Size 12 Không Phải Là Mập

Chương 23



Em đang rơi

Sa lưới vì anh

Em đang rơi

Tất cả vì anh

Hãy đón lấy em

Em sẽ cho anh thấy

Em đang rơi

Rơi xuống vì anh

“Falling”

Trình bày: Dietz/Ryder

Album: Magic

Cartwright Records

***************

Tôi hét khoảng một phút gì đó, mà cứ ngỡ như đã hét hàng tiếng đồng hồ, trước khi nghe thấy một giọng nói nam tính gào tên tôi từ rất xa phía dưới.

“Đây!” tôi thét lên. ” Tôi ở trên này! Tầng 10!”

Giọng nói ấy thốt ra gì đó, và rồi, phía dưới bên trái tôi, hai chiếc thang còn lại cùng bắt đầu chuyển động xuống.

Nếu có chút nhanh trí thì tôi đã nhảy rồi, tung lên nóc buồng thang gần nhất.

Nhưng cũng phải cách hơn mét rưỡi – cùng khoảng cách mà Elizabeth và Roberta đã nhảy, và đã trượt, ấy là nếu còn tin chúng thực sự chết vì lướt thang máy – và tôi thì gần như đã cứng người vì sợ.

Tuy nhiên, tôi nhận ra rằng mình không thể bám lâu thêm được nữa. Chẳng hiểu thứ gì đó đã táng vào vai tôi, làm nó tê dại vì đau, còn lòng bàn tay thì đã mất cảm giác vì bám vào sợi kim loại han rỉ – chưa kể còn trơn tuột vì nhớp máu.

Lờ mờ, tôi nhớ lại những ngày tập thể dục ở trường tiểu học.Tôi chưa bao giờ giỏi môn leo dây thừng – hay nói cho đúng là bất cứ một hoạt động thể chất nào – nhưng tôi vẫn còn nhớ bí quyết treo người trên dây thừng là phải quấn chân thành vào thòng lọng ở đầu cuối sợi dây.

Bắt một sợi cáp thép quấn quanh chân mình thật sự khó hơn nhiều so với hồi lớp 5 ấy, nhưng rồi tôi cũng cố làm được một thứ như kiểu điểm tựa. Dầu vậy, tôi biết rằng mình sẽ chẳng trụ được quá vài phút. Vai, và đặc biệt là tay tôi đang đau kinh khủng – mà ngưỡng chịu đựng thể xác của tôi lúc nào cũng thấp, tôi to thế kia mà – thế nên tôi biết mình thà buông tay cho rơi xuống chết còn hơn là chịu đựng thêm nữa.

Mà cũng chẳng phải là từ hồi đó đến giờ cuộc đời tôi lúc nào cũng thiếu dễ chịu. Okay, có thể một phần cũng gập ghềnh hơn những phần còn lại. Nhưng tôi có một tuổi thơ yên ổn, chí ít bố mẹ cũng đảm bảo cho tôi không bao giờ phải nhịn đói đi ngủ.

Tôi cũng chẳng bao giờ bị bạo hành hay cưỡng bức. Tôi đã có một sự nghiệp thành công – dĩ nhiên, sự nghiệp ấy đã chóng tàn từ tuổi 18 hay tầm tầm đó.

Nhưng gì thì gì, tôi cũng đã được ăn ở khối nhà hàng cực ngon rồi.

Và tôi biết Lucy sẽ được chăm sóc. Cooper sẽ chăm sóc nó nếu có chuyện gì xảy ra với tôi.

Nhưng vừa nghĩ đến Cooper, tôi lại chợt nhận ra mình không hề muốn chết, không phải lúc này, khi mà mọi thứ đang dần trở nên thú vị. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được anh thực sự nghĩ gì về tôi! Anh đang định nói cho tôi biết, và giờ thì tôi sắp chết, và sẽ lỡ mất.

Trừ phi, dĩ nhiên, nếu khi chết ta có thể biết được mọi thứ trong vũ trụ.

Nhưng nhỡ không thì sao? Nhỡ cứ chết là chết thì sao?

Ừm, thế thì tôi nghĩ cũng chẳng có gì quan trọng. Nhưng còn mấy thằng cha bảo hành thang máy thì sao? Họ đã đoan chắc với tôi là cáp thang máy không tự dưng đứt bung được kia mà. Okay, có thể một trong số đó sẽ bung, nhưng không phải tất cả, mà lại cùng một lúc. Những sợi cáp đó không tự nhiên đứt được. Chắc chắn ai đó đã cố ý đặt mìn cho chúng nổ. Cứ nhìn cái quả cầu lửa đã bùng lên dưới chân tôi thì tôi nghĩ đấy là bom.

Đúng rồi, bom!

Có kẻ đang tìm cách giết tôi.

Một lần nữa.

Mải nghĩ xem ai có thể tìm cách giết mình, tôi xao nhãng khỏi cái vai đau, khỏi bàn tay tê dại, và cả Cooper cũng như chuyện anh-ấy-nghĩ-gì-về-mình khoảng 1 phút. Ừm, dĩ nhiên còn có Christopher Allington, người đã, hoặc có thể đã không cố tống một chậu phong lữ vào đầu tôi vì tôi nghi cậu ta giết người. Tốt nhất là lần này cậu ta nên có một bằng chứng ngoại phạm cực tốt.

Nhưng làm sao Christopher Allington biết được tôi sẽ có mặt trên cái thang máy đó? Tôi cực kì hiếm khi đi thang máy dành cho nhân viên. Chính ra, tôi chỉ đi cái thang ấy khi đuổi theo bọn lướt thang máy.

Có khi nào Gavin McGoren lại dính dáng vào cái chết của Beth Kellogg và Bobby Pace không? Chuyện này có vẻ xa vời, nhưng còn cách lý giải nào khác nữa đâu? Julio không thể là hung thủ được. Có khi anh ấy đã chết dưới kia rồi cũng nên. Với cả tại sao anh ấy lại muốn giết cả anh ấy lẫn tôi chứ?

Đột nhiên, cái thang gần tôi nhất quay lại, và lần này có người ở trên nóc thang. Nhưng đấy không phải là Gavin McGoren. Tôi chớp mắt – giếng thang đầy khói – và thấy qua màn khói, Cooper mặt mày nghiêm trọng đang đến cứu tôi.

Thế thì đảm bảo là anh thích tôi rồi. Chí ít cũng có một tí. Ý tôi là, nếu anh đã sẵn sàng liều mạng sống của mình để cứu tôi…

“Heather,” Cooper nói, giọng vẫn điềm tĩnh và uy quyền như mọi khi. “Đừng đi đâu, được chứ?”

“Còn đi đâu được nữa chứ,” tôi nói. Hay đấy là điều tôi cố nói. Cái tôi nghe được chỉ là một tràng những tiếng lắp bắp điên loạn. Nhưng chắc chắn không xuất phát từ tôi.

“Nghe này, Heather,” Cooper nói. Anh đã trèo lên nóc thang số 1, và đang bám vào một trong mấy sợi cáp của nó. Khuôn mặt anh, tôi thấy được qua làn khói, tái mét bên dưới lớp da rám nắng. Này, sao lại thế nhỉ? Tôi tự hỏi. “Anh muốn em giúp anh một việc.”

“Được,” tôi nói. hay cố nói, tóm lại là thế.

“Anh muốn em đu qua đây. Không sao đâu, anh sẽ đỡ em mà.”

“Ừm,” tôi nói, và phạm phải ngai cái sai lầm là nhìn xuống dưới. “Không!”

Ờ, điều này thì phát ra đủ nhấn mạnh.

“Đừng nhìn xuống,” Cooper nói. “Cố lên nào Heather. Em làm được mà. Chỉ hơn một mét thôi…”

“Em không đu đi đâu hết,” tôi nói, tay bám cặt hơn vào sợi cáp. “Em sẽ đợi nguyên ở đây cho đến khi cảnh sát New York đến.”

“Heather,” Cooper nói, thoáng có chút mất kiên nhẫn trong giọng nói. “Đẩy vào tường và đu sang đây. Khi nào anh bảo thì thả cáp ra. Anh thề là anh sẽ đỡ được em mà.”

“Ông ơi, ông mất trí rồi.” Tôi lắc đầu. Giọng tôi nghe thật buồn cười, kiểu hơi the thé. “Chả trách gia đình ông tống cổ ông đi không một xu dính túi.”

“Heather,” Cooper nói. “Người bảo dưỡng nói với anh là cái cáp em đang bám đó không chắc đâu. Nó có thể đứt bấy cứ lúc nào, như tất cả những cái khác…”

“Ồ,” tôi thốt lên. À, thế thì lại khác.

“Giờ hãy làm như anh bảo đi.” Cooper đã vươn khỏi buồng thang hết mức có thể, tay vẫn bám vào một thứ gì đấy. “Lấy đà đạp vào tường bằng chân và đu qua đây. Anh sẽ đỡ em, đừng lo.”

Từ đỉnh giếng thang giành cho nhân viên phát ra một tiếng két thê lương. Tôi gần như chắc chắn là tiếng động đó không phải do mình phát ra.

Chắc là từ sợi cáp mà tôi đang bám.

Tuyệt.

Nhắm mắt, tôi nhún người lên sợi cáp, bắt nó đu về phía bức tường bên kia giếng thang. Thôi thả chân mình khỏi vòng xoắn của sợi cáp và đẩy mạnh hết sức vào bức tường gạch vỡ nát. Rồi như một hòn đá thả khỏi dây cung, tôi tung về hướng đôi tay đang chờ đón của Cooper…

… nhưng không đủ gần như tôi mong muốn.

Tuy nhiên anh vẫn hét, “Thả ra! Heather, thả đi!”

Thôi rồi, tôi nghĩ. Tôi tiêu rồi. Giờ chắc họ sẽ làm chương trình Phía sau sân khấu ca nhạc về tôi rồi…

Tôi thả tay.

Và trong một tích tắc, tôi hiểu được cảm giác của Elizabeth và Roberta – sự hãi hùng tuyệt đối của việc lao qua không khí mà không có một mành lưới hay một khối nước nào bên dưới để giảm lực rơi của mình…

Chỉ là thay vì rơi xuống chết, như chúng, tôi cảm thấy có những ngón tay đang khoá cứng quanh cà hai cổ tay mình.

Có cảm giác như hai cánh tay tôi bị giằng khỏi hốc xương vai khi cả phần còn lại của cơ thể đập vào thành buồng thang. Tôi nhắm tịt mắt, nhưng vẫn cảm thấy mình được nâng lên, từ từ…

Tôi không ngừng quẫy đạp tìm chỗ đặt chân cho đến khi rốt cuộc cũng được đặt ngồi lên một cái gì đó cứng cáp.

Mãi tới lúc đó tôi mới dám mở mắt và thấy Cooper đã xoay sở kéo được tôi chỗ an toàn. Cả 2 đều thở dốc vì vận sức và vì sợ. Ừ thì tôi là vì sợ, ít ra là vậy.

Nhưng chúng tôi còn sống. Tôi còn sống.

Phía trên chúng tôi lại phát ra tiếng ken két thê thảm. Tôi chưa kịp hiểu ra thì sợi cáp tôi vừa bám ban nãy – cùng cái ròng rọc nối với nó – đã bứt tung khỏi sức chống đỡ của cái ròng rọc, lao thẳng xuống phía dưới giếng thang, để rồi rơi sầm xuống nóc cái buồng thang bên dưới.

Khi ngước được tia nhìn lên khỏi đống đổ nát dưới đáy giếng, tôi thấy mình đang níu lấy vạt áo sơ mi của Cooper, và cánh tay anh đang ôm quanh người tôi đầy che chở. Mặt anh có màu như khói xung quanh tôi. Có những vết máu và rỉ sắt loang lổ khắp áo Cooper ngay chỗ tôi túm lấy anh bằng bàn tay nát bươm của mình.

“Ô, xin lỗi,” tôi nói, vội buông vạt áo cotton giờ đã nhàu nhĩ và vấy máu ra.

Cooper cũng thả tay khỏi người tôi ngay lập tức.

“Không sao,” anh nói

Giọng anh, cũng như giọng tôi, đã đủ bình tĩnh hơn. Nhưng trong đôi mắt của anh có cái gì đó mà tôi chưa từng thấy bao giờ…

Nhưng trước khi tôi có cơ hội dò xem chính xác đó là cái gì thì một giọng nói thân thuộc từ cái buồng thang chúng tôi đang ngồi cất lên, “Cháu không sao đấy chứ?”

Tôi ngó xuống qua tấm pa-nô để mở trên trần thang và thấy vẻ nhẹ nhõm tràn khắp gương mặt bác Pete.

“Cháu làm chúng tôi sợ vãi ra cả quần đây này, Heather,” bác nói. Và quả thật, có một chút run rẩy trong chất giọng Brooklyn của bác. “Cháu ổn chứ?”

“Cháu ổn,” tôi nói, và chứng minh điều đó bằng cách trèo xuống từ nóc thang một cách run rẩy mà gần như không cần ai trợ giúp. Vai tôi nhói lên một cơn đau cảnh cáo, nhưng bàn tay nâng đỡ của bác Pete ở một bên khuỷu, và vòng ôm cẩn thận của Cooper ở thắt lưng đã giữ cho tôi không bị mất thăng bằng. Tôi bỗng nhận ra, rằng một khi đã an vị trong thang máy, thật khó để đứng một mình mà không dựa vào một cái gì đó, vì hai đầu gối tôi đang run dữ dội.

Nhưng tôi cố được, bằng cách tựa hẳn người vào vách buồng thang.

“Julio sao rồi?” tôi hỏi.

Cooper và bác Pete nhìn nhau.

“Cậu ấy còn sống,” Cooper nói, nhưng hàm anh sít lại một cách lạ lùng.

“Ít nhất một phút trước là như thế.” Bác Pete vặn cái chìa khoá vừa cho vào nút đi thẳng. “Nhưng liệu có còn sống sau khi được người ta mang ra không thì…”

“Tôi choáng váng. “Mang anh ấy ra?”

“Họ sẽ phải dùng đến máy cắt.”

Tôi nhìn Cooper,mong một lời giải thích chi tiết hơn, nhưng anh không có vẻ gì là muốn nói. Đột nhiên, tôi cũng không chắc mình sẽ muốn nghe.

Nằm trong đống đổ nát ấy là Julio, mà về sau tôi được biết là đã gãy nhiều chỗ xương, nhưng sẽ sống. Tôi đã bắt đầu run kể từ khi nhìn thấy cái buồng thang dúm dó ấy, và tay tôi cứ lạnh như đá từ đấy đến giờ.

Lần thứ 2 trong vòng 2 ngày, tôi lại vào phòng cấp cứu của bệnh viện St. Vincent.

Chỉ có điều lần này tôi là bệnh nhân.

Tôi đang nằm trên cái cáng, chờ người ta chụp X-quang vai mình. Cooper đã đi kiếm cho tôi một cái sandwich salad cá ngừ, vì nỗi sợ hãi khiến tôi đói lả.

Trong lúc chờ, tôi buồn bã nhìn những ngón tay và bàn tay trầy xước của mình, đang quấn đầy gạc và nhức nhối vì vô số mũi khâu. Một bác sị trẻ một cách khó chịu đã bảo với tôi rằng sẽ phải mất vài tuần tay tôi mới bình phục. Quện chuyện chơi guitar đi. Tôi cầm bút chì còn không nổi nữa là.

Tôi đang buồn bã cân nhắc xem làm sao làm việc được tử tế khi không thể hoặc hầu như không thể sử dụng tay – thể ào Justien cũng tìm được cách – thì thanh tra Canavan thò mặt đến, điếu xì gà chưa đốt vẫn cắn chặt ở hai hàm răng. Tôi không chắc đấy có phải cùng một điến lần trước không. Nhưng quả thật trông rất giống.

“Cô Wells, xin chào,” ông ta nói, hững hờ như thể bọn tôi vừa va phải nhau ở siêu thị Macy hay gì gì đó. “Nghe nói cô vừa có một buổi sáng đầy biến cố hả?”

“Ồ,” tôi nói. “ý ông là chuyện có kẻ lại định giết tôi? Một lần nữa hả?”

“Một phần,” thanh tra Canavan nói, bỏ điếu xì gà ra. “Sao, cô tức tôi đấy à?”

Tôi có tức, một tí. Nhưng mà, thật sự cũng đâu phải lỗi của ông ta. Ý tôi là, cái chậu cây có thể tình cờ rơi xuống. và Elizabeth với Roberta cũng có thể thực sự chết vì lướt thang máy. Chỉ có điều cái chậu ấy không tình cờ rơi. và hai đứa kia cũng không chết vì lướt thang máy. Thế thôi. ”

Cũng chẳng trách cô được,” thanh tra Canavan nói, trước khi tôi kịp trả lời. “Giờ thì ta có một anh chàng Backstreet Boy với một cái đầu bị thương và một anh chàng bảo trì đang được chăm sóc đặc biệt.”

“Cả 2 cô gái đã chết nữa,” tôi nhắc ông ta. “Đừng quên hai cô gái đã chết

Thanh tra Canavan ngồi xuống một cái ghế nhựa màu cam đóng dính vào tường ngoài phòng X-quang.

“Yeah,” ông ta nói. “Và cả 2 cô gái đã chết. Chưa kể một cô trợ lý quản lý đáng lẽ cũng phải chết rồi.” Ông ta lại đút điếu xì gà vào miệng. “Chúng tôi nghĩ đấy là một trái bom ống.”

“Cái gì?” tôi kêu lên.

“Bom ống. Không quá phức tạp, nhưng hiệu quả, trong một không gian kín như cái giếng thang bằng gạch đó. Nó cỏn gây tác hại hơn nhiều nếu được đặt trong một cái vali, trong xe hay đại loại thế.” Thanh tra Canavan bắt đầu nhai điếu xì gà. “Kẻ nào đó hẳn phải muốn cô chết ghê gớm lắm, cô em ạ.”

Tôi trừng mắt nhìn ông ta, lại thấy lạnh cả người. Cooper đã khoác chiếc áo da lên vai tôi ngay khi cả 2 xuống đến sảnh khu cư trú, vì chẳng hiểu sao tự dưng lúc ấy tôi bắt đầu run lẩy bẩy. Rồi khi cứu thương đến, họ khoác thêm cho tôi một cái chăn.

Nhưng tôi đã đông cứng lại khi thấy đống đổ nát từng là cái thang máy dành cho nhân viên giờ đã bép dúm dưới đáy giếng. Đám lính cứu hoả đã cố cạy cửa buồng thang bằng những chiếc kìm khổng lồ – những họng thép cuộc sống, họ gọi chúng như thế – nhưng đống kim loại méo mó đó chỉ rít lên phản đối. Nằm trong đống đổ nát ấy là Julio, mà về sau tôi được biết là đã gãy nhiều chỗ xương, nhưng sẽ sống. Tôi đã bắt đầu run kể từ khi nhìn thấy cái buồng thang dúm dó ấy, và tay tôi cứ lạnh như đá từ đấy đến giờ.

“Một quả bom ống?” tôi lặp lại. “Làm sao ai đó…”

“Chuồi nó lên nóc thang. Rất dễ, nếu biết cách. Chỉ cần một ống thép, cắt hai đầu để nắp lại được. Khoan vài cái lỗ ở hai bên để nhét kíp, luồn vài quả pháo qua lỗ, để hở lấy oxy, nhét tạm vào vài điếu thuốc, rồi đổ đầy thuốc súng vào. Dễ như ăn kẹo.”

Dễ như ăn kẹo? Nghe còn khó hơn thi SAT thì có!

Nhác thấy đôi lông mày nhướng của tôi, thanh tra Canavan bỏ điếu xì gà ra và nói, “Xin lỗi. Dễ như ăn kẹo nếu biết cách làm. tóm lại là, ai đó đã châm ngòi cái thứ ấy trước khi cô và – tên cậu ta là gì ấy nhỉ?” Ông ta tra sổ. “À, đúng rồi, cậu Guzman – leo lên thang. Giờ, nếu cô không phiền tôi hỏi, cô làm cái chết tiệt gì trên nó thang đó vậy?”

Bối rối, tôi nhớ lại. Một quả bom ống, với đầu ngòi bằng thuốc lá? Dù không có bất cứ ý niệm gì về một thứ như thế, nhưng tôi chắc chắn đã không thấy cái gì như vậy khi leo lên nóc thang máy.

Nhưng mà, với bao nhiêu là dây nhợ và máy móc trên đó, một quả bom nhỏ hẳn dấu rất dễ.

Nhưng mà một quả bom ống ư? Một quả bom ống, trong Fischer Hall ư?

Đằng sau cánh cửa đôi trong phòng đợi, một y ta đang gọi, “này anh kia, anh không được vào trong đó! Anh kia, đợi đã…”

Cooper xô qua cánh cửa đu đưa, trên tay lỉnh kỉnh mấy cái túi giấy. Một cô y tá xinh đẹp theo sau, trông có vẻ hơi quạu.

“Anh kia, anh không được tuỳ tiện xông vào phía sau này,” cô y tá kiên quyết. “Đừng để tôi phải gọi bảo vệ…”

“Không sao đâu, cô y tá,” thanh tra Canavan nói, mở ví và đưa cho cô này xem phù hiệu. “Anh ấy đi với tôi.”

“Dù anh ta có đi với Học viện y tế Hoàng Gia thì tôi cũng chả quan tâm,” cô y tá quát. “Anh ta không được xông vào đây.”

“Cô dùng một cái bánh cuộn kem nhé,” Cooper nói, rút từ trong túi giấy ra một chiếc. Cô y ta trừng mắt nhìn Cooper như thể anh là kẻ mất trí.

“Không, thật đấy,” Cooper nói. “Dùng một cái đi. Tôi mời mà.”

Vẻ đầy phẫn nộ, cô này cầm lấy một cái bánh cuộn, ngoạm một miếng to, rồi đi ra, vẫn nhồm nhoàm nhai. Cooper nhún vai, rồi nghía viên thanh tra với vẻ chống đối không giấu diếm.

“Hừ, phải lão thám tử bự nhất sở cảnh sát New York đây không,” anh nói

“Cooper!” tôi ngạc nhiên. “Thanh tra Canavan vừa nói với em…”

“Sao, rằng tất cả đều từ đầu em mà ra hả?” Cooper cười đắng nghét, rồi xỉa thẳng ngón trỏ vào viên thanh tra mắt đang mở to. “Này, để tôi nói cho ông biết nhé, ông Canavan. Không cách gì mà cả 6 sợi cáp của một cái thang máy lại đứt cùng lúc được, trừ phi có kẻ cố ý…”

“Cooper!” tôi kêu lên, nhưng thanh tra Canavan chỉ cười khùng khục.

“Vuốt giận đi, chàng Romeo,” ông ta nói, trỏ điếu xì gà về phía bọn tôi. “Chúng tôi đã kết luận là vừa diễn ra một âm mưu ám sát lần hai với cô bạn gái của anh rồi. Không ai nói chuyện xảy ra là tai nạn đâu. Bình tĩnh đi. Tôi đứng về phía anh mà.”

Cooper chớp mắt vài lần, rồi nhìn tôi. Tôi cứ tưởng anh sẽ nói cái gì đó đại loại như, “Cô ấy không phải là bạn gái tôi.” Nhưng anh không nói vậy. Thay vào đó, anh bảo tôi,” Salad cá ngừ trông có vẻ không tươi. Anh lấy xúc xích Ý cho em.”

“Wow,” tôi nói. Cooper đưa cho tôi một cái sandwich, ít nhất cũng phải dài tới 3 chục xen-ti-mét. À, dĩ nhiên như thế cũng chẳng sao.

Thanh tra Canavan dòm dòm mấy cái túi Cooper đang đặt lung tung quanh đấy. “Có khoai tây rán không?” ông ta hỏi.

“Xin lỗi,” Cooper mở gói cái sandwich và bắt đầu bẻ ra thành những miếng vừa miệng, vì tôi không cầm được cái gì cho nên hồn. “Oliu được không?”

Thanh tra Canavan có vẻ thất vọng.

“Không, cảm ơn,” ông ta nói, như thể chưa hề bị gián đoạn. “Thế ai bảo cô leo lên cái thang máy đó?”

Tôi nói, miệng ngồm ngoàm vì đó đến nỗi không thể chờ nổi nữa, “Tôi chỉ biết là, tôi nhận được một cuộc gọi từ bàn tiếp tân báo là Gavin – thằng nhóc sống trong khu cư trú ấy – lại đi lướt thang máy, và thế là tôi với Julio đi để cố lôi thằng bé xuống.”

“Ừ? Và khi cô lên đó thì sao?”

Tôi mô tả lại vụ nổ, đã xảy ra gần như cùng lúc tôi phát hiện Gavin không hề có ở đó.

“Vậy,” thanh tra Canavan nói. “Ai bảo đứa nhóc ở bàn tiếp tân gọi cho cô?”

“Ta điều biết ai đã làm chuyện này,” Cooper nói. sự giận dữ không kìm nén nổi đã trở lại trong giọng nói của anh. “Sao ông còn ngồi đây, ông Canavan, thay vì bắt hắn ta ngay đi?”

“Bắt ai?” thanh tra Canavan tò mò.

“Allington. Hắn là kẻ sát nhân. Rõ ràng Heather đã hù hắn sợ.”

“Để tôi nói cho mà biết nhé,” ông thanh tra lắc đầu. “thằng nhóc đó rời thành phố từ tối qua. Nó đỗ xe ngay bên ngoài nhà bố mẹ nó ở Hampton. Nó không thể nào đặt được quả bom ấy, nếu không có ai giúp đỡ. Thằng nhóc ở cách đây những 3 giờ đi LIE. Đúng là có kẻ muốn cô bạn gái anh chết thật. Nhưng không phải Chris Allington.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.