Địch Thanh nhìn cây mai đỏ, đột nhiên nhớ tới tám chữ “Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung”. Dù cho cả đời phiêu dạt nơi chân trời góc bể, hắn cũng không thể nào quên đã từng gặp được nàng ở Biện Kinh, mặc dù ngay cả tên nàng hắn vẫn chưa biết. Nhưng nàng thì sao? Nhiều năm sau, nàng có còn nhớ hay nàng sẽ quên! Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng lại cảm thấy chua xót, ngẩn ngơ nhìn cây mai đỏ đến thẫn thờ.
Đúng lúc này, ngoài quán rượu có mấy người đi vào, lớn tiếng nói:
– Tiểu nhị, mang đến cho chúng ta mấy chén rượu làm ấm người đi.
Địch Thanh liếc nhìn qua, thấy đám người Lệ Chiến, Tống Thập Ngũ đang đi vào. Đám Lệ Chiến đều là người của Kiêu Kỵ Quân, cũng chính là thuộc hạ của Hạ Tùy. Lúc vây công Tào phủ, bọn chúng đều ở bên ngoài phủ. Địch Thanh nhìn thấy bọn chúng thì cảm thấy chán ghét nên quay đầu sang chỗ khác. Đám Lệ Chiến cũng không phát hiện ra Địch Thanh, chúng ngồi xuống rồi chụm đầu nói chuyện, Tống Thập Ngũ nói:
– Tranh thủ đang lúc rãnh rỗi, các vị huynh đệ mau mau làm một vài chén, lát nữa còn phải đi tuần đấy.
Lệ Chiến nói:
– Gấp làm gì? Trong ngoài kinh thành đều có hơn chục vạn cấm quân đóng giữ, chúng ta chỉ canh giữ ngoài thành. Ngươi yên tâm đi, không xảy ra sai sót gì đâu.
Cao Đại Danh đắc ý nói:
– Cho dù có xảy ra sai sót thì sao chứ? Hôm qua chúng ta đã vất vả cả ngày rồi, hôm nay lại phải đi tuần, dù có là người sắt đi nữa cũng phải nghỉ ngơi chứ. Chúng ta uống chút rượu, thì có gì là to tát đâu?
Rượu vừa được đem lên, bọn chúng chưa kịp nhấp môi thì bên ngoài quán rượu có một người chạy vào nói:
– Sao các ngươi sao còn ở đây uống rượu hả? Hạ chỉ huy đang tìm các ngươi đấy, nhanh lên đi. Hạ chỉ huy nói, hôm nay đi tuần xong sẽ mời các ngươi đến đây nhậu một chầu.
Bọn Tống Thập Ngũ mừng rỡ nói:
– Thật tốt quá, đêm nay chúng ta không say không về. Được rồi, vậy thì đi thôi.
Sau đó y quay sang hét với ông chủ quán rượu:
– Tiền rượu này ghi sổ đi, đến tối rồi tính luôn một lượt.
Ông chủ quán rượu cười xòa nói:
– Chào mấy vị quan nhân, tiền rượu này… cứ để đó đi.
Từ trước đến nay, quân Kiêu Kỵ làm mưa làm gió ở kinh thành, ông chủ quán rượu chỉ cầu bọn chúng đừng gây rối, một ít tiền rượu này nào dám đòi chứ.
Chờ bọn người Tống Thập Ngũ rời đi, Địch Thanh rót đầy một chén rượu, nhếch miệng nở nụ cười lạnh, lẩm bẩm nói:
– Đêm nay không say không về?
Hắn vẫn luôn lo nghĩ làm cách nào để thịt được Hạ Tùy, thầm nghĩ nếu đêm nay bọn người Hạ Tùy uống say bí tỉ, vậy thì hắn có cơ hội ra tay rồi.
Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng phấn chấn hẳn ra, ngẩng đầu nhìn cây mai đỏ đang rung động nổi bật trên nền tuyết trắng, hắn bỗng nghĩ, qua đêm nay, bất kể sống hay chết, e rằng cả đời này sẽ không còn gặp được nàng nữa. Địch Thanh sững người nhìn cây mai, không biết qua bao lâu, hắn tính tiền rượu rồi lững thững đi đến ngõ Mạch Kiết.
Lúc này, triều đình đại tế, muôn người đều đổ xô ra đường. Tuy là ban ngày nhưng ngõ Mạch Kiết vẫn âm u và thanh vắng như ban đêm. Địch Thanh đến ngõ Mạch Kiết, gió thổi vù vù, tuyết trắng bay bay, hoa mai ngạo tuyết, nhưng người trong mộng thì không thấy đâu. Địch Thanh đứng ở trước gốc mai, thấy dưới tán cây có dấu chân ngổn ngang, dấu chân không chỉ của một người. Hắn cẩn thận tìm dấu chân nhỏ nhắn ấy, qua một lúc lâu liền chậm rãi ngồi xổm xuống, tiếp đó nhặt lên một cánh hoa tàn. Địch Thanh thầm nghĩ hoa đã tàn, chữ viết đã mất đi, tất cả mọi thứ đều đã là quá khứ.
Dù nghĩ như thế nhưng lòng hắn lại dâng trào đau thương, rút đao ra gạt bằng một mảnh đất tuyết bằng phẳng, muốn viết lên vài chữ gì đó. Sau khi suy nghĩ một lúc, Địch Thanh chỉ viết được hai chữ “Bảo trọng”. Hắn lại ngẫm nghĩ: “Có lẽ nàng cho rằng mình không tới, có lẽ nàng sẽ không thấy hai chữ này đâu. Thế nhưng… Mình biết mình nghĩ gì là được rồi, cần gì phải quan tâm tới nàng nghĩ gì làm chi?”
Hắn lại trầm ngâm, ngắm hai chữ trên mặt tuyết thật lâu, sau đó đột nhiên ngửa mặt lên trời cười to, trong tiếng cười mang theo vẻ cô đơn hiu quạnh vô tận.
Hắn xoay người định đi, nhưng nụ cười bỗng cứng lại trên môi, cả người run rẩy.
Chỉ thấy cô gái mà hắn trăm thương ngàn nhớ chẳng biết đã đứng trước mặt từ khi nào rồi. Mấy ngày không gặp, nàng vẫn xinh đẹp tuyệt thế như trước nhưng lại có chút tiều tụy. Khoảnh khắc trông thấy Địch Thanh, ánh mắt nàng ngời sáng nhưng không thể thốt lên lời nào.
Địch Thanh si ngốc nhìn nàng, trong khoảnh khắc này hắn không biết làm sao cho phải. Nàng nhìn Địch Thanh từ trên mặt xuống tới cổ tay rồi hoảng sợ la lên:
– Huynh bị thương?
Đến lúc này, Địch Thanh mới cảm thấy có chút đau đớn, không phải đau ở cổ tay đâu, mà là ở ngực. Hắn gượng cười nói:
– Những người như huynh đây, cả ngày đánh đấm, không bị thương mới là lạ.
Trong mắt nàng chợt hiện lên vẻ thương cảm, bước tới định băng bó vết thương cho hắn, nhưng Địch Thanh vội lùi về phía sau một bước nói:
– Không cần đâu, cám ơn cô.
Hắn đã quyết định phải giết Hạ Tùy, và sau đó sẽ chạy trốn tới nơi chân trời xa xăm nên chỉ mong nàng hãy quên hắn đi. Trong ngực hắn còn có chiếc khăn lụa kia vốn định lấy cắt đứt lòng quan tâm của nàng. Hắn nhận ra nàng thích hắn, còn vì sao thích hắn thì hắn thật sự không biết. Nhưng chiếc khăn lụa này là vật duy nhất mà nàng trao cho hắn, sao nỡ trả lại cho được?
Cô gái thấy Địch Thanh bỗng trở nên lạnh lùng. Ánh mắt liền lộ vẻ kinh ngạc, nàng định hỏi gì đó nhưng khi cúi đầu xuống thì vừa vặn nhìn thấy hai chữ do đao khắc trên mặt đất kia.
Cô gái không nói, cũng không ngẩng đầu lên. Địch Thanh nhìn thấy hai giọt châu rơi xuống mặt tuyết, lộ ra hai điểm mờ nhạt, gió thổi qua không dấu vết, nhưng nước mắt chảy qua thì sao chứ? Đau lòng thấu xương. Địch Thanh thấy nàng đau lòng, trong lòng rất áy náy, vốn định an ủi vài câu, song hắn biết nếu làm vậy thì chỉ thêm khó xử, nên kiên quyết nói:
– Trời lạnh, cô mau về đi.
Thanh âm này lạnh lùng như băng nhưng ẩn chứa sự ân cần như lửa.
Cô gái buồn bã hỏi:
– Huynh muốn đi ư?
Địch Thanh nói:
– Ừm.
Cô gái hỏi tiếp:
– Không bao giờ trở về nữa?
Địch Thanh nói:
– Đúng. Mượn đường, xin tránh giùm cho.
Cô gái đột nhiên ngẩng đầu lên, kiềm chế giọt lệ chực trào ra, nhìn thấy vầng trán Địch Thanh chứa đựng nỗi ưu sầu vô hạn thì chợt hiểu ra, mới khẽ tránh mình sang một bên, nhưng dưới chân bị trượt đi, cả người lảo đảo sắp ngã. Địch Thanh thấy thế vội vàng vươn tay đỡ lấy. Nắm chặt cổ tay nhỏ bé, mịn màng, lạnh lẽo trong tay, thân thể hắn chợt run lên. Sau khi đứng vững, nàng nhỏ giọng nói:
– Cám ơn. Huynh …. cũng bảo trọng.
Nhìn thấy giọt nước mắt trong suốt của nàng, Địch Thanh sững sờ. Gió lạnh như đao cắt, hắn cũng không nỡ để cô gái chịu lạnh thêm nữa nên kiên quyết nói:
– Ừ.
Hắn sải bước đi, không quay đầu lại, chỉ nghe tiếng nàng khẽ thầm thì:
“Phiếm bỉ Bách chu, diệc phiếm kỳ lưu.”
(Chiếc thuyền gỗ bách chơi vơi,
Xuôi theo sông nước nổi trôi mặc lòng.)
Địch Thanh thoáng khựng lại, nghe câu ngâm của nàng giống như là thơ. Bước chân chỉ chậm lại trong chốc lát rồi lại bước đi nhanh hơn, sau cùng còn nghe thấy nàng nói: “Cảnh cảnh bất mị, như hữu ẩn ưu.”
(Ngẩn ngơ chẳng ngủ buồn trông,
Như ôm ấp mãi mối lòng bỉ ưu.)
Địch Thanh đã đi xa, nhưng bốn câu kia vẫn còn quanh quẩn trong đầu hắn: “Phiếm bỉ Bách chu, diệc phiếm kỳ lưu. Cảnh cảnh bất mị, như hữu ẩn ưu.”
Hắn biết bài thơ đó miêu tả một người đang ưu sầu, nhưng rốt cuộc nàng muốn nói tới hắn hay là nói bản thân nàng đây? Địch Thanh nghĩ mãi mà không rõ, bước chân nhanh hơn, trở về Quách phủ mà như đang chạy trốn.
Quách Quỳ không có ở trong phủ, Quách Tuân cũng không thấy đâu. Địch Thanh hơi thất vọng, thầm nghĩ:
“Nếu như có Quách Quỳ ở đây, mình có thể hỏi xem câu thơ kia có nghĩa là gì, nếu như có Quách Tuân ở đây, mình cũng có thể cám ơn Quách đại ca đã cưu mang mình bấy lâu nay”.
Nhưng hắn lại chợt nghĩ: “Biết thì sao nào? Cám ơn thì sao nào? Biết rồi chỉ tăng thêm phiền não, loại tình huynh đệ thâm sâu này, chỉ một lời cám ơn là xong ư?”
Địch Thanh ngồi ở trước phòng ngủ một giấc nhằm khôi phục thể lực, khi tỉnh dậy thì đã sắp hoàng hôn.
Địch Thanh cũng không chuẩn bị hành lý, chỉ rút đao ở thắt lưng đem đi mài ở một tảng đá nhám thật lớn. Đến khi đao được mài bóng loáng ánh lên vẻ băng lãnh thì lẩm bẩm nói: “Đao à! Đêm này ta đành phải trông cậy vào mi, sau này bỏ mạng cũng chỉ có mi theo cùng…”