Si Mê Và Liều Lĩnh

Chương 9



Thứ Hai ngày 10 tháng Mười

Đồ ngu.

Đồ thô lỗ.

Đó là một chặng phi ngựa dài và vất vả, hơn một trăm dặm từ York tới Alnwick, Northumberland. Lisle khởi hành khi trong lòng vẫn còn giận Olivia và đến đích khi chỉ còn thấy giận chính mình.

Những gì chàng đã nói đêm qua.

Nàng là bạn của chàng. Một người bạn loạn trí và nguy hiểm, quả có thế, nhưng chàng cũng còn lâu mới là người hoàn hảo.

Ví như tính nóng nảy của chàng chẳng hạn. Bùng phát quá nhanh, chàng biết – nhưng trước đây chàng đã bao giờ cãi nhau với phụ nữ lỗ mãng tới mức như thế chưa?

Mà đây lại là người con gái đã luôn viết thư cho chàng với lòng trung thành và chung thủy, hết tuần này sang tuần khác. Đây là người con gái luôn hiểu Ai Cập có ý nghĩa với chàng tới mức nào.

Đồ ngu. Đồ thô lỗ. Mà đó mới chỉ là mở đầu thôi. Cho đến lúc tới được quán trọ White Swan ở Alnwick, vài tiếng sau khi mặt trời lặn, chàng đã lôi ra mọi cái tên nguyền rủa mà chàng biết, bằng sáu thứ tiếng.

Nhận thấy mình đã phi ngựa một ngày dài, không tắm và không ăn tối, dằn vặt suốt đêm qua – dù tất cả những điều đó chẳng khiến chàng vơi bớt cảm giác có lỗi – chàng tắm, mặc đồ, và ăn tối rồi tìm đường tới phòng Olivia.

Chàng gõ cửa một lần, hai lần. Bailey ra mở cửa.

“Ta phải nói chuyện với tiểu thư Carsington,” chàng nói.

“Em không có ở đây,” Olivia hét với ra. “Em ra ngoài rồi. Em vừa đi bán linh hồn quỷ dữ cho Lucifer.”

Lisle vẫy Bailey ra ngoài. Cô nhìn nữ chủ nhân, rồi nhìn chàng rồi bước sang một bên.

“Ôi trời, Bailey,” Olivia kêu lên. “Ta không tin nổi em để cho ngài ấy dọa dẫm cơ đấy.”

“Vâng, thưa tiểu thư,” Bailey nói. “Em xin lỗi, tiểu thư.” Cô gái đi sang phòng bên cạnh và để cửa mở hé.

Lisle bước qua rồi đóng cửa lại.

Chàng quay sang Olivia. Nhìn thoáng qua căn phòng, chàng biết nàng đang ngồi bên lò sưởi. Giờ chàng đã hiểu tại sao nàng không bật dậy lao ra cửa và gắng sức tống cổ chàng ra, hoặc đánh chàng bằng que cời lửa, hoặc đâm dao nhíp vào cổ chàng.

Nàng mặc áo choàng, bên trong rõ ràng chỉ là lớp áo mỏng. Nàng kéo váy lên cao và ngâm chân trong một chậu nước lớn. Cái mắt cá chân bị đau. Chàng nhớ lại, và cảm thấy nóng bừng vì xấu hổ. Dù tự nhủ nàng bị thương chỉ vì hành động ngu ngốc, chàng cũng không cảm thấy khá hơn. Nàng đã bị thương, đau đớn, thế mà chàng lại nói những điều thật kinh khủng với nàng.

Chàng đi ngang phòng để tới đứng trước mặt nàng, chậu nước ở giữa hai người. “Chắc em không ghét ta chứ,” chàng nói.

Những từ ngữ không phù hợp. Chàng nhận ra điều đó trước khi nàng bắn ánh mắt sáng quắc xanh biếc đầy giận dữ về phía chàng. Nàng chẳng nói gì, chỉ quay lại nhìn vào bàn chân mình.

Sự im lặng nện vào đầu và trái tim chàng.

Đừng ghét ta đừng ghét ta đừng ghét ta.

Chàng nhìn vào chân nàng, quá mỏng manh, trắng ngần và dễ tổn thương. Chàng chẳng biết phải nói gì. Nó ở đó, trong tâm trí chàng, một chỗ nào đấy.

Xin lỗi.

Một từ đơn giản. Nhưng một áp lực đè lên ngực chàng và chàng đã chậm chân, nàng là người phá vỡ sự yên lặng.

“Em căm ghét ngài,” nàng nói, giọng nàng nhỏ và sắc. “Ngài đã làm trái tim em tan vỡ. Một cách tàn bạo.”

Chàng nhìn nàng chằm chằm. “Trái tim em tan vỡ?”

“Phải.”

Chàng đã rất cộc cằn, phải, và nói những lời thô lỗ, nhưng… trái tim nàng ư?

“Ôi, thôi nào,” chàng nói. “Em biết ta không làm thế mà.”

Thêm một ánh mắt xanh sắc lẹm nữa. “Ngài đã so sánh em với cha mẹ ngài – cha mẹ ngài! – khi mà ngài biết em đã thường xuyên đấu tranh với họ vì ngài, khi mà ngài không ở đó để tự bảo vệ mình. Và bảo ngài luôn phải đi xa bởi vì… bởi vì em…”

Nàng nhìn đi chỗ khác.

Đó là sự thật. Nàng là bạn chàng nhưng lại giống như cơn gió sa mạc: một cơn gió đột ngột, dữ dội cuồn cuộn băng qua sa mạc, cuốn cát vào một luồng xoáy khổng lồ và xua mọi người đi tìm chỗ trú ẩn. Nó xé toạc những gian lều, thổi phăng đồ đạc và quăng quật cả người lẫn thú như thể đó là đồ chơi. Đẹp tuyệt trần và vô cùng ấn tượng, nhưng đi tới đâu nó cũng gieo rắc bao nhiêu thảm họa.

Nàng là một cơn gió sa mạc, và chàng không thể chối cãi rằng nàng là một trong những lý do khiến chàng phải ở xa, nhưng thà bị cắt mất lưỡi chứ chẳng đời nào chàng nói lại sự thật ấy một lần nữa.

Chàng cúi xuống nhìn sâu vào gương mặt nàng, “Không phải em khóc thật đấy chứ?”

Nàng quay đầu ra xa hơn, về phía lò sưởi. Lửa bập bùng phản chiếu trên mái tóc nàng, rọi ánh sáng màu đồng lên những lọn tóc lộn xộn.

Nếu nàng là em gái chàng thật, chàng hẳn đã vuốt tóc nàng. Nếu nàng là người yêu của chàng… nhưng họ đâu thể là người yêu. Không bao giờ. Chàng không thể làm mất phẩm giá của nàng và chàng không thể cưới một cơn gió chướng, điều đó đơn giản sáng rõ như ban ngày.

“Sao em lại phải phí nước mắt vì một kẻ thô lỗ tàn nhẫn như ngài chứ?” nàng nói. “Sao em lại để mình phải đau lòng vì những lời nhận xét bất công vô lý của ngài chứ?”

Bất công vô lý.

Kịch nghệ. Hay lắm. Chính xác nữa. Tảng đá đè lên ngực chàng dần dần biến mất. Nếu nàng đang vận dụng kỹ thuật gây cảm giác có lỗi, nghĩa là nàng sẽ tha thứ – tuy nhiên phải mất một chút thời gian và phải nghe những lời không êm tai nữa, nhưng chàng cũng đáng thế lắm.

“Gì chứ, chao ôi,” chàng nói. “Ta không bao giờ cãi thắng em cả, và có lẽ ta nên thấy hối tiếc ngay từ khi bắt đầu. Nhưng ta sẽ nói lý với em, nếu đó là điều em muốn. Ta đã luyện tập đủ rồi. Nhưng ta phải nói với em, điều đó còn khiến tinh thần ta mệt mỏi hơn cả khi đối diện với thời tiết quái đản ở Scotland, ông bố bà mẹ quái đản của ta và cái lâu đài đổ nát của họ. Nếu chúng ta phải ở bên nhau trong khoảng thời gian dài dằng dặc, trong vùng hoang vu đó, với hai mụ phù thủy kia, mà ta không thể nói suy nghĩ của mình với em…”

“Đừng cố làm điều đó với em,” nàng nói. “Đừng vờ như em là bạn gái tâm tình của ngài trong khi ngài vừa làm những việc như thế, nói những lời nặng nề sai quấy nhất về em. Nếu với ngài, nói ra suy nghĩ của ngài đồng nghĩa với việc đối xử với em theo cái lối hèn hạ đó thì…”

“Hèn hạ!” Hay lắm. Nhưng mà cũng đúng.

“Em chẳng phải con cún để ngài tiện chân đá mỗi khi thấy bực dọc trong người,” nàng nói.

“Em có thể đá lại ta,” chàng nói. “Em vẫn làm thế mà.”

“Ước gì có thể làm thế,” nàng nói. “Nhưng như ngài thấy đấy, tạm thời em chẳng làm được gì.”

Chàng nhìn xuống bàn chân trần của nàng đang ngâm trong nước. Chàng nhớ cảm giác bàn chân của nàng áp lên chân trần của mình. Chiếc hộp Pandora. Chàng nhắm mắt. “Chân em vẫn đau lắm à?” chàng hỏi.

“Không,” nàng đáp. “Em chỉ bị trẹo mắt cá thôi. Nhưng Bailey cứ bảo nó đang sưng phồng lên, và bắt em ngâm chân. Em phải làm theo nếu không cô ấy sẽ bỏ đi, mà nếu thế, ngài biết em sẽ tan nát thế nào rồi đấy.”

“Cô ấy sẽ không bao giờ bỏ em cả,” chàng nói. “Cả ta cũng vậy, cho tới khi cái Hành trình Chinh phục ngu ngốc này hoàn thành. Em đã lôi ta vào và giờ em phải sống với những hậu quả của nó. Hoặc yêu thích nó, hoặc chịu đựng nó, Olivia. Em tự chuốc lấy chuyện này thôi.”

Chàng tự nhủ câu nói này là một lối thoát tốt nhất. Chàng tự nhủ thoát ra khỏi chuyện này là một bước đi thông minh. Chàng đã được tha thứ, gần như thế, và chàng không muốn tự nộp mình thêm nữa.

… nhưng bàn chân nàng.

Bailey tin là nó đang sưng lên.

Không phải một dấu hiệu tốt. Chàng biết một cách rất hay để giải quyết những thứ như thế này. Chàng đã học được từ Daphne Carsington cách chữa trị các bệnh tật và thương tích triền miên của đám gia nhân.

Có lẽ Olivia không chỉ bị trẹo mắt cá. Có thể nàng đã bị bong gân, hoặc gãy một cái xương nhỏ xíu.

Chàng quỳ xuống trước thau nước. Chàng cố không nghĩ đến những thứ váy vóc yêu kiều trước mặt, những lọn tóc xoăn lấp lánh ánh lửa và mùi hương thiếu nữ, mà chỉ tập trung vào bàn chân phải của nàng như thể đó là một bộ phận hoàn toàn riêng biệt. “Em thấy nó có vẻ không sưng,” nàng nói. “Nhưng khó mà chắc được khi nó ngâm trong nước.”

Chàng nhẹ nhàng nắm bàn chân nàng nhấc ra khỏi thau.

Chàng nghe tiếng nàng thở sâu.

Có cái gì đó run rẩy, là bàn tay chàng hoặc bàn chân nàng.

“Đau không em?” chàng hỏi.

“Không,” nàng đáp.

“Trông có vẻ không sao,” chàng nói. Chàng thận trọng lật qua lật lại bàn chân. Một bàn chân mảnh mai, thanh lịch, ngón chân dài duyên dáng, giống bàn chân của những bức tượng ở Ai Cập. Làn da ẩm ướt quá đỗi mềm mại dưới tay chàng.

“Em nghĩ ngài nhìn thế đủ rồi đấy,” nàng nói với giọng như nghẹt thở. “Lạnh quá.”

Phải. Đủ rồi. Quá đủ.

“Thôi đừng ngâm nữa,” chàng nói nhanh. Chàng nghe tiếng mình nghèn nghẹt. Chàng mong nàng không nghe thấy thế. “Da nhăn cả lại rồi này.” Chàng với lấy chiếc khăn tắm gấp gọn đặt bên thau nước, vắt nó ngang đùi mình, rồi đặt bàn chân nàng lên. Chàng dùng chiếc khăn nhẹ nhàng mát xa bàn chân nàng, lau từ mắt cá tới từng ngón chân. Rồi ngược lại. Tiếp đó lên bắp chân nàng tới đầu gối. Rồi ngược lại.

Nàng vẫn ngồi yên lặng như tờ.

Chàng đặt bàn chân bị thương xuống một chiếc khăn tắm khác, và chăm sóc bàn chân trái của nàng cùng theo cách đó.

Chàng cẩn thận giữ khăn tắm ngăn giữa các ngón tay và da thịt nàng. Dù thế, chàng vẫn cảm nhận được từng đường nét thanh lịch quanh chân nàng: những khớp xương duyên dáng, đường cong của mắt cá, vẻ yêu kiều của những ngón chân.

“Ngài đang quỳ dưới chân em,” nàng nói run run, “hẳn có nghĩa đó là một lời xin lỗi.”

“Phải, có lẽ thế,” chàng nói.

Đây chính là bàn chân đã bám lên chân trần của chàng đêm hôm ấy.

Chàng đưa bàn chân ấy lên, toan đặt nó lên chiếc khăn tắm, như chàng đã làm với bàn chân kia. Rồi chàng ngần ngừ. Chỉ trong một giây mà dài như cả thế kỷ. Một con sóng ham muốn trỗi dậy khắp người chàng, không thể chịu nổi.

Chàng cúi xuống hôn lên bàn chân nàng.

Chàng nghe thấy nàng hít vào thật sâu. Chàng như nghẹt thở trước tiếng trái tim đập ồn ĩ, dòng máu nóng cuộn trào trong cơ thể.

Chàng cẩn thận đặt bàn chân của nàng xuống. Chàng từ từ đứng lên.

Sai trái. Sai trái. Vô cùng sai trái. Không công bằng với chàng, với nàng, với tất cả mọi người. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi, và chàng đã dừng lại, chiếc áo choàng của chàng che đậy điều nàng vừa làm với chàng – hoặc chàng vừa làm với chính mình.

“Mà có thể ta đang trả đũa cũng nên,” chàng nói.

Ra khỏi phòng, chàng bước đi thong thả, dáng vẻ lạnh lùng và thản nhiên, trong khi đó cơn bão sa mạc đang gào thét bên trong chàng.

Ngay khi cánh cửa vừa đóng lại sau lưng Lisle, cánh cửa ở phòng bên bật mở, và Bailey bước vào.

“Tiểu thư, em xin lỗi,” cô nói, “nhưng em nghĩ em không nên…”

Olivia giơ tay lên. “Không sao,” nàng nói. Nàng gần như không nhận ra nổi giọng chính mình. Hụt hơi. Bởi vì trái tim nàng vẫn còn đập mạnh, gấp gáp đến đau nhói. “Ngài ấy…” Nàng ngừng lời.

Chàng đang nghĩ cái quái gì vậy? Họ đã nhất trí, chẳng phải thế thì sao, rằng vụ việc ở Stamford là một Sai lầm Nghiêm trọng. Nhưng họ đã vượt qua một ranh giới… Và chàng là đàn ông, một khi đàn ông có những ý nghĩ đó trong đầu thì… Ôi, thật vô nghĩa! Đàn ông lúc nào cũng có những ý nghĩ đó. Nhưng lẽ ra chàng phải giữ khoảng cách với nàng mới phải.

Lẽ ra chàng không được dụ dỗ nàng, đồ đại ngốc!

Dù hành động ấy là để xin lỗi hay trả thù, chàng cũng đang mạo hiểm chẳng khác gì dấn thân vào chỗ chết – với cơ thể nàng! Với chính cơ thể chàng!

“Ôi, đàn ông,” nàng nói.

“Vâng, tiểu thư,” Bailey nói.

“Đây là lỗi của ta,” nàng nói.

“Em không biết nữa, tiểu thư.”

“Ta đã rất tức giận, em biết đấy.”

“Vâng, thưa tiểu thư.”

“Những điều ngài ấy nói.” Nàng vẫn đau nhói khi nghĩ tới chúng.

“Vâng, thưa tiểu thư.”

“Lẽ ra khi ngài ấy bước vào, ta đã phải thu chân lại, hoặc chí ít là kéo tà váy xuống.”

“Vâng, thưa tiểu thư, lẽ ra em phải là người làm vậy, đằng này em lại bỏ tiểu thư lại một mình.”

“Không phải lỗi của em, Bailey. Ta là người nhà DeLucey mà. Dù có mang dòng máu khác thì ta vẫn thế thôi. Người nhà DeLucey luôn chiếm thế thượng phong. Ngài ấy đã làm tổn thương cảm xúc của ta, thế nên ta phải chọc tức để trả đũa. Sao ta lại có thể ngốc nghếch tới mức thế cơ chứ? Chẳng lẽ hôm ở tiệc của Bà Cố ta chưa đánh giá đúng mực về ngài ấy hay sao? Chẳng lẽ tấm biển báo vô hình trên đầu ngài ấy còn chưa đủ rõ? Nguy hiểm. Đừng đùa với lửa. Người nhà DeLucey nào cũng có thể cảm nhận được nó. Nhưng vấn đề là, dù thế thì người nhà DeLucey nào cũng sẽ bỏ qua.”

“Vâng, thưa tiểu thư.”

“Thật chẳng dễ gì chống lại một lời thách thức.”

“Vâng, thưa tiểu thư.”

“Ngài ấy quá nguy hiểm.”

Bàn tay quá-sành-sỏi của chàng và sự động chạm giữa họ, thân mật đến không chịu nổi. Quá kiên nhẫn và lão luyện. Nếu chàng dự tính quyến rũ một phụ nữ, chắc hẳn chàng sẽ làm như thế. Kiên nhẫn. Lão luyện. Cái cách chàng hôn nàng đêm hôm ấy: tuyệt đối tập trung săn sóc. Không một chút sao nhãng.

Nếu từng có một người đàn ông nào khác động chạm nàng theo cách đó, hôn nàng theo cách đó, mọi phẩm hạnh của nàng chắc đã tan theo mây khói, và nàng cũng sẽ phó mặc tất cả, một cách hạnh phúc.

“Làm cũng dở mà không làm cũng dở,” nàng nói. “Nếu muốn kết hôn thì phải có tình yêu. Nhưng hôn nhân lại là một canh bạc quá tồi đối với phụ nữ. Đi sai con bài – cưới nhầm chồng – và sống phần đời còn lại trong địa ngục, dù mức độ tồi tệ có thể khác nhau đôi chút, nhưng tất cả các cuộc hôn nhân – hoặc gần như tất cả – đều là địa ngục.”

“Khá đúng, thưa tiểu thư,” Bailey nói, cô vốn chẳng đánh giá cao về đàn ông. Quan sát cái cách đàn ông xử sự quanh Olivia thì mọi ảo mộng của các cô gái đều tan vỡ cả. “Tuy nhiên, quý bà, mẹ tiểu thư ấy…”

“Chúa ơi, đừng mang mẹ ta ra làm ví dụ,” Olivia nói. Bà đã tìm thấy tình yêu của cuộc đời. Hai lần liền. “Chuyện chẳng giống nhau chút nào. Mẹ ta số sướng.”

Thứ Ba ngày 11 tháng Mười

Olivia cố thức dậy trước bình minh, cũng như hai ngày trước đây. Nhưng hôm nay cái viễn cảnh lôi hai quý bà tinh quái ra khỏi giường khi trời còn mờ tối và khiến Lisle phải săn đuổi không còn khiến nàng thấy vui nữa.

Mặt trời đã lên cao và tỏa ánh nắng qua cửa sổ khi cuối cùng nàng cũng đã sẵn sàng đối diện với ngày mới.

Bailey bưng khay đồ điểm tâm tới. Trên khay là một lá thư.

Bên ngoài thư có đề “Tiểu thư Carsington”. Nét chữ thẳng băng gai góc ấy đã quá quen thuộc.

Oliva mở xi gắn, giở thư ra và đọc:

Alnwick

Thứ Ba ngày 11, Ngay lúc này

Olivia thân mến, Khi em đọc lá thư này thì ta đã lên đường rồi, bởi vì ta quyết định sẽ tới Gorewood trong khi ánh sáng ban ngày vẫn đủ để nhìn đường. Ta dần nhận ra – và bởi vì ta là đàn ông, rõ ràng nhận thức này là quá muộn – rằng chúng ta không biết đồ dùng sinh hoạt quan trọng kỳ quái tới mức nào. Biết rất ít, ta nghĩ thế. Có vẻ như ta phải lợi dụng cái bản năng tinh quái của em để cáng đáng việc mua sắm cho ta một ít đồ đạc ở Edinburgh. Nichols đã liệt kê sơ bộ một danh sách, ta gửi kèm theo đây. Cậu ấy sẽ kiểm kê sau khi chúng ta tới nơi, và ta sẽ gửi nó cho em tại Edinburgh.

Về giường chiếu chăn màn, ta chắc chắn không phải người ưa màu sắc rực rỡ hay kiểu cách rườm rà. Em cứ tự quyết định – và nếu em nghĩ ra bất cứ cái gì có thể sẽ cần đến, đừng ngại thêm vào danh sách. Dù gì đi nữa, ta tin chắc thị hiếu của em về những thứ như thế này tốt hơn ta nhiều.

Ta đã viết một lá thư cho Mains, đại diện của cha ta ở Edinburgh, thông báo với ông ấy về nhiệm vụ của em. Mọi hóa đơn cứ gửi cho ông ấy. Ta biết rằng ông ấy, giống với mọi người đàn ông trí thức khác, sẽ rất vui khi được hỗ trợ mọi yêu cầu của em. Em sẽ tìm thấy tên ông ấy và mọi chỉ dẫn trên danh sách của Nichols.

Ta mong được gặp lại em sau một hoặc hai tuần tới tại Lâu đài Rùng Rợn.

Thân mến,

L

“Ôi, thật tình, Lisle,” Olivia kêu lên. “Thật quá trẻ con. Nhưng…” Nàng suy xét. “Phải rồi, ngài đâu có ngốc thế. Ngài đã nhận ra sai lầm trong những cách thức của mình rồi, em hoàn toàn không nghi ngờ gì điều đó. Xa mặt cách lòng.”

“Tiểu thư?”

Olivia vẫy vẫy lá thư trước mặt cô hầu gái. “Một sự trì hoãn, Bailey,” nàng nói. “Ngài ấy đi trước, còn chúng ta sẽ phải đi mua sắm.”

Edinburgh

12 tháng Mười

Lisle thân mến,

Hay ho hơn Chủ Đề thêm một Ngày Dài trên Xe Ngựa của các Quý Bà, em phải kể là em đã quyết định tiếp tục lên đường tới Edinburgh. Hôm nay bọn em đã tới nơi vào lúc Chiều Muộn – và ôi chao, Phong Cảnh mới đẹp làm sao, quả là thi sĩ Walter Scott tả không sai:

Bóng tối oai nghiêm phủ trên đỉnh núi

Tòa lâu đài trầm mặc đứng uy nghi

Con dốc chênh vênh nghiêng mình thoải xuống

Sườn núi trụi trần vươn tới trời xa

Sâu thẳm, bao la, gập ghềnh, cao vút

Thành phố của tôi, thành phố mặn mà

Chắc ngài vẫn nhớ, Hồi Nhỏ em đã từng tới đây, nhưng Ký ức của em rất hỗn độn, thế nên em nghi có lẽ mình đã mơ thấy nó: tòa Lâu Đài điểm tô đỉnh Great Rock, vươn lên giữa Khói Xám và Sương Mù, những Mái Chóp và Tháp Chuông ẩn hiện trong không gian ảm đạm, Thành Phố cổ này với những Tòa Nhà cao vút, chênh vênh trên sườn núi. Nhưng quả thực, đây là Thành Phố Kỳ Diệu Nhất Thế Gian – và phải, ngay cả tượng Nhân Sư cũng chẳng thể nào xứng đáng hòa mình vào Không Gian này.

Nhưng em biết Cảm Xúc của em đang khiến ngài chán ngán. Thế nên em tiến hành Nhiệm Vụ. Thành Phố Cũ Tuyệt Đẹp này có đủ Cửa Hàng Cửa Hiệu các loại. Ở Thành phố Edinburgh Mới kém lãng mạn hơn nhiều nằm trên một đồng bằng ở phía Tây Bắc lại càng có lắm cửa hàng hơn nữa. (Nhân tiện, đó là nơi chú của ngài từng sống, trong một Dinh Thự Thanh Lịch chồng chất đến mức đáng kinh ngạc toàn Sách Báo cũ.) Lẽ dĩ nhiên là bọn em có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp thiết nhất chỉ sau vài ngày mua sắm.

Em sẽ gửi trước tới chỗ ngài tất cả mọi thứ, nhưng không có người hầu thì bọn em chẳng thể làm gì. Edwards, giờ được xem như Quản Gia của bọn em, muốn làm mọi thứ có thể để tòa Lâu Đài ấy ở được trước khi bọn em tới nơi. Trong lúc chờ đợi, em sẽ tới Trung Tâm Cung cấp Người Hầu để tìm người. Vì người dân địa phương RẤT SỢ TÒA LÂU ĐÀI ẤY, chúng ta sẽ phải sử dụng Nhóm Nhân Công ít ỏi Của Mình, ít nhất là trong một Thời Gian. Tuy nhiên, em hoàn toàn tự tin là chúng ta sẽ nhanh chóng Tìm Ra Bí Ẩn đằng sau hiện tượng MA ÁM này, và tái xây dựng được một đội nhân công người Scotland hợp lý – ngài biết đấy, đám Gia Nhân London đều là đi mượn, và sẽ phải trả sớm, tốt nhất là trước khi mẹ em phát hiện ra em đã Đánh cắp họ.

Kính thư,

Olivia Carsington

Vào ngày thứ Tư, Roy và Jock Rankin trở lại từ Edinburgh, túi bọn chúng nặng trĩu tiền từ vụ buôn bán mới nhất, toàn những thứ vốn chẳng thuộc về chúng. Chúng thấy người trong quán trọ Gorewood kháo nhau: Con trai của hầu tước Atherton, Lisle, đang đi tới Lâu đài Gorewood với một đoàn tùy tùng từ London đến. Một chiếc xe ngựa đã đến nơi với rất nhiều hòm xiểng và một đám người hầu, và trong vài ngày tới sẽ còn nhiều người và hàng đến nữa.

Roy và Jock nhìn nhau.

“Thật lạ đời,” Roy nói. “Một đám người London đến đây để ngắm nghía cái lâu đài cũ kỹ này, thỉnh thoảng bọn chúng vẫn làm thế. Quanh đây ai mà chẳng ních đầy đầu những ý tưởng ngu. Lúc nào cũng cho rằng có ai đó đang chuyển đến đấy. Đâu có ai đến đấy kể từ khi cái ông già đó chuyển đi – bao lâu rồi nhỉ – mười năm trước à?”

Nhưng mọi người xung quanh chúng chưa bao giờ phấn khích tới vậy khi nói về những du khách từ Anh quốc tới để khám phá tòa lâu đài.

Một lát sau, hai anh em rời khỏi quán trọ và đội mưa để tự mình mắt thấy tai nghe.

Chúng nhận ra, lần đầu tiên trong đời dân trong vùng đang kể chuyện có thật. Từ dưới đường, qua màn sương mù dày đặc, chúng nhìn thấy ánh sáng từ ít nhất ba ô cửa sổ. Khi tiến lại gần hơn, chúng phát hiện ra có một chiếc xe ngựa và mấy con ngựa ở trong cái chuồng ngựa đổ nát.

“Không thể nào,” Roy thốt lên.

“Chúng ta sẽ phải chặn chúng lại,” Jock nói.

Thứ Năm ngày 13 tháng Mười

Quản gia Edwards không say khướt như ông muốn. Từ khi ông tới Lâu đài Gorewood tới giờ, trời mưa tầm tã không ngừng. Tòa lâu đài này là một đống đá xù xì, ẩm ướt và bốc mùi. Họ có mang theo chăn gối, nhưng ở đây chẳng có giường. Với những người hay ngủ trên nền đá hoặc sàn nhà thì như vậy cùng chẳng sao, nhưng Edwards thì chưa bao giờ ngủ như vậy.

Họ đã làm việc quần quật từ sáng tới tối, cố biến cái hầm lớn thành nơi ở được cho các quý bà. Dân làng không hỗ trợ gì cả. Họ khăng khăng không chịu hiểu thứ tiếng Anh đơn giản, và ngay cả khi ông đã vận dụng khả năng nói tiếng địa phương khá tốt của mình, thì dường như họ vẫn chẳng hiểu gì.

Đám gia nhân từ London bị đối xử như một đội quân xâm lược. Những tưởng các chủ hàng sẽ muốn có khách mua, nhưng khi đám gia nhân hỏi mua cái này cái nọ thì họ cứ tỉnh bơ quay đi. Mà nếu có hạ cố nhận ra đó là khách hàng thì họ cũng sẽ mang ra thứ người ta chẳng yêu cầu.

Ở quán trọ Crooked Crook thì họ thực hiện đúng yêu cầu của Edwards – sau khi ông phải nói đi nói lại hàng tá lần và cuối cùng phải viết ra giấy, ông dừng lại ở đó sưởi ấm một lát rồi mới quay lại tòa lâu đài đổ nát trong màn mưa ẩm ướt.

Con đường vắng tanh, tịnh chẳng có lấy một bóng đèn. Một bên đường, ông phát hiện ra những đường nét nham nhở của một ngôi nhà thờ đã cháy rụi từ thế kỷ trước, ông nhìn thấy sân nhà thờ, những phiến đá lún xuống xộc xệch, dường như mưa, đêm tối và cái lạnh đang đè nặng lên chúng.

Ông đang vừa nhìn ngó vừa run rẩy thì chợt nghe tiếng sột soạt xung quanh. Rồi đột nhiên có cái gì lóe lên trước mặt ông, một hình thù màu trắng với đôi mắt sáng quắc.

Ông thét lên rồi quay người chạy.

Chạy và chạy và chạy.

Lâu đài Gorewood

Thứ Sáu ngày 14 tháng Mười

Olivia thân mến,

Tốt hơn em nên tìm một quản gia khác. Edwards biến mất rồi.

Thân mến


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.