Đêm đã khuya, ánh trăng mờ nhạt.
Bước lững thững trên đường, Địch Thanh suy nghĩ về lời của Quách Tuân hôm nay, hằng hà bí ẩn, muôn vàn suy tư.
Lơ đãng ngẩng đầu lên, chàng mới phát hiện đã đến gần ngõ Mạch Kiết lúc nào không hay. Chàng cảm thấy ngỡ ngàng, rốt cuộc vẫn không quên được nàng, nhưng hôm nay vừa từ biệt nàng xong, còn nói ra lời tuyệt tình đến thế, sau này còn mặt mũi nào mà gặp nàng chứ?
Nghĩ vậy nhưng rốt cuộc Địch Thanh vẫn đi tới ngõ hẻm đó. Còn chưa đến gần cửa ngõ, chàng đã phát hiện có ai đó đang đứng trước cây mai kia, tim không khỏi loạn nhịp. Có tiếng ‘rốp rốp’ vang lên dồn dập từ phía gốc mai, chàng vốn tưởng là tiếng tim đập nhanh, nhưng khi nghe kĩ thì phát hiện ra đây là tiếng chặt cây mai của người đó.
Địch Thanh giật mình kinh hãi, vội vàng chạy tới thì thấy người đang chặt mai không phải là người trong mộng, mà là nha hoàn Nguyệt nhi của nàng. Mặc dù Nguyệt nhi nhìn có vẻ gầy yếu nhưng sức lực cũng không nhỏ, theo tiếng ‘rốp rốp’ vang lên không dứt, tuyết đọng bị chấn rơi xuống ào ào, vụn gỗ bay tứ tung.
Địch Thanh vội hỏi:
– Này, cô đang làm gì thế?
Nguyệt nhi đang chặt cây hết sức tập trung, do đó không để ý sau lưng có người đến gần. Nàng giật mình hét lên một tiếng sợ hãi rồi bỗng xoay người bổ một búa về phía Địch Thanh! Địch Thanh bắt lấy cổ tay nàng, quát:
– Cô có bị khùng không đó, sao vừa gặp tôi đã chém?
Nguyệt nhi nhận ra là Địch Thanh thì vùng mạnh mấy cái. Địch Thanh sợ nàng sẽ đánh tiếp nên không dám buông tay. Nguyệt nhi vùng ra không được, bỗng hé miệng phun một ngụm nước bọt vào mặt Địch Thanh.
Địch Thanh cuống quýt lui về phía sau, giận dữ nói:
– Sao cô ngang ngược không nói lý lẽ gì cả? Tôi là Địch Thanh đây!
Nguyệt nhi cười lạnh:
– Ta biết rõ ngươi là Địch Thanh đó, sao ngươi còn chưa đi chết đi?
Địch Thanh thấy nàng tức giận đến nỗi nghiến răng nghiến lợi, không khỏi rất đỗi kỳ quái:
– Tôi..tôi có mạo phạm gì cô đâu? Chuyện lúc trước, không phải tôi đã nhận lỗi rồi sao?
Trong suy nghĩ của chàng, việc đụng ngã cô gái trước đây, chàng đã dùng hoa tươi để xin lỗi. Trừ chuyện đó ra, chàng nghĩ không ra mình đã chọc giận cô nàng Nguyệt nhi này khi nào.
Nguyệt nhi mắng:
– Tên lừa gạt nhà ngươi, tiểu thư bị ngươi hại chết rồi, vậy mà ngươi còn buông lời châm chọc?
Địch Thanh rùng mình, hỏi gấp:
– Tiểu thư nhà cô làm sao?
Nguyệt nhi la lên:
– Không phải ngươi nói muốn rời kinh thành, không bao giờ trở về nữa hay sao? Tiểu thư nghe vậy rất thương tâm, khóc cả ngày, giờ đã ngã bệnh, tên chết tiệt nhà ngươi hài lòng rồi chứ? Ngươi đụng ngã tiểu thư thì thôi đi, hà cớ gì lại tặng Phượng Cầu Hoàng cho nàng?
Địch Thanh ngạc nhiên hỏi:
– Phượng Cầu Hoàng gì?
Nguyệt nhi lập tức vung búa bổ tới:
– Đến giờ mà ngươi vẫn không thừa nhận sao?
Lòng rối như tơ vò, chàng vội vàng tránh sang một bên, hô to:
– Cô, cô đừng có hở một cái là đánh đánh đấm đấm, tôi thấy cô là nữ giới nên mới không đánh trả, cô đừng tưởng rằng tôi sợ cô nha. Cô muốn tôi thừa nhận thì cũng phải nói cho tôi rõ chứ, uy hiếp người khác thừa nhận là không đúng tí nào.
Nguyệt nhi quát lên:
– Trước đây ngươi tặng chậu hoa kia cho tiểu thư nhà ta, không phải là Phượng Cầu Hoàng sao? Ngươi đừng có nói rằng, ngươi không có tặng nha.
Địch Thanh giật mình, không ngờ chậu hoa đó lại có cái tên lịch sự tao nhã đến như vậy. Trước đây, chàng chỉ muốn thể hiện lời xin lỗi của mình, đâu có biết tên của loài hoa này. Tuy chàng ít đọc sách nhưng vẫn biết chút ít ý nghĩa của Phượng Cầu Hoàng. Nếu khi đó chàng mà biết tên nó như vậy thì cho dù có bị đánh chết, chàng cũng không dám tặng. Bây giờ biết rồi, trong lòng vừa chua xót vừa có chút ngọt ngào. Giờ chàng mới hiểu được tại sao lúc nàng cám ơn chàng tặng hoa thì có chút ngượng ngùng.
– Ngươi tặng hoa cho tiểu thư nhà ta cũng không vấn đề gì, nhưng ngươi không nên bắt cá hai tay, tặng hoa cho nàng này rồi còn đến nơi bướm hoa vui vẻ với nàng khác. Hơn nữa, còn vì một nữ nhân mà đánh nhau với người ta.
Địch Thanh không thể không giải thích:
– Thật ra, tôi không phải vì nữ nhân.
Nguyệt nhi bĩu môi:
– Không phải vì đàn bà, chẳng lẽ vì nam nhân sao?
Địch Thanh khó lòng giải thích rõ ràng:
– Nguyệt nhi cô nương, mong cô hãy tin tôi, tôi đến đó không phải vì ca cơ đâu.
– Ta tin ngươi làm gì? Nhưng tiểu thư nhà ta mù quáng, không ngờ lại tin ngươi vô tội. Tiểu thư nói ngươi nhất định có nỗi khổ trong lòng, cảm thấy ngươi không phải là người xấu. Ngươi ở trong lao ngục hơn nửa năm thì nàng cũng lo lắng cho ngươi hơn nửa năm. Quê của chúng ta có một tập tục là khi thả diều có vẽ Hồng Chủy Ngọc thì có thể cầu phúc cho người khác, nghĩ gì được nấy. Ngươi ở trong lao ngục hơn nửa năm, tiểu thư nhà ta thả diều hơn nửa năm để cầu may cho ngươi.
Địch Thanh ngẩn người, giọng nói run rẩy trong gió:
– Cô nói thật chứ?
Chàng chợt nhớ lại lúc gặp nàng, nàng có nói cái gì mà: “Thì ra…”, rõ ràng là định nói —— “Thì ra tập tục là thật”.
Nguyệt nhi cười lạnh:
– Ngươi đừng giả vờ giả vịt nữa. Dù lời ta nói là thật đi chăng nữa, nhưng đó là do tiểu thư nhà ta có lòng tốt, không phải có tình ý gì với ngươi hết.
– Cô nương nói rất đúng. Nhưng tôi… cũng lấy diều giúp tiểu thư nhà cô…mà.
– Lấy diều là giỏi lắm sao?
Nguyệt nhi hỏi vặn lại.
Địch Thanh chột dạ trả lời:
– Cũng không phải giỏi gì, tôi cũng không biết, thật sự không biết…
– Ngươi biết đi tìm chết thôi đúng không?
Nguyệt nhi châm chọc:
– Nếu cái gì ngươi cũng không biết, tại sao lại đợi suốt mấy ngày ở ngõ Mạch Kiết, bộ dạng thì như thất hồn lạc phách?
Địch Thanh cả kinh, ngượng ngùng hỏi:
– Làm sao cô biết?
Nguyệt nhi cười khẩy:
– Có cái gì mà ta chẳng biết? Ngươi dám thề rằng mấy ngày nay ngươi quanh quẩn ở ngõ Mạch Kiết không phải đợi tiểu thư nhà ta không?
Đôi mắt Nguyệt nhi như băng, lạnh lùng nhìn Địch Thanh.
Địch Thanh không trốn tránh nữa, ưỡn ngực đáp:
– Đúng vậy, tôi đợi tiểu thư nhà cô đó. Tôi không biết lượng sức mình, nhưng tôi đi loanh quanh ngõ Mạch Kiết thì có gì là sai chứ?
– Ngươi không sai sao?
Nguyệt nhi bất mãn nói:
– Ngươi không thấy tiểu thư nhà ta đến, chẳng lẽ không thể tự mình đi tìm nàng sao? Nàng nhìn thấy máu liền chóng mặt, nhưng lại băng bó vết thương cho ngươi. Nàng sợ lạnh nhất, nhưng lại đứng chờ ngươi mấy lần. Nàng làm cho ngươi nhiều như vậy, vậy mà ngươi ngay cả một tí xíu cũng không cảm nhận được? Nàng chủ động tới tìm ngươi, chủ động nhắn tin cho ngươi, ngươi giỏi lắm, được thế bắt đầu chảnh, mấy đêm liền không thèm tới, cũng không biết ngươi là bò ngốc hay là ngốc như bò đây?
Địch Thanh nghe vậy thì vô cùng kích động, hận không thể tát mình mấy cái. Chàng vội mở miệng giải thích:
– Tôi thực sự bận việc mà, cô xem, tôi bị thương đây này. Mấy đêm nay, đêm nào cũng phải đi tuần, suýt tí nữa thì toi mạng rồi.
– Chết thì hay lắm sao?
Nguyệt nhi đốp chát lại.
Địch Thanh lúng túng nói:
– Ơ! Cái này cũng không có gì hay, nhưng lúc đó thật sự tôi tới không được.
– Vậy lần cuối cùng ngươi đến đây, tại sao lại tuyệt tình như vậy?
Nguyệt nhi cười nhạt hỏi:
– Ngươi cho rằng ngươi có lí do chính đáng ư? Ngươi cho rằng tiểu thư nhà ta phải chịu đựng bị ngươi khi dễ sao? Hay ngươi chỉ là tên bịp bợm? Nếu ngươi đã đi rồi thì cớ sao đêm nay còn đến đây?
– Nguyệt nhi cô nương, tôi thật sự có nỗi khổ trong lòng. Tôi biết đây đều là lỗi của tôi, cô đánh tôi cũng được, mắng tôi cũng được luôn, nhưng tôi chỉ xin cô dẫn tôi đến gặp tiểu thư nhà cô, tôi sẽ giải thích rõ mọi chuyện với nàng. Nàng tha thứ cho tôi cũng được, hận tôi cũng không sao, tôi đều cảm kích cô vô cùng.
Vốn tưởng rằng cô nàng Nguyệt nhi cay nghiệt này sẽ không dẫn chàng đi, ai dè Nguyệt nhi nhìn chàng một lúc, rốt cuộc thở dài:
– Được rồi, ta dẫn ngươi đi. Mong rằng lần này ngươi đừng có khiến cho người ta thất vọng.
Được Nguyệt nhi đồng ý, chàng vui mừng vô hạn, nhưng khi thấy Nguyệt nhi xách búa đi trước dẫn đường thì chàng thầm run sợ. Hai người băng qua ngõ Mạch Kiết, đến trước cửa son mà lần trước cô gái ấy đi vào, nhưng lại không đi vào mà tiếp tục đi qua. Tiếp đó Nguyệt nhi dẫn Địch Thanh vào bằng cửa hông, đi qua hành lang xuyên sân vườn, cuối cùng đến trước một căn phòng thì dừng lại. Nàng nói nhỏ:
– Có lẽ tiểu thư nhà ta đang ở đây, ngươi vào gặp đi. Có lẽ nàng còn đang ngủ đó, ngươi nhẹ nhàng một chút.
– Cô không vào sao?
Địch Thanh đổ mồ hôi hột hỏi.
Nguyệt nhi trả lời:
– Ta mệt rồi, chẳng lẽ ngươi không thể để cho người ta nghỉ một tí sao?
Địch Thanh hơi chần chừ hỏi:
– Đây là khuê phòng của tiểu thư nhà cô sao? Làm sao tôi có thể vào chứ?
– Nếu ngươi thật lòng muốn gặp nàng, cho dù núi đao biển lửa cũng phải xông vào, nói chi là khuê phòng!
Địch Thanh thầm nghĩ: “Cái này sao mà giống được chứ? Vì nàng, dù núi đao biển lửa mình cũng không sợ, nhưng khuê phòng thì khác”.
Thấy chàng còn định nói thêm gì đó, Nguyệt nhi sầm mặt nạt:
– Bà ta ơi! Mẹ ta ơi! Thật không phải là đàn ông mà. Ngươi không vào đúng không? Vậy thì theo ta đi ra ngoài!
Địch Thanh vội nói:
– Tôi vào, tôi vào.
Vừa định gọi “trước” một tiếng, Nguyệt nhi ngăn lại:
– Tiểu thư có lẽ đang nghỉ ngơi, ngươi đừng đánh thức nàng.
Dứt lời liền xoay người rời đi.
Địch Thanh rất khó xử, không đoán được tâm tư của cô nàng Nguyệt nhi này.
Nhìn thấy trong sương phòng hắt ra ánh đèn nhàn nhạt, chàng bỗng cảm thấy nghi hoặc trong lòng. Mấy ngày nay chàng luôn chìm trong mưu mô tính kế, nên giờ đột nhiên có suy nghĩ này: “Chẳng lẽ đây là một cái bẫy, nếu không thì sao Nguyệt nhi lại để một người xa lạ như mình đến gặp tiểu thư nhà nàng?”
Nhưng ngay sau đó chàng cười chua xót, thầm nhủ: “Địch Thanh à Địch Thanh, ngươi coi ngươi là cái gì chứ, đáng để bọn họ bày bố ra cái bẫy này hay sao? Cho dù là bẫy thật, nhảy vào cũng có sao?”
Địch Thanh đắn đo suy nghĩ, rốt cuộc cố lấy can đảm đẩy cửa phòng ra. Trong phòng vắng vẻ trống trải, chỉ có một ngọn đèn mờ ảo.
Phòng này rộng lớn như vậy, thực sự là khuê phòng ư?
Đứng ở trong phòng một lát, Địch Thanh mới phát hiện nơi này còn có cửa hông, chậm rãi đi tới đẩy cửa phòng ra, chàng nhìn thấy thấy nơi này hương khói lượn lờ, nàng đang đứng yên trước bàn thờ, mặt đối điện với linh vị, lưng đưa về phía Địch Thanh.
Địch Thanh cảm thấy có chút không tiện, vừa định rời đi thì cô gái nghe thấy sau lưng có tiếng động liền buồn bã hỏi:
– Tiểu Nguyệt, em về rồi sao?
Địch Thanh khó xử, trong lúc nhất thời không biết nói gì cho phải.
Thiếu nữ kia chỉ cho là Tiểu Nguyệt đến nên cũng không quay đầu lại. Nàng nói tiếp:
– Than ôi, cổ tay y bị thương, miệng vết thương còn chưa được băng bó, cũng không biết đã đỡ hơn chưa. Chị sẽ không còn gặp được y nữa rồi.
Sống mũi cay cay nhưng chàng vẫn đứng lặng yên nhìn nàng, trong lòng dâng trào cảm xúc.
Im lặng một lúc, nàng lại nói tiếp:
– Tiểu Nguyệt, em nói xem, có phải chị rất ngốc đúng không? Chị chỉ gặp y một lần, chỉ nhận một chậu hoa mà y tặng, nhưng chẳng biết tại sao, lần đầu tiên gặp nhau, chị đã cảm thấy trong lòng y chất chứa đầy tâm sự và ưu sầu, giống hệt như chị vậy. Lúc trước chị vốn không tin chuyện vừa gặp đã thương, nhưng sau này chị đã tin, em còn cười chị ngây ngơ. Trước đây, em nói y tranh đoạt tình nhân với Mã Trung Lập, không phải là đàn ông tốt, chị còn trách mắng em, nói y không phải là hạng người này, chị và em còn đánh cuộc với nhau, chị nói y không phải hạng người này! Em thua, có phải không?
Nàng nở một nụ cười như có như không, nói tiếp:
– Hóa ra thả diều Hồng Chủy Ngọc, tâm nguyện của một người có thể thành sự thực. Hóa ra người tốt cuối cùng cũng sẽ được báo đáp. Y bình an rồi, chị mừng ghê lắm, nhưng y yêu chị thật sao? Suốt mấy ngày nay, y quanh quẩn trong gió tuyết nơi ngõ Mạch Kiết, có phải là đang chờ chị hay không? Tiểu Nguyệt, em biết không, đến tận bây giờ, ngoài mẫu thân và em ra, chưa từng có ai quan tâm chị đến thế, chị rất vui em ạ. Chị nghe y kể lại chuyện xưa thì mới biết được thì ra y cũng giống như chị, đều mất mẫu thân từ lúc còn rất bé, y vì đại ca nên mới tòng quân, vì bình định phản loạn nên mới bị thương. Lúc nào y cũng bị thương, thật là làm cho người ta lo lắng. Lần trước chị đã băng vết thương cho y, nhưng lần này tại sao y lại quyết rời đi chứ? Chị biết y gặp chuyện khó xử và không muốn làm cho chị buồn, nhưng y không biết sao? Y không nói ra thì càng làm chị buồn hơn!
Đột nhiên nàng rủ người ôm lấy mặt bàn, nấc lên từng tiếng nghẹn ngào. Chàng ứa nước mắt, miệng không thể thốt nên lời.
– Mẫu thân, Y…đi…đi thật rồi, không bao giờ…trở về…nữa. Con biết, biểu hiện của y lúc đó đã nói cho con biết hết thảy. Mẫu thân, lúc đó con rất muốn nói rằng, con muốn phiêu bạt khắp chân trời góc bể với y, nhưng con làm sao có thể? Con đành phải trơ mắt nhìn y rời đi. Trong khoảnh khắc đó, mẹ có biết trái tim con tan nát rồi không… Mẫu thân, con không biết phải cầu ai bây giờ, chỉ cầu mong mẹ ở trên trời có linh thiêng phù hộ cho huynh ấy…bình an…
Trong lúc nghẹn ngào khôn xiết, cảm thấy có bàn tay vuốt nhẹ lên mái tóc, nàng liền xoay người ôm lấy, thút thít:
– Tiểu Nguyệt…
Rồi đột nhiên cảm giác không phải, nàng lập tức buông tay lùi bước, nhìn thấy là Địch Thanh, thân hình yêu kiều của nàng loạng choạng mấy cái, như thể sắp té xỉu đến nơi.
Lần này thì ĐịchThanh đã có thể mấp máy bờ môi, chàng run rẩy nói:
– Huynh…
Nghe cô gái bày tỏ tấm lòng, chàng đã sớm xúc động khó tả, tuy có rất nhiều lời muốn nói, nhưng không thốt nổi một từ nào. Cô gái kêu nhỏ một tiếng, lại nhào vào lòng Địch Thanh. Hai người ôm chặt lấy nhau, không nói thêm lời nào. Có lẽ ở trong lòng hai người bây giờ không lời còn giá trị hơn ngàn lời, im lặng còn giá trị hơn cả nói!
Bóng tối vắng lặng hiền hòa, trong không khí phảng phất mùi hương thơm dìu dịu. Địch Thanh ôm lấy thân thể ấm áp và mềm mại trong lòng, nhất thời không biết thân đang ở nơi đâu, nhất thời quên tất cả vinh nhục xót xa.
Không biết qua bao lâu, cô gái nhẹ nhàng đẩy Địch Thanh ra, thụt lùi hai bước, mặt lộ vẻ thẹn thùng hỏi:
– Huynh không phải đã đi rồi ư? Sao còn trở về đây? Tiểu Nguyệt, em đang ở đâu?
Cô gái thầm nghĩ, Địch Thanh tuyệt đối không có can đảm đến đây một mình, nhất định là do nha đầu Tiểu Nguyệt ấy dẫn đến.
Ngoài cửa không có ai trả lời, nàng đỏ mặt, vân vê góc áo nói:
– Địch Thanh…huynh…
Địch Thanh áy náy:
– Huynh…thật không biết nói gì nữa, huynh không biết muội đối với huynh như thế, nếu sớm biết…
Thấy đôi mắt như trăng thanh nước biếc của cô gái đang nhìn mình, Địch Thanh nhấc tay muốn vả vào mặt.
Cô gái dịu dàng nắm chặt lấy bàn tay Địch Thanh, nhỏ giọng:
– Muội biết huynh nhất định có điều khó nói.
Địch Thanh đột nhiên phát hiện rằng, mọi chuyện đã không cần phải giải thích gì nữa, nàng chẳng những có dung mạo thoát tục mà còn khéo hiểu lòng người.
Chàng cảm khái:
– Nhưng dù cho huynh có chuyện gì khó nói đi chăng nữa, cũng không nên đối xử với muội như vậy.
Nước mắt nàng lăn dài từ vành mắt xuống khóe miệng tạo thành một đường cong mỹ lệ, nàng thủ thỉ:
– Huynh nghĩ rằng, dù có nói cho muội đi nữa thì cũng vô dụng thôi. Trái lại chỉ tổ làm cho muội thêm khó xử, đúng không?
Trước đây, Địch Thanh quả thực nghĩ như thế. Chàng thở dài:
– Lúc đó huynh chỉ muốn trả thù, tưởng rằng không thể lui được nữa nên mới nghĩ đến sau khi ra tay sẽ rời khỏi kinh thành, từ nay về sau lưu lạc nơi chân trời góc bể. Dĩ nhiên…cũng có thể bỏ mạng nơi đầu đường, kết cục là cái chết.
Thân thể mềm mại của nàng khẽ run, đôi mắt xinh đẹp nhìn Địch Thanh hỏi:
– Vậy bây giờ thì sao?
Địch Thanh cười khổ:
– Bây giờ suy nghĩ lại, một số việc dường như vẫn có thể nhẫn nhịn được.
– Đúng vậy, trên đời này có một số việc, ban đầu nhìn thì khó mà nhẫn nhịn, nhưng sau này ngẫm lại, cũng không đáng một nụ cười. Địch Thanh, huynh hãy hứa với muội, sau này làm việc gì cũng phải nghĩ kỹ nhé?
Địch Thanh không chút do dự nói:
– Huynh hứa với muội!
Nàng nở nụ cười tươi tắn, rồi thân hình bỗng loạng choạng, đưa tay xoa trán.
Địch Thanh vội vàng đỡ lấy nàng:
– Muội sao thế?
– Muội…không sao cả.
Địch Thanh lúc này mới chợt nhớ Nguyệt nhi có nói nàng đang sốt, liền ân cần dặn dò:
– Nếu muội cảm thấy không khỏe thì trở về nghỉ ngơi đi.
Nàng vốn định gật đầu nhưng rồi mặt lại ửng đỏ, lắc đầu:
– Không, muội vẫn còn muốn ngồi đây một chút nữa, huynh ngồi cùng muội được không?
Địch Thanh không nỡ từ chối liền gật đầu đồng ý. Chàng quay đầu nhìn linh vị, trông thấy bên trên có khắc “Hiển(*) tỷ Dương môn Bạch thị linh vị”, thầm nghĩ: “thì ra nàng họ Dương”.
(*)Hiển: cách xưng hô tổ tiên một cách kính trọng.
Nàng thấy Địch Thanh nhìn linh vị, thầm thì:
– Đó là linh vị của vong mẫu(**).
(**)Vong mẫu: mẹ đã mất)
Địch Thanh nghe vậy, kính cẩn thi lễ thật sâu với linh vị kia, trong lòng mặc niệm: “Bá mẫu, tại hạ Địch Thanh, may mắn gặp gỡ lệnh thiên kim, chỉ cầu người phù hộ nàng bình an hạnh phúc, Địch Thanh được nàng xem trọng, nhất định không phụ thâm tình của nàng.”
Nhiều năm qua, tinh thần Địch Thanh sa sút, buồn bực không vui, đột nhiên biết được tình cảnh của nàng cũng giống như chàng, lại còn thâm tình với chàng đến thế thì sớm đã không kềm lòng được. Nhiều ngày quanh quẩn ở ngõ Mạch Kiết, Địch Thanh không ngờ rằng tình ý đã sớm đâm chồi trong lòng.
Sau khi bái linh vị xong, Địch Thanh mới nhớ ra mình vẫn chưa hỏi tên nàng. Lúc trước thì ngượng ngùng, sau này thì mặc cảm, đợi đến khi quen nhau hơn thì lại sắp ly biệt, cần gì phải hỏi nữa? Cho nên đến bây giờ, Địch Thanh vẫn chưa biết tên nàng, trong sự ngọt ngào cũng mang theo ít nhiều áy náy.
Cô gái thấy Địch Thanh rất kính trọng với vong mẫu của mình thì trong lòng vui sướng, nhưng nhìn thấy chàng trầm tư nên hỏi:
– Huynh nghĩ gì thế?
Địch Thanh lắc đầu trả lời:
– Cũng không có gì, huynh đang nghĩ tới việc đến tận bây giờ mà vẫn chưa biết tên muội, cảm thấy có phần thất lễ quá.
Cô gái nhoẻn miệng cười:
– Thất lễ quá sao? Cũng không hẳn vậy đâu! Nhưng nếu mẹ muội còn sống, có lẽ sẽ nói rằng: “Vũ Thường à, sao con có thể quen biết tên nam nhân hồ đồ này chứ?”
Địch Thanh nghe cô gái hờn dỗi thì thẹn đỏ cả mặt, ngập ngừng:
– Hóa ra muội tên là Dương…
Chàng đang cân nhắc xem rốt cuộc tên nàng là Vũ Thường(Vũ: mưa) hay là Vũ Thường(Vũ: lông) hay là chữ gì khác. Nàng đột nhiên đứng dậy, nhẹ nhàng múa một điệu rồi nói:
– Chẳng lẽ huynh không biết 《 Nghê Thường Vũ Y Khúc 》(1) sao?
Nhìn điệu múa uyển chuyển của nàng, chàng cảm giác như đang chìm trong cõi bồng lai tiên cảnh, xấu hổ nói:
– Chưa từng nghe qua.
Cô gái dịu dàng cười nói:
– Khúc《 Nghê Thường Vũ Y》này vốn là tác phẩm mà Đường Huyền Tông tâm đắc nhất, lúc ấy có người làm thơ khen rằng, ‘Thiên khuyết trầm trầm dạ vị ương, bích vân tiên khúc vũ nghê thường, nhất thanh ngọc địch hướng không tẫn, nguyệt mãn ly sơn cung lậu trường(*).’ Mẫu thân của muội rất thích nhạc điệu cũng như lời bài thơ này, ban đầu định đặt tên muội là Nghê Thường, nhưng lại cảm thấy lộng lẫy qua mức nên về sau quyết định đổi thành Vũ Thường. Người nói: ‘Con gái à, chất phác là Chân(bản tính tự nhiên), mẫu thân không chọn Nghê Thường mà lấy Vũ Thường để đặt cho con, Vũ trong vũ mao(lông vũ), Thường trong y thường(xiêm y), hy vọng con sau này không cầu xa hoa, chỉ cầu hạnh phúc vui vẻ. Con phải biết rằng, nhiều lúc hạnh phúc, bao nhiêu xa hoa cũng không mua được.
(*)Thăm thẳm cung trời đêm chẳng buông, mây xanh tiên dạo khúc Nghê thường, một làn sáo ngọc dâng cao vút, trăng trải non ngàn điệu vấn vương.
– Thì ra muội tên là Dương Vũ Thường, mẹ muội nói thật hay…
Trong đầu thì nghĩ: “Mình có thể được Vũ Thường xem trọng, đây đúng là bao nhiêu xa hoa cũng không mua được.”
– Đúng vậy, do đó khi đau buồn muội sẽ tìm mẫu thân khóc lóc kể lể, khi vui vẻ muội cũng sẽ đến đây thổ lộ ra hết. Muội biết bất kể muội có vui vẻ hay không, người lúc nào cũng kiên nhẫn nghe muội nói.
Vũ Thường nhẹ giọng nói.
Địch Thanh cố lấy can đảm:
– Vậy sau này bất kể là u buồn hay vui vẻ, muội cũng có thể nói với huynh.
Sóng mắt long lanh, Vũ Thường vui vẻ nói:
– Ừm.
Nàng khẽ ngáp một cái, rồi lấy tay che miệng ngay tắp lự. Địch Thanh thấy thế thì cười bảo:
– Muộn rồi đó, muội về nghỉ ngơi đi, hôm khác huynh lại tới thăm muội.
Vũ Thường lắc đầu:
– Muội chưa buồn ngủ.
Rồi nàng bỗng nảy ra một ý, cười nói:
– Muội kể cho huynh nghe nguồn gốc tên muội rồi, huynh cũng nên kể chuyện của huynh mới được.
Địch Thanh lúng túng đáp:
– Huynh nào có chuyện gì để kể chứ?
Vũ Thường không chịu buông tha:
– Huynh không kể, muội không cho huynh đi.
Địch Thanh cũng không nỡ đi, nhưng nhìn thấy sắc mặt mệt mỏi của Vũ Thường thì thật không nỡ để nàng thức đêm nữa, đành trầm ngâm:
– Thật ra thì cũng không có chuyện gì để kể. Khi còn bé huynh ở Tây Hà, vì cha mẹ mất sớm nên huynh rất thích đánh nhau. Huynh ghét nhất là bị người khác xem thường, nhưng sau này huynh rốt cuộc hiểu ra, có lẽ số mệnh đã định trước huynh là kẻ bị người ta xem thường.
Vũ Thường an ủi:
– Vương hầu tương tương, ninh hữu chủng hồ(2). Địch Thanh, nếu huynh muốn được người khác xem trọng thì phải có chí khí mới được.
(2) vương hầu danh tướng không phải tự nhiên mà có, phải qua nỗ lực phấn đấu thì mới thành công.
Địch Thanh thấy Dương Vũ Thường khéo hiểu lòng người thì cảm kích nói:
– Muội nói không sai, sau này huynh tuyệt đối sẽ không để cho người khác xem thường nữa.
Rồi nghĩ thầm, ‘vì muội, huynh phải phấn chấn hơn mới được.’
Vũ Thường hỏi:
– Huynh nói vì đại ca nên huynh mới đánh nhau với tên cường hào ác bá đó, hình như trong đó có một vị cô nương tên là Tiểu Thanh, trong tên nàng có chữ Thanh, huynh cũng có chữ Thanh, phải chăng hai người có duyên phận?
Địch Thanh vội nói:
– Thanh sơn cũng có chữ Thanh, chẳng lẽ huynh cũng có duyên phận với toàn bộ thanh sơn(non xanh) sao?
Nhìn thấy trong hai tròng mắt của Vũ Thường có nụ cười ranh mãnh, Địch Thanh cười nói:
– Hay lắm, muội dám giễu cợt huynh.
Vũ Thường làm bộ nghiêm mặt lại nói:
– Muội nào dám chứ? Địch Thanh, huynh không biết là… huynh rất anh tuấn không?
Địch Thanh sờ sờ mặt, cười khổ đáp:
– Bị xăm chữ trên mặt thì sao mà anh tuấn cho được?
– Nếu không thì, muội nghĩ do huynh quá anh tuấn, ngược lại cũng không tốt lắm. Mẫu thân muội nói, trên đời này, vật quá hoàn mỹ, sẽ chết yểu…
Địch Thanh thầm run, nói vội:
– Cũng không hẳn vậy.
Nhìn khuôn mặt xinh đẹp không chút tỳ vết của Vũ Thường, tim chàng bỗng đập nhanh.
Vũ Thường thấp giọng nói:
– Mấy chữ xăm trên mặt đã giúp huynh xóa đi vẻ đẹp nhu nhược trước kia mà chuyển thành vẻ kiên cường bây giờ. Vết sẹo trên đầu huynh vì sao mà có vậy?
– Chuyện dài lắm.
– Thế huynh kể cho muội nghe đi.
Nhìn thấy dáng vẻ đầy quyến luyến, Địch Thanh không nỡ từ chối:
– Đây có thể nói là một trận chém giết khó quên nhất trong cuộc đời huynh…
Thảm trạng tại thung lũng Phi Long năm đó lại một lần nữa hiện ra trong đầu, Địch Thanh không nhịn được kể lại chuyện năm đó. Mặc dù chuyện đã xảy ra cách đây nhiều năm, nhưng khi Vũ Thường nghe xong vẫn cảm thấy kinh tâm động phách, đôi mắt đẹp đôi khi hiện ra vẻ kinh hãi, dẫu sao nàng vẫn là thiếu nữ khuê phòng, thường ngày không có biết đến chuyện đẫm máu như thế này, ngay cả nghe cũng chưa từng nghe qua. Khi nghe đến chuyện Địch Thanh ra tay cứu Quách Tuân thì nàng lộ vẻ tôn kính:
– Địch Thanh, muội không có nhìn lầm huynh ^^, lúc đó còn có thể ra tay cứu giúp, đây chính là hành động của trượng phu!
Địch Thanh được người yêu khen ngợi thì ngượng ngùng cười:
– Muội quá khen rồi! Suốt mấy năm sau huynh luôn tự hỏi, năm đó ra tay có đáng hay không? Hay lúc đó chỉ là bốc đồng nhất thời.
– Trong giây phút sống chết, mới hiển lộ ra bản sắc anh hùng. Muội thấy chỉ trong khoảnh khắc đó, mới có thể hiển lộ bản sắc con người chân chính. Vậy tiếp đó thì sao?
Địch Thanh nói tiếp:
– Khởi đầu là Quách đại ca cứu huynh, tiếp đó huynh giúp huynh ấy một tay, sau đó nữa thì huynh ấy lại cứu huynh. Trong trận đánh nhau ở thung lũng Phi Long, do huynh ấy vận công quá sức, nghe nói bệnh căn không dứt, đã mấy năm rồi vẫn chưa khỏe lại, song huynh ấy chưa từng nói chuyện này cho huynh biết , huynh hỏi Vương đại phu mới biết được đó. Than ôi, cả đời này, huynh lúc nào cũng nợ huynh ấy.
Những lời này chàng chưa bao giờ đề cập với người ngoài, bởi vì chàng biết Quách Tuân xưa nay ban ơn không mong báo đáp, nhưng rốt cuộc vẫn thổ lộ với Vũ Thường.
Vũ Thường tỏ ra kính ngưỡng, hồi lâu mới nói:
– Các huynh đều là anh hùng! Địch Thanh, huynh không nên nản lòng, chỉ cần cố gắng thì cuối cùng sẽ có một ngày thực hiện được ước nguyện.
Địch Thanh cười hỏi:
– Chẳng lẽ muội biết được ước nguyện của huynh sao?
Đôi mắt đẹp của Vũ Thường dừng lại trên khuôn mặt Địch Thanh, ôn nhu nói:
– Ước nguyện của huynh không phải là muốn trở thành anh hùng, được tất cả người trong thiên hạ tôn sùng sao?
Địch Thanh giật mình, nắm lấy bàn tay mềm mại của Dương Vũ Thường, nghẹn lời hỏi:
– Làm sao muội biết? Chuyện này huynh chỉ nói với đại ca mà thôi.
Vũ Thường hơi đỏ mặt nhưng không rút tay về, giảo hoạt nói:
– Muội biết mà.
Lòng bàn tay có cảm giác mềm mại, chàng cúi đầu thì nhìn thấy đôi bàn tay bé nhỏ của nàng, trắng như ngọc, trắng hơn cả tuyết. Chàng chậm rãi buông lỏng tay ra, nói:
– Vũ Thường, huynh sẽ không khiến cho muội thất vọng, cũng sẽ không khiến cho bản thân thất vọng. Muội hãy tin huynh.
Lời chàng nói như chém đinh chặt sắt, ý chí chưa bao giờ kiên định đến thế.
Vũ Thường nhìn vào hai mắt Địch Thanh:
– Nếu muội không tin huynh thì còn đợi huynh làm gì?
Nàng dịu dàng cười, rồi nói tiếp:
– Được rồi, hôm nay huynh kể chuyện nên được qua ải, sau này nhớ đến kể chuyện cho muội nghe nữa nhé.
Địch Thanh gật đầu nói:
– Ừ.
Vũ Thường tiễn chàng ra đến trước cửa phòng, Địch Thanh ngăn lại:
– Gió lớn lắm, muội đừng tiễn nữa, huynh tự về được rồi.
Vũ Thường không cố chấp nữa. Nàng gật đầu đồng ý, rồi nhẹ giọng ngâm:
– Thanh thanh tử khâm, du du ngã tâm. Túng ngã bất vãng, tử ninh bất tự âm?(*)
(*)Xanh xanh áo ai, xao xuyến lòng tôi. Dẫu mình không gặp, sao chẳng nhắn đôi lời?
Nàng nói xong bật cười, đóng cửa phòng lại, không còn thấy bóng dáng nữa.
Nghe thấy nàng ngâm bốn câu này, song trong lúc nhất thời chàng vẫn chưa hiểu nghĩa, ‘thanh thanh’ có lẽ là nói ‘Địch Thanh’ chàng, ý của phần sau hình như là Vũ Thường oán trách chàng, nàng không tới tìm chàng, chẳng lẽ chàng không thể đi tìm nàng sao? Ôi, có lẽ là thế. Mặc dù chàng nghĩ vậy nhưng cũng không chắc lắm, lát về phải thỉnh giáo thằng nhóc Quách Quỳ có kiến thức nửa vời kia mới được.
Địch Thanh bước theo đường cũ ra ngoài, khi đến cửa nhỏ thì tần ngần một lúc rồi mới đẩy cửa rời đi. Vừa ra khỏi cửa nhỏ thì chợt nghe sau lưng vang lên một tiếng “cạch”, chàng biết đây là tiếng đóng cửa của Nguyệt nhi. Chắc hẳn nàng chờ đã lâu, chàng rất cảm kích. Cô nương Nguyệt nhi này nói năng chua ngoa nhưng tâm địa thiện lương, người lạnh lùng như vậy mà lại thức đêm canh cửa cho bọn họ, sau này mình phải cảm ơn nàng mới được.
Về tới Quách phủ mà lòng Địch Thanh vẫn còn lâng lâng, nằm trên giường giống như đang ở trên mây, tuy vẫn còn nhiều điều băn khoăn nhưng nó đã bị niềm hạnh phúc lấn át đi, thậm chí cừu hận trước đây cũng phai nhạt đi rất nhiều.
Chờ mãi cũng đến lúc bình minh, Địch Thanh rời giường thật sớm đi đến trước phòng Quách Quỳ, thấy nó vẫn ngon giấc nồng thì không tiện làm phiền nên quay qua tìm Quách Tuân. Giường của Quách Tuân gọn gàng ngăn nắp, dường như cả đêm qua không về. Địch Thanh dần dần phát hiện ra rằng, Quách Tuân hình như cũng có rất nhiều bí mật, nhưng chàng cũng không nghĩ thêm nhiều.
Quay lại trước cửa sổ phòng Quách Quỳ, Địch Thanh thấy nó vẫn ngủ say như heo.
“Cả ngày lười biếng như vậy, sao mà coi cho được? Mình làm nhị ca thì phải có trách nhiệm dẫn dắt nó trở nên hăng hái hơn.” Chàng thầm nghĩ
Thế là Địch Thanh làm bộ làm tịch múa quyền vù vù trước cửa sổ phòng Quách Quỳ. Tiếng la hét ỏm tỏi có thể so sánh với bà bán bánh hấp ở đầu phố. Mới la được mấy tiếng thì một quyển sách bay thẳng vào ót, Địch Thanh trở tay bắt lấy, nhìn thấy là cuốn « Kinh Thi » thì mừng thầm.
Quách Quỳ la lớn:
– Mới sáng sớm mà huynh làm gì kêu gào như quỷ thế? Muốn mượn sách phải không? Mới mua hôm qua đó, cầm lấy mà xem đi.
Nó vốn tưởng rằng Địch Thanh sẽ phát cáu, ai dè Địch Thanh lấy sách nhét vào trong ngực rồi mỉm cười nói:
– Tiểu Quỳ, đệ hiểu người còn giỏi hơn so với Bá Nha Tử Kỳ(3) đó.
Chàng nói xong vội vàng rời đi, cũng quên luôn trách nhiệm nhắc nhở Quách Quỳ luyện võ.
Quách Quỳ rất ngạc nhiên, lẩm bẩm:
– Địch nhị ca này, không biết đang làm cái trò quỷ gì nữa, lẽ nào trong sách cũng có Hoàng Kim Ốc(4) thật sao? Nếu không thì sao bị chọi sách vào đầu mà còn cao hứng như thể nhặt được vàng?
Ngáp một cái thật dài, cơn buồn ngủ lại ập đến, không muốn nghĩ thêm nữa, nó nằm xuống ngủ tiếp.
Địch Thanh vừa ra khỏi Quách phủ thì lập tức lấy « Kinh Thi » ra xem, lật đến chỗ có bốn chữ “thanh thanh tử khâm” thì dừng lại, phát hiện ra bài thơ này có tên là « Tử Khâm »(5), trừ mấy câu mà Vũ Thường đã đọc ra, phần sau còn có bốn câu là “thanh thanh tử bội, du du ngã tư. Túng ngã bất vãng, tử ninh bất lai?(*)”
(*) Xanh xanh ngọc bội, xao xuyến hồn tôi. Dẫu mình không gặp, sao chẳng đến chơi?
Những lời này cho dù là người mù cũng hiểu, ý là ‘nếu muội không đến, huynh không thể tự mình đến sao?’ Địch Thanh thầm cao hứng vì khả năng học một biết mười của mình, nhưng vì trong sách thiếu đi phần chú thích của Quách Quỳ như những chỗ trước đây, nên chàng vẫn còn có đôi chỗ không hiểu lắm. Địch Thanh đọc tiếp, thấy phần sau cùng có bốn câu là “Thiêu hề đạt hề, tại thành khuyết hề. Nhất nhật bất kiến, như tam nguyệt hề.(*)” thì nhu tình dào dạt trong lòng.
(*) Chờ a đợi a, trước cổng thành a. Một ngày không gặp, như ba tháng à.
“Một ngày không gặp, như ba tháng à.” Làm sao mà Địch Thanh không rõ hàm nghĩa trong đó chứ? Vũ Thường nhớ mình đến thế sao? Vũ Thường nói những lời này, có phải muốn nhắc nhở mình đừng lỡ hẹn nữa, nhanh đến gặp nàng?
Địch Thanh đem quyển sách và nỗi tương tư nhét vào lồng ngực, chân giẫm tuyết đọng, bước thấp bước cao đi đến quân doanh.
Vừa vào doanh trướng, Lý Vũ Hanh liền chạy ra đón, vẻ mặt đầy vui mừng:
– Địch Thanh, Trương Ngọc đã tỉnh!
Địch Thanh vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, vội đến trước giường Trương Ngọc. Trương Ngọc đang nhìn chàng, mặc dù hai mắt vô thần, nhưng đã thoát khỏi cơn mê.
Ở bên cạnh, Lý Vũ Hanh nói:
– Đêm qua Vương thần y theo lời mời của Quách chỉ huy vội vàng tới đây chữa bệnh cho Trương Ngọc, sáng nay vừa mới rời đi.
Địch Thanh cảm thấy xấu hổ, Quách đại ca thì chu đáo cẩn thận, còn chàng thì lại lỗ mãng chỉ nghĩ đến báo thù, làm sao có thể quên mời Vương thần y được nhỉ? Chàng nắm chặt tay Trương Ngọc nói:
– Trương Ngọc, ngươi yên tâm nghỉ ngơi đi…
Trương Ngọc thấp giọng nói:
– Địch Thanh, ta có việc muốn nói riêng với ngươi.
Lý Vũ Hanh khẽ biến sắc, biết Trương Ngọc vẫn chưa chịu tha thứ cho gã. Gã thở dài rồi chậm rãi lui ra ngoài.
Địch Thanh ngồi ở đầu giường, khó hiểu hỏi:
– Ngươi muốn nói gì?
– Ta e rằng chuyện này là do Hạ Tùy giở trò.
Trương Ngọc lo lắng nói:
– Khi lần đầu hắn tìm ngươi, ánh mắt hắn nhìn ngươi có vẻ bất thường…
Địch Thanh ngắt lời:
– Trương Ngọc, ta biết rồi. Ngươi cứ yên tâm dưỡng thương đi, không nên nghĩ nhiều.
Trương Ngọc nhìn Địch Thanh thật lâu, không hiểu hỏi:
– Ngươi cũng biết rồi sao?
Địch Thanh nghiêm nghị đáp:
– Ta tuy biết, song trước mắt cũng không làm được gì.
Trương Ngọc thở phào nhẹ nhõm, lẩm bẩm nói:
– Vậy ta yên tâm.
Hắn nhắm mắt lại, không nói thêm lời nào.
Địch Thanh ngồi đây một lát, thấy Trương Ngọc đã ngủ say.
Chàng thầm nghĩ: “Thì ra Trương Ngọc đã sớm nhìn ra vẻ bất thường của Hạ Tùy, hắn lo lắng mình không nắm rõ tình hình, do đó mới nhắc nhở mình đừng đi tìm Hạ Tùy báo thù. Trước đây, hắn suốt ngày nói cười toe toét, không ngờ lại trọng nghĩa như vậy.”
Hoạn nạn mới thấy chân tình, Địch Thanh cảm khái bước ra doanh trướng, Lý Vũ Hanh bước tới hỏi:
– Địch Thanh à, Trương Ngọc còn giận ta sao?
Địch Thanh vỗ vỗ vai Lý Vũ Hanh nói:
– Hắn trọng thương chưa lành, ngươi phải chăm sóc hắn nhiều hơn.
Lý Vũ Hanh gật đầu, vẻ mặt ảm đạm. Có đôi khi, chỉ một lựa chọn thôi cũng có thể tạo nên áy náy cả đời.
Địch Thanh đầy tâm sự, lững thững mà đi, trong lúc không tự chủ lại đi đến ngõ Mạch Kiết. Lúc đi ngang qua chùa Đại Tướng Quốc, chàng nhìn thấy cảnh buôn bán tấp nập, trời tuy lạnh nhưng dân chúng vẫn hào hứng giao dịch, nơi nơi rộn ràng nhộn nhịp. Bất kể triều đình, biên cương ra sao, quang cảnh buôn bán nơi đây lúc nào cũng yên bình.
“Tối qua, Vũ Thường vẫn còn mệt, hôm nay mình không nên đến sớm, để cho nàng nghỉ ngơi nhiều thêm cũng tốt”. Chàng nghĩ thế nên quyết định đi dạo trước chùa Đại Tướng Quốc, lúc mới quen Vũ Thường cũng ở quanh đây, nhưng thật không ngờ bây giờ lại thân quen đến vậy? Việc đời thực khó dự liệu.
Chàng đang chìm trong suy tư thì có người gọi:
– Quan nhân, mua chút đồ trang sức đi.
Địch Thanh xoay người nhìn lại, mới phát hiện mình đã đi đến trước quầy ngọc.
Trước chùa Đại Tướng Quốc có đủ loại hình mua bán, muôn hình vạn trạng, cái gì cũng có. Từ các loại chim mèo chó bình thường đến chim quý thú hiếm, từ hoa quả khô mứt đến lụa là châu ngọc, rực rỡ muôn màu, cần cái gì có cái đó. Đại Tống yên bình mấy chục năm, nghệ nhân và thương nhân khắp cả nước đều đến kinh thành, khiến cho phủ Khai Phong phồn hoa chưa từng thấy.
Trước đây do tâm tình buồn chán, Địch Thanh gặp cảnh náo nhiệt đều sẽ tránh sang một bên, đi tìm rượu giải sầu. Mặc dù lần này bị hãm hại, nhưng được Vũ Thường an ủi nên trong lòng cảm thấy vui vẻ. Khi nhìn cảnh vật nơi đây thì tâm tình tự nhiên cũng khác với trước kia. Thấy quầy ngọc này có treo đầy mỹ ngọc, nổi bật rực rỡ trong cảnh tuyết trắng xóa này, chàng quyết định ngồi xuống xem.
Người bán ngọc là người đàn ông trung niên khoảng bốn mươi tuổi, dáng vẻ khôn khéo. Người này thấy Địch Thanh có hứng thú liền cầm lấy một miếng ngọc đưa tới giới thiệu:
– Khách quan, ngài xem miếng ngọc này được chế tác tinh xảo biết bao, trông như Phật thủ(đầu Phật), nó được đào lên từ trên núi Côn Luân rồi đem xuống đây đó.
Địch Thanh nhìn thấy ngọc Phật thủ thì khẽ run. “Đời mình không tín Phật, nhưng lại gắn bó khăng khít với Phật, bất kể chuyện tốt hay chuyện xấu gì cũng có dính dáng tới Phật Di Lặc. Chàng lại nhìn sang bên, thấy đồ ngọc muôn hình vạn trạng toát ra thần vận đặc trưng, trên bề mặt chạm đủ các kiểu hoa văn; cái thì như thương tùng bách thúy(tùng bách xanh um), cái thì như mãnh hổ hạ sơn, cái thì như mực đậm vẩy ra, có cái lại như trúc non xanh mượt, tất cả đều đẹp nhưng chàng không thích.
Người đàn ông bán ngọc không ngại cực khổ giới thiệu tiếp:
– Khách quan, nếu ngài không thích miếng này cũng không sao, ngài xem ở đây còn có rất nhiều loại nè, đây là Lam điền ngọc, đây là Kỳ liên ngọc, lấy màu lục làm chủ đạo, loại lục nào cũng có hết, lục đậm, lục nhạt, lục biếc, lục sẫm… Ngài xem màu sắc này, tinh khiết làm sao…
Địch Thanh không để ý đến lời giới thiệu của người đàn ông mà ánh mắt dừng lại trên một miếng lục ngọc. Dù lục ngọc này không phải là Kỳ liên ngọc, nhưng cũng có màu lục sẫm, sắc thái nhu hòa, càng độc đáo đó là miếng ngọc này có một khối vàng nhạt nằm ẩn trong đó. Địch Thanh cầm lên xem, cảm thấy miếng ngọc này như một chậu hoa, trong lá xanh lộ ra hoa vàng. Địch Thanh vừa nhìn đã thích, liền hỏi:
– Miếng ngọc này bán nhiêu vậy?
Người đàn ông vội đáp:
– Khách quan quả nhiên có nhãn lực tốt, đây là Nam dương ngọc chính tông, phẩm chất rất tốt, ngài nhìn mặt này nè… đẹp không thể tả.
Đây là một miếng tạp ngọc, mặt ngoài còn có vết ngấn rất nhỏ nhưng nếu không chú ý kỹ thì sẽ nhìn không ra. Người đàn ông thầm cười Địch Thanh không có nhãn lực, nhưng nếu khách hàng đã chọn thì không có lý do gì mà không lấy giá cắt cổ:
– Nếu như người khác hỏi giá, miếng ngọc này ít nhất cũng phải mười lượng bạc. Nhưng với khách quan, ngài trả cho tôi tám lượng là được rồi?
– Tám lượng bạc?
Địch Thanh giật mình, không ngờ rằng một miếng ngọc lại mắc đến thế. Chàng là Thập tướng, lương một tháng cũng chỉ có ba lượng bạc mà thôi. Địch Thanh xưa nay phóng khoáng rộng rãi, khoảng thời gian trước vất vả lắm mới dành dụm được một ít, nhưng đều đã gửi về quê cho đại ca. Trước mắt, chàng không còn dư giả cho lắm, làm sao có nhiều bạc như vậy để mua ngọc chớ?
Người đàn ông thấy Địch Thanh có vẻ bối rối, vội nói:
– Tất nhiên giá tiền có thể thương lượng. Bảy lượng được không?
Địch Thanh lắc đầu nói:
– Trả cho ông một lượng thì được.
Người đàn ông kia khó xử nói:
– Một lượng bạc ít quá, quan nhân thêm chút nữa nha. Như vậy đi, hai lượng bạc chắc giá, không mặc cả nữa, nếu chỉ có một lượng thì ngay cả vốn cũng không đủ.
Khó lắm mới tìm được miếng ngọc mình thích, nên Địch Thanh không trả giá nữa, sảng khoái nói:
– Được.
Tiếp đó chàng thò tay vào trong ngực tìm kiếm, nhưng moi hết tiền ra đếm mới phát hiện cộng lại ngay cả một lượng cũng không đủ.
Người đàn ông lập tức cảm thấy khó chịu, chồm tới lấy ngọc lại, nói lầm bầm:
– Không có tiền thì đến đây làm gì?
Nghe thấy lời xấc láo của gã, chàng trừng mắt lên định mắng, nhưng nghĩ lại, tranh đấu với loại người này thì có ích gì chứ? Hơn nữa, lỗi là ở phần mình, trong người còn bao nhiêu bạc cũng không biết, trách không được Vũ Thường nói mình hồ đồ.
Không còn cách nào khác, Địch Thanh đành đứng dậy chuẩn bị rời đi. Người đàn ông nói mãi mà không thu được gì, nên bực bội mắng thêm một câu:
– Vừa nhìn đã biết nghèo kiết xác!
Lời còn chưa dứt, từ bên cạnh có một bàn tay mập mạp trắng trẻo chìa tới, trên tay cầm một đĩnh bạc lớn hỏi:
– Bằng này đủ mua ngọc rồi chứ?
——-> Thảo luận Góp ý