anh nhún vai. “Đó là một hệ thống được tổ chức rất tốt.”
“Hệ thống nào, dù là hoàn hảo đến mấy, thì cũng vẫn có thiếu sót thôi anh ơi” – thấy anh Nash định mở miệng phản đối, tôi vội nói tiếp – “Anh cứ thử nghĩ mà xem. Trong vòng ba ngày, ba cô gái cùng chết trong cùng một khu vực, mà không rõ nguyên nhân, cả ba đều tự dưng lăn đùng ra chết. Đấy đâu thể gọi là quy luật của tự nhiên được. Phải gọi là rất “không bình thường” mới đúng. Hay chí ít cũng là “đáng ngờ”.”
“Công nhận đúng là không bình thường thật” – anh Nash gật đầu. Anh đưa hai tay lên day thái dương, đột nhiên giọng nghe có vẻ rất mệt mỏi – “Nhưng ngay cả nếu số họ chưa tận thật đi chăng nữa thì chúng ta cũng không thể làm được gì, trừ phi định kéo một người khác chết thay.”
“OK…” – đúng là tôi không thể tranh luận lại được với cái logic này của anh – “Nhưng nếu ai đó chưa đến lúc phải chết, liệu hình phạt dành cho người cứu anh ta có vẫn còn hiệu lực không?”
Mặt anh Nash trông có vẻ sốc khi nghe thấy câu đó của tôi. Có vẻ như anh ấy chưa bao giờ cân nhắc tới khả năng đó. “Anh không biết. Nhưng anh biết một người có thể trả lời câu hỏi đó của em.”