Soul Screamers (Nữ Thần Báo Tử)

Quyển 1 - Chương 6



EMMA ĐÃ NÓI ĐÚNG

đâu đâu cũng thấy toàn người là người. Các cánh của phòng học bật mở và học sinh túa ra ngoài bất chấp sự phản đối của thầy cô. Và vì vẫn còn độ mười phút trước khi giờ nghỉ trưa thứ hai kết thúc, nên những ai có mặt trong căng-tin khi nãy giờ cũng đã tập trung hết ngoài bãi cỏ.

Tôi nhìn thấy ít nhất có khoảng hai mươi học sinh đang gọi điện thoại và qua những tiếng được tiếng không tôi đoán là họ đang gọi điện cho tổng đài 911, mặc dù đa phần đều chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra và người bị nạn là ai. Họ chỉ biết rằng có ai đó đang bị thương và không hề có tiếng súng nổ.

HLV Tucker xông vào kéo từng người ra khỏi đám đông mặc áo đồng phục xanh-trắng đang túm tụm lại ở giữa sân, miệng liên tục gào ầm lên vào cái loa cầm tay để dẹp đường. Phải mất một lúc sau đám đông đó mới chịu dẹp sang một bên cho cô Tucker len vào, để lộ ra thân thể một cô gái đang nằm bất động trên sân, tay buông thõng sang một bên. Tôi không thể nhìn rõ khuôn mặt của cô ấy, bởi một bạn nam trong đội bóng – mặc áo số 14 – đang làm động tác hô hấp nhân tạo.

Nhưng tôi biết đó là Meredith Cole. Va tôi biết anh chàng mặc áo số 14 kia chỉ đang tốn công vô ích, chẳng ai còn có thể giúp được gì cho Meredith.

HLV Tucker đẩy anh ấy ra và quỳ xuống bên cạnh xác Meredith, ra lệnh cho mọi ngươi lùi lại và quay trở về lớp học. Sau đó cô cúi sát mặt xuống mặt Meredith để kiểm tra xem cậu ấy có còn thở không và tiếp tục công việc hô hấp nhân tạo mà anh chàng kia mặc áo số 14 kia đang làm dở.

Vài giây sau, người bảo trợ cho đội khiêu vũ – cô Foley, một trong mấy giáo viên Đại số – vội vàng chạy ra sân xem có chuyện gì đang xảy ra và khựng người trước quang cảnh hỗn loạn trước mắt mình. Sau vài câu trao đổi với mấy học sinh đứng cạnh đó, cô gọi các thành viên của đội khiêu vũ lại và họ nức nở dựa vào nhau trong một cái ôm đầy nước mắt, bên cạnh đó là Meredith và cô HLV môn bóng mềm. Các học sinh khác lặng lẽ đứng quan sát từ xa, một vài người trong số đó đã khóc.

Lại có thêm ba người lớn nữa hối hả chạy xuống bậc thang của căng-tin: Cô hiệu trưởng, nghiêm nghị trong chiếc váy ngắn và đôi giày cao gót cao ngất ngưởng; trợ lý hiệu trưởng – một người đàn ông nhỏ bé, trán hói, tay ôm khư khư kẹp hồ sơ trước ngực và thầy Rundell, HLV trưởng của đội bóng bầu dục.

Cô hiệu trưởng kiễng chân thì thầm vào tai HLV Rundell và đáp lại, thầy ấy chỉ gật đầu lạnh lùng. Trên tay thầy là cái còi và loa phóng thanh.

Với một người có giọng nói như sấm rền như thầy Rundell đáng ra cũng chẳng cần tới hai thứ đó, vậy mà thầy ấy đã sử dụng cả hai.

Tiếng còi rít lên khiến hai màng tai tôi đau nhói và mọi người trên sân lập tức dừng hết các hoạt động đang làm. Thầy Rundell bắc loa lên miệng và bắt đầu đưa ra yêu cầu với học sinh trong trường một cách mạch lạc và rõ ràng. “Chúng ta đang trong tình trạng giới nghiêm, không ai được phép rời khỏi khuôn viên trường học nửa bước! Ai không có giờ ăn trưa thứ hai thì quay trở lại lớp học. Còn ai đang trong giờ ăn trưa thứ hai thì đi vào căng-tin.”

Theo chỉ đạo của cô hiệu trưởng, viên trợ lý lập tức chạy đi chuẩn bị các thông báo và công tác cần thiết cho tình trạng giới nghiêm. Giáo viên từng lớp lần lượt lùa học sinh của mình về lớp và đóng cửa lại, trả lại sự yên tĩnh cho cái sân trong. Cô Foley, mặt vẫn chưa hết bàng hoàng, ngậm ngùi dắt đội khiêu vũ đi qua cánh cửa bên hông, mắt ai nấy đều đỏ hoe. Cuối cùng, cô hiệu trưởng phẩy tay ra hiệu cho đám đông đang ăn trưa quay vào căng-tin, với sự trợ giúp của viên trợ lý vừa lập cập quay lại sau khi đã lo xong mọi chuyện.

Anh Nash, Emma và tôi hòa vào cùng đoàn người phía sau của đội bóng bầu dục nam, và khi chúng tôi đi qua cái bàn ăn cuối cùng trong sân, tôi nhìn qua bên phải và thấy HLV Rundell đang thay cô Tucker hô hấp nhân tạo cho Meredith. Mặc dù toàn thân tôi vẫn đang chết lặng đi vì sốc và mặc cảm tội lỗi, nhưng tôi cần phải nhìn tận mắt. Để chứng minh cho lý trí của mình cái điều mà trái tim tôi đã biết từ lâu.

Và Meredith đang nằm đó, mái tóc nâu dài xõa trên cỏ, khuôn mặt của bạn ấy lấp ló qua từng động tác hô hấp nhân tạo của thầy Rundell.

Nước mắt tôi lại ứa ra và anh Nash đã vòng qua bên phải để che tầm nhìn của tôi lúc bọn tôi bước lên cầu thang đi vào trong tòa nhà. Bên trong, toàn bộ bóng đèn đã được tắt, bởi tình trạng giới nghiêm. Nhưng cửa sổ căng-tin có thể coi là những bức tường bằng kính – không hề có rèm cửa và cũng quá to để che lại, vì thế cả căn phòng ngập tràn ánh sáng Mặt Trời.

Ở phía cuối phòng, các thành viên đội bóng bầu dục ngồi tụm lại một góc với nhau, người chống cằm, người gục mặt xuống gối, người lại giơ tay ôm đầu. Anh chàng mặc áo số 14 – người đã ra sức cứu chữa cho Meredith – đang trầm ngâm ôm cô bạn gái trong lòng, cằm dựa vào vai cô ấy. Mặt cô ấy nhòe nhoẹt nước mắt và mascara.

Các học sinh khác ngồi tản mát ra thành những nhóm nhỏ. Một vài người tiếp tục xì xào bàn tán xem chuyện gì đã xảy ra, một số khác lại đang sụt sùi khóc thương cho Meredith và nỗi bàng hoàng vẫn còn đọng nguyên trong ánh mắt của từng người. Không cảnh báo, không cưỡng bức và không có nguyên nhân gì cụ thể. Tình trạng giới nghiêm này không hề giống với những tập luyện mà chúng tôi phải thực hành mỗi học kỳ hai lần, và mọi người đều biết điều đó.

Các dãy bàn trong căng-tin chật kín người và một vài nhóm nhỏ thậm chí phải ngồi bệt xuống sàn, dựa lưng vào tường, tay ôm ba lô, túi xách và sách giáo khoa trên đùi. Ba người chúng tôi quyết định đi về phía góc phòng chưa có người ngồi, mặt Emma lúc này tái dại, toàn thân run rẩy. Còn tôi cũng chẳng khá hơn là mấy, hai chân lảo đảo như kẻ mộng du, choáng váng vì hai lần tiên đoán chính xác chỉ trong vòng có ba ngày. Có mình anh Nash xem ra vẫn còn khá vững vàng, mặc dù qua cái siết chặt tay của anh, tôi hiểu rằng có lẽ anh cũng không hề bình tĩnh như vẻ bề ngoài đang tỏ ra.

Chúng tôi ngồi dàn hàng ngang trên sàn, Emma bên trái còn anh Nash vẫn nắm chặt bàn tay phải của tôi từ nãy không rời. Cả ba vẫn còn quá choáng để có thể mở miệng nói chuyện. Đầu tôi bây giờ là một mớ hỗn tạp của mặc cảm tội lỗi, sự choáng váng và nỗi hoài nghi, hoàn toàn tương phản với bầu không khí ảm đạm và bi thương trong phòng. Và tôi không thể khiến nó ngừng lại.

Tôi chỉ có thể ngồi đó, nhìn chăm chăm vào khoảng không một cách vô định và chờ đợi.

Vài phút sau, tôi nghe thấy tiếng còi rú inh ỏi của xe cứu thương. Mặc dù không trực tiếp nhìn thấy xe cứu thương qua cửa sổ căng-tin nhưng chúng tôi vẫn có thể nhìn thấy phản chiếu của bóng đèn đỏ nhấp nháy trên tường, như báo hiệu đang có trường hợp cần cấp cứu. Vấn đề là họ đã đến quá trễ.

Meredith Cole đã chết và cho dù họ có nỗ lực cấp cứu thế nào đi chăng nữa thì bạn ấy cũng sẽ không thể tỉnh lại. Sự thật bẽ bàng ấy khiến tôi đau đớn, như bị ai đó cắt từng khúc ruột. Tôi biết, cả cuộc đời còn lại của mình, tôi sẽ phải sống với nỗi ám ảnh và sự ân hận khôn nguôi này.

Trong khi các nhân viên y tế đang làm công tác cấp cứu ở bên ngoài, các thầy cô chạy ra chạy vào căng-tin, thỉnh thoảng dừng lại trả lời câu hỏi của mấy bạn học sinh. Cố vấn của trường kéo ghế ngồi xuống bàn của đội bóng nam và nhẹ nhàng hỏi chuyện những người đã đứng gần Meredith và chứng kiến lúc bạn ý ngã xuống.

Cuối cùng, qua cái loa chung của toàn trường, thầy hiệu phó thông báo kết thúc buổi học ngày hôm nay của chúng tôi, và rằng chúng tôi sẽ được phép ra về sau khi họ liên lạc được với người giám hộ của từng người. Khi cái đèn đỏ của xe cấp cứu không còn loé lên nữa, và mặc dù vẫn chưa có lời tuyên bố chính thức nào được đưa ra, nhưng chúng tôi đều hiểu cái điều không ai mong muốn đã trở thành hiện thực.

Sau đó, nhóm học sinh đầu tiên được gọi lên văn phòng và Emma dựa đầu vào tôi, còn tôi dựa vào anh Nash, hy vọng rằng mùi thơm và hơi ấm của anh có thể giúp xoa dịu tâm hồn tôi. Vài phút sau, HLV Tucker bước vào trong căng-tin, đảo mắt một vòng tìm kiếm, cho tới khi ánh mắt cô ấy gặp tôi. Tôi ngồi thẳng dậy khi thấy cô đi qua các dãy bàn, tiến về phía tôi và đứng dậy khi cô chìa tay kéo tôi lên. Anh Nash và Emma thấy vậy cũng vội bật dậy theo. “Chắc em cũng hiểu các bạn trong đội khiêu vũ đang đau buồn đến thế nào. Nhà trường quyết định gọi điện liên lạc với phụ huynh của các bạn ấy trước. Tâm trạng của em Sophie nhà em không được tốt lắm. Cô đã gọi cho mẹ em. Em có thể đưa em gái mình về nhà được rồi.”

Tôi thở dài, lòng thầm biết ơn khi anh Nash lại đưa tay nắm lấy tay tôi. “Sophie là chị họ của em ạ.”

Cô Tucker nhíu mày nhìn tôi, như thể điều đó chẳng có gì quan trọng trong hoàn cảnh như hiện nay. Và cô ấy hoàn toàn đúng, nhưng tôi không biết phải mở miệng xin lỗi như thế nào cho phải nên đành thôi.

“Không phải lo tới mấy quyển sách của em” – ánh mắt cô ấy nhìn tôi giờ đã thay đổi 180 độ, lạnh lùng và hờ hững – “Cứ đưa chị về nhà đi.”

Tôi gật đầu và đứng dậy đi theo cô Tucker. “Gặp lại hai người sau nhé” – tôi lí nhí nói với Emma và bóp chặt tay anh Nash. Emma gượng cười yếu ớt, còn anh Nash chỉ gật đầu, thọc tay vào túi lấy điện thoại.

Tôi vừa mới chỉ ra đến sảnh thì thấy điện thoại rung. Là tin nhắn của anh Nash.

Đừng nói với ai hết. Anh sẽ giải thích sau.

Một giây sau, tin nhắn thứ hai lại tới. Lần này chỉ vẻn vẹn ba chữ: Xin em đấy.

Tôi không nhắn lại, bởi vì không biết phải nhắn cái gì. Sẽ chẳng có ai tin lời tôi, nếu tôi cố tìm cách lý giải về những điều đã xảy ra. Có điều linh cảm của tôi là thật và đều chính xác. Im lặng không còn là một lựa chọn đúng đắn nữa, nhất là khi vẫn có khả năng tôi có thể ngăn không cho chúng trở thành hiện thực.

Nếu tôi có thể cảnh báo cho nạn nhân tiếp theo – và mang đến cho người đó một cơ hội để chiến đấu lại – xét trên phương diện đạo đức chẳng phải chí ít tôi cũng nên làm điều đó sao?

Hơn nữa, chính anh Nash cũng từng khuyên tôi nên kể chuyện này với hai bác mình còn gì?

“Kaitlin ơi! Ở đằng này!” – tôi ngẩng mặt lên và thấy cô Foley vẫy tay gọi. Bên ngoài văn phòng, Sophie cùng đám bạn trong đội khiêu vũ của mình đang ngồi bệt xuống sàn, mắt ai cũng đỏ hoe và nhòe nhoẹt vì mascara.

“Tên em là Kaylee ạ” – tôi lầm bầm chữa lại.

“À, ừ, tất nhiên rồi” – trông cô ấy chẳng có vẻ gì là quan tâm tới tên họ của tôi – “Cô đã nói chuyện với mẹ em…” – lần này tôi cũng chẳng buồn chỉnh lại lời cô ấy nữa – “…và mẹ em muốn em đưa Sophie về thẳng nhà. Mẹ sẽ gặp hai đứa ở nhà.”

Tôi gật đầu và lờ đi coi như không nhìn thấy cái vỗ vai an ủi của cô ấy với mình. “Đi về nhé?” Tôi hỏi vu vơ về phía chị Sophie và mấy người bạn. Chị ấy đã làm tôi hơi bất ngờ khi lặng lẽ gật đầu đứng dậy đi theo tôi, không phản kháng hay cự nự một lời nào.

Hẳn là chị ấy đang phải sốc lắm.

Ra tới bãi đỗ xe, tôi mở cửa cho chị Sophie, sau đó mới vòng sang bên ghế lái. Chị Sophie đóng cửa xe lại và quay sang nhìn tôi. Vẻ mặt cao ngạo thường ngày của chị ấy giờ đang nhường chỗ cho một nỗi đau buồn vô hạn.

“Em có thấy không?” – chị Sophie hỏi, môi dưới run bần bật, lần đầu tiên trong đời tôi thấy môi chị vắng màu son bóng. Chắc khi nãy chị ấy đã quệt sạch cùng với nước mắt và phần lớn lớp trang điểm trên mặt. Trông chị ấy khá… bình thường. Và tự dưng tôi thấy hơi thương thương chị ấy, mặc dù chị ấy thường xuyên đối xử với tôi chẳng ra gì. Nhưng hôm nay chị ấy đang sợ hãi, bối rối và tổn thương, cần có một người lắng nghe chia sẻ.

Tôi cũng vậy.

Điều đáng buồn là tôi vẫn không thể hạ hết mọi cảnh giác với chị ấy được, bởi quá hiểu một khi nỗi buồn này qua đi, chị Sophie sẽ quay ngoắt lại thành cô nàng lắm chiêu và sử dụng những cái đó để chống lại tôi cho mà xem. “Thấy cái gì?” – tôi thở dài, giơ tay chỉnh lại cái gương phía sau để có thể gián tiếp quan sát chị ấy.

Chị Sophie đảo tròn hai mắt và trong một thoáng, sự thiếu kiên nhẫn thường ngày của chị ấy lại trỗi dậy, xuyên thủng cả lớp màn đau thương vẫn còn mới nguyên. “Meredith. Em có nhìn thấy chuyện xảy ra không?”

Tôi cắm chìa khoá vào ổ và khởi động xe. “Không”. Tôi cũng chẳng ham hố gì chứng kiến mấy chuyện đó, với tôi riêng cái đoạn mở màn đã đủ lắm rồi.

“Thật là kinh khủng” – mắt chị Sophie mơ màng nhìn ra ngoài cửa kính. Tôi thắt dây an toàn và từ từ cho xe rời khỏi bãi đỗ xe – “Bọn chị đang nhảy múa rất vui vẻ. Bài biểu diễn đã diễn ra cực kỳ trôi chảy, từ những động tác khó nhất đến cả bước nhảy mà Laura vẫn thường nhảy sai nhịp trong khi luyện tập…”

Tôi chẳng hiểu bước nhảy mà chị ấy đang nói đến là cái gì nhưng vẫn im lặng để yên cho chị ấy lảm nhảm vì có vẻ đó là cách giải tỏa tốt nhất.

“…và khi điệu nhảy sắp kết thúc, đột nhiên Meredith… đổ sụp xuống. Nằm thẳng đơ trên đất.”

Hai tay tôi nắm chặt lấy vô-lăng, phải cố gắng lắm tôi mới gạt được cái cần xi-nhan. Tôi rẽ phải ở ngã tư đầu tiên, thở phào nhẹ nhõm khi trường học – nguồn gốc linh cảm mới nhất của tôi – đã khuất khỏi tầm mắt. Chị Sophie vẫn tiếp tục thao thao bất tuyệt, hoàn toàn không để ý gì tới sự căng thẳng trên khuôn mặt tôi.

“Chị cứ nghĩ là chị ấy chỉ bị ngất thôi. Vì bình thường chị ấy ăn ít lắm, như mèo ý. Em cũng biết còn gì.”

Tất nhiên là tôi không biết rồi. Tôi chẳng có hứng thú với mấy cái thói quen ăn uống của đội khiêu vũ, nhưng nếu khẩu vị của Meredith cũng giống như bà chị họ của tôi – hay nói chính xác hơn là của bà bác tôi – thì công nhận tinh thần ăn uống của chị Sophie quả là rất đáng khen.

“Nhưng rồi bọn chị phát hiện ra là cậu ấy không hề cử động. Thậm chí không còn thở nữa.” – chị Sophie ngừng lại một lúc để lấy hơi và vài giây yên lặng ấy đối với tôi còn quý hơn vàng. Tôi không muốn nghe thêm một câu nào nữa về cái chết mà mình không thể ngăn chặn đấy nữa. Tôi đã đủ dằn vặt lương tâm lắm rồi. Nhưng chị Sophie đâu có chịu hiểu cho tôi – “Chị Peyton nghĩ Meredith bị đau tim. Hồi học môn Giáo dục thể chất năm ngoái, cô Rushing từng dạy rằng nếu cơ thể của chúng ta làm việc quá sức và không được bổ sung năng lượng đầy đủ, trái tim sẽ ngừng đập. Như thế này này.” – vừa nói chị ý vừa giơ tay lên búng tay cái tách, móng tay lấp lánh dưới ánh nắng Mặt Trời – “Em có nghĩ thế không?”

Phải mất một giây tôi mới nhận ra là chị Sophie đang đặt câu hỏi với mình thật, chứ không phải đang tự độc thoại một mình. Chị ấy đang hỏi ý kiến của tôi mà không có tí mỉa mai nào trong đó.

“Em không biết” – tôi liếc qua gương và từ từ rẽ vào khu phố nhà chúng tôi. Tôi cũng không ngạc nhiên khi thấy xe của bác Val đang đi ngay phía sau – “Cũng có thể.” Hiển nhiên đó là một câu nói dối. Meredith Cole là cô gái thứ ba đột nhiên lăn đùng ra chết trong vòng ba ngày qua và mặc dù chưa thể nói ra nghi ngờ của mình – ít nhất là lúc này – nhưng tôi dám chắc một điều rằng những cái chết này có liên quan với nhau.

Lý thuyết về sự trùng hợp của anh Nash đã sai hoàn toàn.

Tôi dừng xe lại trong sân còn bác Val lái thẳng xe vào gara. Chị Sophie nhảy ra khỏi xe trước cả khi tôi tắt máy. Và ngay khi vừa nhìn thấy mẹ, chị ấy lập tức òa khóc nức nở.

Bác Val dỗ dành cô con gái suốt từ trong gara vào đến nhà bếp. Tôi lững thững đi đằng sau hai mẹ con họ, trên tay là cái túi xách của chị Sophie và bấm nút đóng cửa gara. Tôi đặt cái túi lên bệ bếp, trong khi bà chị họ vẫn đang thổn thức kể cho mẹ nghe câu chuyện vừa xảy ra ở trường, mắt mũi chị ấy giờ đã đỏ lựng lên vì liên tục chùi giấy ăn.

Nhưng bác Val không có vẻ gì là hứng thú với các tình tiết của câu chuyện, hẳn là bác ấy đã được nghe tường thuật trước đó. Trong khi tôi lặng lẽ ngồi xuống bàn và lấy một lon Coke ra uống, bác ấy không ngừng chạy qua chạy lại trong bếp, hết pha trà nóng đến lau dọn bệ bếp, và chỉ khi không còn việc gì nữa để làm bác ấy mới chịu ngồi xuống cái ghế bên cạnh chị Sophie. Bác Val bắt chị ấy uống cốc trà nóng thật chậm, cho tới khi tiếng nức nở chậm lại và cơn nấc cục đã ngừng hẳn. Nhưng kể cả khi ấy chị Sophie vẫn không ngừng nói.

Cái chết của Meredith có thể gọi là tấn bi kịch đầu tiên trong thế giới thần tiên toàn màu hồng của bà chị họ tôi, và vì thế chị ấy không biết phải đối mặt với nó như thế nào. Hai mươi phút sau, chị Sophie vẫn không ngừng sụt sịt, nước mắt nước mũi văng tèm lem ra cốc nước trà nay đã nguội ngắt. Bác Val đi vào trong phòng tắm và mang ra một hộp thuốc nhỏ màu nâu. Ngay lập tức tôi nhận ra nó: Những viên thuốc an thần còn sót lại trong lần đi khám gần đây nhất của tôi với bác sỹ Nelson ở bệnh viện tâm thần.

Tôi quay phắt ra nhướn cặp lông mày nhìn bác Val, nhưng bác ấy chỉ cười trừ, phân trần: “Nó sẽ giúp cho chị Sophie của cháu bình tâm lại và ngủ được. Chị ấy cần được nghỉ ngơi.”

Đúng vậy, nhưng là một giấc ngủ tự nhiên, chứ không phải là kiểu ngủ mê man nhờ vào mấy viên thuốc ngủ ngu ngốc kia. Tất nhiên hai mẹ con nhà này sẽ không bao giờ nghe theo lời khuyên của tôi đâu, kể cả khi tôi chỉ ra cho họ thấy các tác dụng phụ của thuốc.

Trong một thoáng tôi bỗng thấy ghen ty với sự ngây thơ của chị Sophie. Tôi đã biết về cái chết từ rất sớm, trong khi chị ấy được tận hưởng trọn vẹn 15 năm trong tình thương, bao bọc tới mức quá đà của bố mẹ. Cho dù tương lai có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa thì cũng không ai lấy đi được tuổi thơ hạnh phúc của chị Sophie.

Đợi cho chị nuốt viên thuốc nhỏ xíu màu trắng xong, bác Vai đưa chị ấy vào phòng ngủ và chưa đầy một phút sau tôi nghe thấy tiếng ngáy oo của nàng rồi. Phải công nhận riêng cái khoản ngáy to này thì chị ấy giống hệt bố.

Tôi mở tủ lạnh lấy tiếp một lon Coke thứ hai trên phần ngăn của bác Brendon – nơi duy nhất chưa bị khuất phục bởi đế chế không-đường-không-chất-béo-không-mùi-vị của bác Val – và mang ra phòng khách ngồi xem TV. Nhưng chẳng ai lại đi phát tin vào lúc 2 rưỡi chiều như thế này. Tôi sẽ phải đợi để xem bản tin lúc 5 giờ thôi.

Tôi tắt TV và đầu óc lại luẩn quẩn với suy nghĩ về gia đình Cole, tôi mới chỉ gặp họ có một lần tại buổi thi đấu của đội khiêu vũ hồi năm ngoái. Mắt tôi ngấn lệ khi tưởng tượng ra cảnh mẹ của Meredith đang cố giải thích cho cậu con trai nhỏ hiểu rằng chị gái của cậu sẽ không từ trường về nhà nữa. Vĩnh viễn không bao giờ.

Tiếng cốc chén leng keng trong bếp trong phút chốc đã kéo tôi ra khỏi cái hố đau buồn và mặc cảm tội lỗi mà tôi đang càng lúc càng lún sâu vào. Tôi quay người nhìn ra sau và thấy bác Val đang đổ nốt chỗ trà nóng vào cái cốc to đùng vẫn thường dùng để uống cà phê của bác ý. Tôi trợn tròn mắt ngạc nhiên – không lẽ bác ấy cũng cần một viên thuốc an thần sao? – cho tới khi bác ấy kiễng chân mở cái tủ phía trên đầu ra. Đó là nơi hai bác nhà tôi vẫn thường cất giữ rượu.

Bác Vai lấy xuống một chai rượu brandy và mở nắp chai, dốc thật lực vào cốc trà trên tay. Sau đó bác cứ để nguyên chai rượu vẫn mở nắp đó trên bệ bếp, hiển nhiên là để làm thêm vài ngụm nữa.

Bác nhấp một ngụm “trà” và đi vào trong phòng khách, tay cầm điều khiển TV. Vừa nhìn thấy tôi, bác ấy khựng lại mất một giây, hai má đỏ ửng lên.

“Họ vẫn chưa đưa tin đâu ạ” – tôi thông báo. Tôi có thể nhận thấy rõ bước chân đầy mệt mỏi và nặng nề của bác Val lúc từ trong bếp đi ra. Bác ấy và bác Cole là bạn tập thể dục của nhau từ nhiều năm nay. Có lẽ cái chết của Meredith đã tác động tới bác ấy nhiều hơn là tôi tưởng. Hoặc cũng có thể vì bác đau lòng khi phải chứng kiến nỗi buồn của cô con gái rượu. Hay biết đâu bác ấy đang xâu chuỗi cái chết của Meredith với cái chết của chị Heidi Anderson – theo tôi được biết thì bác ấy vẫn chưa biết tin gì về trường hợp của Alyson Baker – và bắt đầu nghi ngờ có chuyện gì đó không ổn. Giống như những gì tôi đang suy nghĩ.

Nói chung là vì lý do nào thì da bác ấy cũng đang tái xanh đi và hai tay run bần bật. Trông bác ấy mong manh như vậy, đột nhiên tôi lại ngần ngừ không muốn làm phiền thêm. Nhưng sự linh cảm của tôi đã đi quá xa. Tôi cần được giúp đỡ, một lời khuyên, hay… một cái gì đó.

Tôi rất cần ai đó nói cho tôi biết khả năng “đoán trước được cái chết” này của tôi thì có ích lợi gì khi nó không thể giúp tôi cảnh báo cho mọi người? Biết rõ là ai đó sẽ phải chết mà không thể làm gì để ngăn chặn thì biết để làm gì?

Mẹ mất sớm, bố bỏ đi, tôi chẳng có người thân nào bên cạnh để chia sẻ. Tôi không thể kể cho bác Val nghe, không một ai, ngoại trừ Emma và anh Nash.

Các ngón tay tôi đan vào nhau, phân vân không biết nên làm như thế nào. Bác Val ngồi xuống đầu bên kia của cái ghế sô-pha, vắt chân chữ ngũ, ung dung ngồi uống “trà”. Tuy nhiên đôi môi mím chặt và bàn tay run rẩy đã chứng minh một điều ngược lại: Bác ấy không hề bình tĩnh như vẻ bề ngoài đang cố tỏ ra.

Cái đó, và mùi hương không-hề-giống-trà đang bốc lên từ cái cốc trên tay bác ấy chính là bằng chứng.

Lần trước, khi tôi nói mình biết có ai đó sắp chết, bác ấy và bác Brendon lập tức lái xe đưa tôi thẳng đến bệnh viện và bỏ mặc tôi ở đấy. Tất nhiên, một phần cũng là vì lần ấy tôi cứ gào thét điên cuồng giữa khu trung tâm mua sắm và đấm đá tất cả những ai định chạm vào mình.

Cho nên cũng là dễ hiểu nếu họ không còn sự lựa chọn nào khác.

Biết đâu lần này kết quả sẽ khá hơn thì sao? Bởi vì tôi đang rất tỉnh táo và bình tĩnh, không hề bị kiểm soát bởi cơn hoảng loạn nào. Và bởi vì bác ấy đã có ít men rượu trong người rồi.

“Bác Val ơi?” – tôi ngập ngừng gọi.

Bác ấy giật mình, làm sánh một ít “trà” ra đùi. “Úi, bác xin lỗi” – bác ấy đặt vội cái cốc lên bàn rồi chạy thật nhanh vào trong bếp lấy khăn lau vết trà dính trên quần – “Chuyện xảy ra với Meredith khiến bác bất ngờ quá.”

Tôi rất hiểu cảm giác bây giờ của bác ấy.

Tôi thở ra rồi lại hít vào thật sâu để lấy hết can đảm nói ra cái điều tôi sắp nói sau đây. Bác Val đã quay lại với một nửa quần bên bắp đùi trái ướt nhẹp. “Vâng, nghe cũng thấy… sờ sợ bác nhỉ.”

“Ờ…” – bác ấy đứng khựng lại trước cái ghế, hai mắt nheo nheo nhìn tôi đầy lo lắng và… có chút nghi ngờ – “Thế ra cháu cũng có mặt ở đấy à?” Không lẽ bác ấy đã đoán được điều tôi muốn nói?

Có lẽ anh Nash đã nói đúng. Có lẽ tôi nên giữ cái bí mật lâu thêm một chút nữa…

Tôi lắc đầu, mắt vẫn không dám nhìn thẳng vào mặt bác Val. “Không ạ, thực ra cháu không tận mắt chứng kiến…” – nghe tôi nói vậy, bác Val thở phào nhẹ nhõm, và điều đó chỉ càng khiến tôi không muốn tiếp tục nói tiếp – “Nhưng… Bác còn nhớ cái cô gái chết ở quán Taboo tối hôm trước không ạ?”

“Tất nhiên rồi. Tội nghiệp con bé!” – bác ấy ngồi xuống ghế, nhấp một ngụm trà và nhắm mắt lại, như thể đang suy nghĩ. Hoặc cầu nguyện. Kế đó, bác ấy uống tiếp một ngụm nữa to hơn, và đặt cái cốc xuống bàn, nhìn tôi đầy cảnh giác – “Kaylee này, chuyện xảy ra với cô bé đó không có liên quan gì tới chuyện xảy ra ngày hôm nay hết. Theo như tin tức đưa tin, nguyên nhân tử vong là do uống rượu quá say và có thể còn dùng cái gì đó mạnh hơn cả rượu.”

Tôi chưa hề đọc thấy cái tin ấy ở bất kỳ trang mạng nào hết, nhưng đã không thể xen vào hỏi được câu nào bởi vì bác Val cứ thao thao bất tuyệt, nói không ngừng. Đúng là mẹ nào con nấy.

Cái cốc trên tay bác ấy giờ đã rỗng không. “Sophie kể Meredith đã ngã sụp xuống trong khi đang nhảy. Con bé tội nghiệp này có ăn gì mấy đâu, gần như chỉ sống bằng caffeine. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi cơ thể nó gào lên “đủ rồi”.”

“Cháu biết, cũng có thể là chị Sophie đã nói đúng” – tôi loay hoay nghịch cái nắp lon Coke, tránh nhìn vào ánh mắt đầy vẻ thương hại kia của bà bác mình – “Có thể những cái chết này không có liên quan gì đến nhau” – mặc dù tôi có những nghi ngờ của riêng mình – “Nhưng bác Val ơi, cháu nghĩ cháu chính là sợi dây liên kết giữa họ.”

“Hả?”

Tôi ngẩng đầu lên nhìn, trán bác ấy đang nhăn tít lại vì bối rối. Nhưng chỉ vài giây sau, nét căng thẳng trên khuôn mặt bác Val giãn dần ra đầy nhẹ nhõm, như thể đã nhận ra điều tôi muốn nói.

Nếu bác ấy có thể đón nhận sự quay trở lại của “những cơn ảo giác” của tôi một cách bình thản đến như vậy, thử hỏi trên đời này còn cái gì có thể khiến bác Val lo lắng về tôi nữa?

Nét mặt bác ấy dịu lại, ánh mắt thương hại quen thuộc kia chỉ càng khiến cho lòng tự trọng của tôi bị tổn thương. “Kaylee ơi, có phải lại liên quan tới cơn hoảng sợ của cháu không thế?” Bác Val nghiêng người về phía tôi thì thào hỏi, như thể sợ ai đó sẽ nghe trộm được.

Nỗi giận dữ chạy xẹt qua đầu tôi như những tia chớp nhỏ xíu, và tôi đã phải đặt lon Coke mới uống được một nửa xuống bàn trước khi bóp nát nó trong tay. “Đây không phải là chuyện đùa đâu, bác Val ạ. Và cháu không hề bị điên. Cháu đã biết là Meredith sẽ chết ngay cả trước khi chuyện đó xảy ra,”

Ngay lập tức – còn chưa đầy một tích tắc – mặt bác Val thất kinh. Như thể bác ấy vừa nhìn thấy bóng ma của chính mình vậy. Sau đó bác ấy lắc đầu – gần như là để xua tan nỗi lo sợ về khả năng căn bệnh cũ của tôi lại tái phát – và thở dài nhìn tôi thương hại. Tôi đã đoán đúng. Bác ấy sẽ không chịu nghe lời tôi nói. Không bao giờ.

“Kaylee ơi, đừng lặp lại chuyện đó nữa, được không cháu?” – bác hạ giọng năn nỉ tôi. Rồi bác ấy đứng dậy cầm cốc đi vào trong bếp. Tôi cũng đứng dậy đi theo bác, lòng đầy ấm ức – “Bác biết cháu đang buồn về chuyện xảy ra với Meredith, nhưng cháu làm như vậy cũng không thể giúp cô bé sống lại được. Và lại càng không phải cách để đối mặt với nỗi tiếc thương của mình.” Bác đặt cái ấm nấu nước pha trà lên bếp.

“Chuyện này chẳng liên quan gì tới nỗi tiếc thương của cháu cả” – tôi gằn từng tiếng qua kẽ răng, và ném cả lon Coke còn thừa già nửa vào trong thùng rác.

Tôi có thể nhìn thấy nỗi thất vọng trong ánh mắt của bác Val. Sự tuyệt vọng trong cái nắm chặt lên quai ấm nấu nước.Chắc hẳn giờ bác ấy đang thầm ước có thể khiến cho tôi lăn ra ngủ li bì giống như chị Sophie. Một phần trong tôi luôn biết rằng nói chuyện này với bác Val chẳng khác gì nỗ lực đi cảnh báo cho Meredith về cái chết sắp đến. Kết quả sẽ luôn là một con số không. Nhưng một phần khác, cứng đầu và khó bảo hơn, lại không muốn từ bỏ. Từ giờ sẽ không còn bí mật hay những cái nhìn thương hại nữa. Lại càng không có chuyện tôi quay trở lại bệnh viện và dùng mấy viên thuốc màu trắng nhỏ xíu đó. Tôi sẽ không để cho mọi người gọi tôi là kẻ tâm thần thêm một lần nào nữa. Không bao giờ.

Bác Val có vẻ như cũng đọc được sự quyết tâm đó trong mắt tôi, bởi vì ngay lập tức bác ấy đặt lại cái ấm lên bếp và chống hai tay lên bàn, nghiêm nghị nhìn tôi. “Hãy nghĩ một chút cho chị Sophie của cháu. Chị ấy đã đang bị tổn thương lắm rồi. Cháu nghĩ xem, một câu chuyện đầy ích kỷ và hoang đường như thế sẽ tác động xấu đến thế nào tới tâm trạng của chị ấy?”

Quai hàm tôi nghiến chặt, nước mắt như chỉ chực chảy ra. “Cháu mặc xác chị Sophie!” Tôi giận dữ đấm mạnh hai tay xuống mặt bàn.

Bác Vai co rúm người lại, và chỉ riêng cái phản ứng đó thôi cũng đủ khiến tôi thấy hả dạ rồi. Tôi đứng dậy, chống hai tay lên hông và nói “Cháu xin lỗi bác,” – nhưng giọng không có một chút gì là xin lỗi – “nhưng chuyện này chẳngliên quan gì tới chị ấy hết. Cháu chỉ đang cố muốn nói cho bác hiểu là cháu đang gặp phải một vấn đề rất nghiêm trọng, vậy mà bác thậm chí chẳng buồn nghe cháu nói!”

Bác Val nhắm mắt lại và hít một hơi thật sâu, như thể đang tập yoga vậy. Hoặc cũng có thể bác ấy đang tìm kiếm sự kiên nhẫn. “Tất cả chúng ta đều biết cháu có vấn đề, Kaylee ạ” – cuối cùng bác ấy mở mắt ra và từ tốn nói. Nhưng cái vẻ điềm tĩnh ấy chỉ càng khiến tôi điên tiết hơn mà thôi – “Hãy bình tĩnh lại và…”

“Cháu đã biết trước, bác Val ạ” – tôi chống hai tay lên bàn, nhìn thẳng vào mắt bà bác và nói rất rành mạch – “Và cháu cũng đã biết trước về cô gái ở quán Taboo.”

Ánh mắt bác Val trùng hẳn xuống, giọng đầy tuyệt vọng, “Làm sao cháu biết được, trừ phi cháu có mặt ở đó?”

Tôi khẽ nhún vai và khoanh hai tay trước ngực. “Cháu đã lẻn được vào” – Tôi không hề có ý định khai ra Emma hay chị của cậu ấy – “Bác cứ việc cấm túc cháu nếu bác muốn, nhưng điều đó cũng chẳng thay đổi được gì đâu. Cháu đã có mặt ở quán Taboo, và gặp chị Heidi Anderson. Và cháu đã biết trước là chị ấy sẽ chết. Cũng giống như với Meredith.”

Bác Val lại nhắm chặt mắt lại, quay lưng về phía tôi, hai tay bấu chặt lấy bồn rửa bát. Sau đó bác thở ra một hơi dài và quay lại nhìn tôi. “OK, hãy cứ tạm gác lại chuyện cô gái đó đã…”- Mặc dù cả bác và tôi đều hiểu là câu chuyện trốn đi bar của tôi sẽ chưa kết thúc ở đây – “Nếu cháu đã biết là Meredith sẽ chết, tại sao cháu không báo với ai đó?”

Cảm giác tội lỗi lại ùa về trong tôi và tôi ngồi phịch xuống cái ghế đối diện với bác Val. “Cháu đã cố rồi đấy chứ” -Tôi đưa tay quệt nước mắt trước khi chúng kịp rơi lã chã xuống má – “Nhưng khi cháu mở miệng, tất cả những gì cháu có thể làm là hét. Hơn nữa, mọi thứ xảy ra quá nhanh. Tới khi cháu có thể nói chuyện lại được thì bạn ấy đã chết rồi.” – Tôi ngẩng mặt lên chờ đợi một sự đồng tình từ bác Val. Hay chí ít cũng là một chút tin tưởng. Nhưng nét mặt bác ấy không để lộ một tẹo cảm xúc gì, và điều đó khiến tôi hoang mang không kém gì lúc phát hiện ra Meredith sẽ chết.

“Cháu cũng không dám chắc là việc nói ra cho Meredith biết có giúp ích được gì không.” – tôi nói tiếp – “Nhưng cháu thề với bác là cháu đã cố gắng lắm rồi.”

Bác Val đưa tay lên xoa trán, sau đó cầm cốc trà ngửa cổ uống ừng ực – để rồi phát hiện ra là chưa hề rót nước vào. “Kaylee này, chắc cháu cũng biết mấy chuyện này nghe thế nào rồi đúng không?”

Tôi gật đầu, hai mắt cụp xuống. “Nghe rất điên ạ”. Tôi biết rõ điều đó hơn bất cứ ai.

Bác Val lắc đầu và nhoài người qua bàn nắm lấy tay tôi “Không phải điên. Mà là hoang tưởng, cháu ạ. Hai cái đó hoàn toàn khác nhau. Có lẽ chỉ vì quá đau buồn trước những gì vừa xảy ra với Meredith nên bộ não cháu đã tự tạo ra những câu chuyện tưởng tượng để giúp cháu trốn tránh khỏi sự thật. Bác hiểu. Thật đáng sợ khi nghĩ rằng bất cứ ai cũng có thể đột nhiên lăn đùng ra chết, không một lời báo trước. Nếu điều đó có thể xảy ra với bạn ấy thì hoàn toàn có thể xảy ra với bất kỳ ai trong số chúng ta, đúng không?

Tôi rụt tay lại khỏi tay bác Val. Thử hỏi tôi còn phải làm gì để khiến bác ấy chịu tin tôi đây? Rất khó để lưu lại bằng chứng bởi vì các đợt linh cảm của tôi chỉ diễn ra có vài phút trước khi sự việc xảy ra.

Tôi tụt xuống khỏi ghế, lùi lại một bước nhằm nới rộng khoảng cách giữa hai chúng tôi. “Cháu hầu như không quen biết gì với Meredith. Cháu không sợ vì nghĩ rằng điều đó sẽ có thể xảy đến với mình. Mà cháu sợ vì biết mười mươi là nó sẽ xảy ra mà không thể làm gì để chặn nó lại” – tôi hít một hơi thật sâu lấy thêm dũng khí – “Đã có lúc cháu ước rằng thà mình bị điên đi còn hơn. Ít ra khi đó cháu sẽ không phải sống với mặc cảm tội lỗi vì đã đứng yên nhìn người khác chết đi như thế này. Nhưng cháu không hề điên. Đó hoàn toàn là sự thật.”

Trong vài giây, bác Val chỉ biết nhìn tôi trân trối, cảm xúc trên khuôn mặt của bác ấy lúc này là sự pha trộn của lòng thương hại, sự bối rối và nỗi tuyệt vọng, như thể chính bản thân bác ấy cũng không biết phải nên cảm thấy như thế nào nữa.

Tôi thở dài, hai vai chùng hẳn xuống. “Bác vẫn không chịu tin cháu.”

Nét mặt bác ấy bỗng trở nên dịu dàng hơn, như muốn dỗ dành tôi. “Ôi cháu yêu quý, bác tin là cháu tin vào những lời cháu vừa nói” – mặt bác ấy ngập ngừng đầy tính toán rồi nhún vai nói tiếp – “Có lẽ cháu cũng nên uống một viên thuốc an thần đi. Nó sẽ giúp cho cháu ngủ được. Bác tin là mọi thứ sẽ rõ ràng hơn khi cháu tỉnh dậy.”

“Đi ngủ chẳng giúp được gì cho cháu hết” – tôi gắt ầm lên – “Kể cả mấy viên thuốc ngu ngốc kia nữa.” Nói rồi tôi hầm hầm chộp lấy lọ thuốc trên giá và ném thật mạnh về phía cái tủ lạnh. Nắp hộp thuốc bật mở làm cho những viên thuốc trắng bé li ti bắn tung tóe khắp nơi.

Bác Val nhảy dựng lên và đau đớn nhìn tôi như thể tôi vừa bóp nát trái tim bác ấy không bằng. Lúc bác ấy lúi húi quỳ xuống dọn dẹp cái mớ lộn xộn tôi vừa gây ra, tôi quay lưng bỏ thẳng về phòng, đóng sầm cửa lại, và cứ đứng dựa lưng vào cửa như thế một lúc lâu. Tôi đã cố gắng nói chuyện đó với bác Val; và tôi sẽ thử lại lần nữa với bác Brendon khi bác ấy về nhà.

Hoặc là không.

Có lẽ anh Nash biết bản thân đang nói gì khi dặn đi dặn lại tôi đừng nói chuyện này với bất kỳ ai.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.