Địch Thanh ngẩng đầu nhìn qua đó, mới nhớ rằng hôm nay không chỉ là ngày quân nhân tham gia Ma Khám, mà còn là ngày khai bảng khoa cử của văn nhân. Mỗi lần vào ngày khoa cử công bố kết quả xướng tên ban thưởng, sĩ tử thi đậu đều được triều đình bố trí tập trung lại một chỗ, tổ chức dạo phố và kỳ tập (1) để an ủi khổ cực mười năm gian khổ học hành.
Nhưng mười năm khổ cực này cũng xứng đáng, bởi vì vinh quang này từ nay về sau có thể bù đắp tất cả. Những người này ngoại trừ tiến hành kỳ tập ở Đại Tướng Quốc Tự ra, đêm nay còn có thể đến Quỳnh Lâm Uyển, triều đình mở tiệc rượu, đích thân thánh thượng cùng thái hậu sẽ tới, vinh quang vô cùng. Sau đó những người này sẽ được phái đi khắp nơi nhậm chức, dựa vào thành tích lại quyết định có được trọng dụng hay không.
Tốc độ thăng chức của những người này cực nhanh, quân nhân hoàn toàn không thể so với họ được. Năm xưa, sau khi Thái Tông lên ngôi thì hằng năm đều mở khoa cử tuyển chọn học trò, hai người thi đậu là Lữ Mông Chính và Trương Tề Hiền chỉ trong thời gian bảy năm đã tiến vào Lưỡng Phủ, nhậm chức phó tướng, mà Lữ Mông Chính lại chỉ cần mười hai năm đã ngồi vào vị trí tể tướng, có thể nói là “dưới một người, trên vạn người!”
Thời gian mười hai năm, bảo ngắn cũng không ngắn lắm, nhưng có thể làm cho một người học trò bần hàn ngồi vào vị trí trên vạn người, sao mà không khiến sĩ tử nghèo trong thiên hạ thèm thuồng? Bởi vậy cũng chẳng trách người trong thiên hạ đều nói, “Nhất cử thủ đăng long hổ bảng, thập niên thân đáo phượng hoàng trì!” (Ngước trông tên bảng hổ treo, mười năm thân đã tới ao phượng hoàng!)
Địch Thanh nhìn thiên tử môn sinh nở mày nở mặt, cúi đầu nhìn lại bản thân, cười tự giễu. Hắn đến kinh thành đã được gần một nửa của mười hai năm rồi, nhưng hôm nay vẫn còn đang lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm.
Lại một hồi chiêng vang lên, những văn nhân này cưỡi ngựa đi qua, ai nấy đều mỉm cười, bất giác đều ngẩng đầu nhìn về phía trước. Bọn họ không cần phải nhìn bên cạnh và cũng không cần nhìn xuống dưới, bởi vì người nơi nào cũng phải ngẩng đầu lên nhìn bọn họ. Bọn họ chỉ nhìn về phía hai sườn lầu các, nhìn những bóng hồng xuân sơn trong lâu các kia.
Tài tử giai nhân vốn đã là giai thoại, bọn họ khổ cực mười năm, bỏ rất nhiều thời gian chẳng phải là vì giành được một đoạn giai thoại này đấy sao?
Lúc này đã có không ít giai nhân bước ra khỏi lầu các, cười nói, ngăn cản đầu ngựa, hướng về phía các tài tử đòi trâm hoa lưu niệm. Quan nhân cũng không ngăn cản, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Có tài tử được người đẹp ưu ái, vẫn còn rụt rè, cũng có người đã tháo hoa cài trên đầu ném cho người nhìn trúng, giai nhân nhận lấy, đều thẹn thùng không nói nhưng chỉ xuống lầu các, mặt tài tử đỏ bừng làm dân chúng cười vang, chỉ chỉ trỏ trỏ, tấm tắc.
Hóa ra những giai nhân này đều là cô gái thanh lâu, nhưng Đại Tống xưa nay không cấm việc này, ngược lại chuyện phong lưu này vẫn là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu(2).
Dân chúng chỉ chỉ trỏ trỏ, thảo luận sôi nổi. Có người nói:
– Huynh đệ, trước đây nếu ta không làm thợ nguội, đệ không bán đậu hũ, thì chúng ta cũng giống như bọn họ, phong lưu như thế. Nhìn đám cô gái này thường ngày làm bộ thanh cao không thể kết thân, nhưng cũng nhìn trúng tài văn chương của những người này.
Người bạn của gã cười khẩy nói:
– Ngươi đòi giống như thế kia hả, đếm lại xem số chữ mà ngươi biết có được một trăm chưa?
Lúc này có một phụ nữ chỉ những tài tử này rồi lại len lén chỉ Địch Thanh, dạy dỗ đứa con trai bướng bỉnh:
– Con trai à, con sau này cần phải đọc sách, đừng có học người kia đi làm lính, ‘Nam nhi chớ tham gia quân ngũ, tham gia quân ngũ sai lầm cả đời’, nếu như sau này con đi làm lính thì coi như cả cuộc đời này đã bị hủy hoại.
Đứa bé nghiêm túc gật đầu, khinh miệt nhìn Địch Thanh, sùng kính nhìn tài tử. Địch Thanh đứng ở trong đám đông ồn ào, nghe được giọng mỉa mai của người phụ nữ kia, nhìn thấy đám tài tử này đã đi xa, tiếng ồn ào rầm rĩ cũng xa dần theo, đột nhiên nhớ tới một câu nói mà mẫu thân thường nói.
Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy! (Mũ lọng đầy kinh hoa, một người này xơ xác!)
Địch Thanh đã tiều tụy.
Nghĩa khí, nhiệt huyết làm việc năm xưa đã trôi như nước chảy, Địch Thanh của bây giờ đã tiều tụy, tâm cũng mỏi mệt.
Quan cái mãn kinh hoa, nhưng kinh hoa vốn chẳng có quan hệ gì với hắn.
Trước đây sau khi hắn gặp được Quách Tuân, tuy là ép mình tòng quân nhưng cũng mang theo vài phần khát vọng. Hắn khát vọng dựa vào bản lĩnh của chính mình, bằng đôi tay mình mà khai phá ra một mảnh bầu trời riêng của mình, nhưng trận chiến ở thung lũng Phi Long đã khiến cho hắn bị thương nặng, hôn mê vài năm càng khiến nội tâm hắn bị thương nặng hơn. Hắn biết rõ kéo cung có thể dẫn đến hôn mê nhưng vẫn ngoan cường muốn dùng toàn lực để kéo cung, vì Quách Tuân và cũng vì nỗi phẫn uất cô độc trong lòng.
Hắn từng gặp được mẫu thân lúc đêm khuya, thì thầm căn dặn “Quan cái mãn kinh hoa, tư nhân độc tiều tụy; thiên thu vạn tuế danh, tịch mịch thân hậu sự. (Mũ lọng đầy kinh hoa, một người này xơ xác, ngàn thu tiếng để đời, ích gì sau lúc thác)” Đọc đến nỗi lệ rơi ròng ròng…
Địch Thanh khi ấy hoàn toàn không cảm thụ được gì, nhưng vào giờ này khắc này, cô độc nhộn nhịp, tương phản to lớn nhưng lại làm hắn bỗng dưng cảm nhận được sự cô độc và hiu quạnh của mẫu thân lúc đó.
Địch Thanh muốn khóc, nhưng lại ngẩng đầu lên, đờ đẫn mà bước đi. Trong đầu hắn chợt dần hiện ra khuôn mặt của mẫu thân, nhớ tới mẫu thân nhìn mình, kiên định nói: “Thanh nhi, con sau này nhất định là tể tướng, con hãy tin mẹ. Bởi vì người xem tướng cho mẹ, chính là Trần Đoàn, người mà năm đó cùng Thái Tổ chơi cờ.” Địch Thanh nghĩ tới đây, lẩm bẩm nói: “Mẹ … Con tin mẹ, nhưng con không phải không làm, mà là không thể.”
Một tiếng chuông khánh vang lớn, Địch Thanh giật mình tỉnh khỏi giấc mộng mấy năm trước. Hắn lúc này mới phát hiện ra mình đã đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự. Trong lòng Địch Thanh bỗng nhiên khẽ chuyển động, trào lên ý niệm muốn đi vào bên trong xem thử.
Đại Tướng Quốc Tự là chùa của hoàng thất Đại Tống, quy mô cực lớn, nguy nga lộng lẫy, ánh sáng mặt trời chiếu dọi như dải mây bảy màu. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự có vạn người đến viếng, hơn nữa còn có thiên tử môn sinh tụ họp cho nên người dân xung quanh tham quan điều mới lạ có thể nói là vai sát vai, đông nghịt.
Địch Thanh đến kinh thành đã nhiều năm nhưng chưa bao giờ vào Đại Tướng Quốc Tự thăm quan, bởi vì hắn không phải là người thích náo nhiệt. Nhưng hôm nay vô thức đi tới trước Đại Tướng Quốc Tự, lại nhớ tới lời nói của Quách Tuân mấy năm trước, hắn bèn vượt qua đám đông, đi vòng ra phía sau Đại Hùng bảo điện, tới trước Thiên Vương điện có mái hiên Đấu Củng. (Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu)
Bên trong Thiên Vương điện có Tứ Đại Thiên Vương, còn có Di Lặc phật chủ!
Trong đầu Địch Thanh hiện lên lời Quách Tuân năm ấy, “Giáo Phật Di Lặc thực ra bắt nguồn từ xa xưa, từ thời Lương Vũ đế đã sáng lập ra rồi. Ngay cả Đại Tướng Quốc Tự cũng có tôn phật Di Lặc, mặt mày hiền hậu, ngồi ở trên đài sen.” Địch Thanh sau khi tới kinh thành rồi mới nghe nói, phật Di Lặc này vốn là do thái hậu xây dựng.
Hắn nhớ tới Tứ Đại Thiên Vương, ma xui quỷ khiến thế nào lại nảy sinh ý định tiến vào Thiên Vương điện. Đến giữa điện, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn, thấy giữa điện quả nhiên có phật Di Lặc đang ngồi ngay ngắn trên đài sen, mỉm cười mà nhìn con dân bên dưới. Địch Thanh đột nhiên nhớ tới phật Di Lặc âm hiểm ở thung lũng Phi Long, không khỏi rùng mình một cái.
Địch Thanh chưa bao giờ thấy người nào âm hiểm, hung ác như vậy. Đối với tất cả những việc xảy ra tại thung lũng Phi Long năm xưa, hắn và Quách Tuân sau đó đã thảo luận mấy lần nhưng đều không rõ vì sao Di Lặc phật chủ phải khiến cho tín đồ tự tàn sát lẫn nhau. Mấy năm nay, Diệp Tri Thu lần theo dấu vết từ Đông Hải đến đại mạc, từ thảo nguyên tới Giang Nam, nhưng vẫn không thể đưa phật chủ Di Lặc ra công lý.
Phật Di Lặc dường như đã biến mất rồi.
Địch Thanh có linh cảm, phật Di Lặc tuyệt đối sẽ không mai danh ẩn tích như thế. Phật Di Lặc ẩn nấp được càng lâu càng chứng tỏ hắn đang bày ra một mưu đồ kinh thiên động địa.
Hồi lâu, ánh mắt Địch Thanh lại rơi vào Tứ Đại Thiên Vương hai bên phật Di Lặc, hắn chỉ có thể nói, năm xưa khi nhìn thấy Tứ Đại Thiên Vương ở thung lũng Phi Long, bất kể là trang phục, mặt nạ hay binh khí đều cực kỳ giống với Tứ Đại Thiên Vương ở giữa điện.
Địch Thanh nhìn cây tán của Đa Văn Thiên Vương, khóe miệng lộ ra một tia cười cay đắng, lẩm bẩm:
– Nếu các ngươi thật sự tốt thì đương nhiên sẽ có dân chúng thờ phụng, nhưng nếu các ngươi tà ác giống như đêm đó, ta vẫn còn muốn giết các ngươi.
Địch Thanh ngơ ngẩn nhìn Đa Văn Thiên Vương kia, không biết đã qua bao lâu, lúc này mới xoay người lại. Người bên trong điện không nhiều lắm, một người mới vừa rồi đứng ở bên cạnh Địch Thanh hướng về phía phật Di Lặc hành lễ. Khi Địch Thanh xoay người lại thì người đó đã rời khỏi.
Ở trong khoảnh khắc chớp mắt này, Địch Thanh phảng phất trông thấy được khóe miệng người ấy hình như lưu lại một nét cười nhưng vẻ mặt rất lạnh.
(1) kỳ tập: gặp gỡ định kỳ. Đặc biệt chỉ có sĩ tử sau khi thi đậu dựa theo lệ cũ tập trung dạo chơi và tiệc rượu.
(2) trà dư tửu hậu: giờ rỗi rãi (sau khi cơm nước xong).