– Thưa đức Hồng y, về phần tôi, một lần nữa tôi xin khẩn thiết cam đoan với ngài rằng nếu ngài không đồng ý thì an ninh của thành phố này sẽ bị đe dọa.
Trong khi nói chuyện với đấng bề trên của giáo hội, viên đại tá giám binh cố giữ giọng kính cẩn, nhưng lời nói của hắn ta đã rõ ràng đượm vẻ bực dọc. Hắn cáu kỉnh hơn lúc nào hết vì vợ hắn đã làm cho hắn nợ nần quá nhiều. Ba tuần nay hắn đã phải chịu đựng nhiều cơn thử thách tàn nhẫn. Tinh thần nhân dân thành phố rất chán nản, không khí bất mãn ngày càng chín muồi và lan rộng một cách đáng sợ. Khắp nơi chỗ nào cũng có hoạt động bí mật, chỗ nào cũng có cất giấu vũ khí. Đồn Bơ-ri-xi-ghê-la thì quá yếu, và lòng trung thành của quân lính thì lại rất đáng ngờ. Đã thế lại còn thêm một ông Hồng y giáo chủ nữa. Có lần nói chuyện với phó giám binh, hắn đã gọi Hồng y giáo chủ là “con lừa bướng bỉnh”, hắn đã phải thất vọng vì ông ta. Nhưng nay lại nẩy ra thêm một gã Ruồi Trau. Hắn cho Ruồi Trâu là hình bóng của ma quỷ.
“Tên quỷ thọt Tây Ban Nha” ấy đã bắn bị thương đứa cháu yêu và tên mật thám đắc lực nhất của viên đại tá Phe-ra-ri. Đến nay thì Ruồi Trâu lại mê hoặc tất cả lính canh, hăm dọa tất cả các sĩ quan thẩm vấn và “biến nhà tù thành một chuồng gấu trong vườn bách thú”. Ruồi trâu bị nhốt trong pháo đài đã ba tuần nay mà các nhà đương cục Bơ-ri-xi-ghê-la vẫn chưa biết nên xử trí vụ ấy như thế nào. Thẩm vấn hết đợt này đến đợt khác. Phỉnh phờ, dọa dẫm và mọi thủ đoạn khác đều đã thi thố cả rồi. Nhưng từ hôm bắt được Ruồi Trâu đến nay vẫn không nhích được bước nào. Bây giờ người ta đã bắt đầu hối hận rằng giá tống cổ Ruồi Trâu đi Ra-ve-na ngay từ đầu thì nhẹ nhõm biết bao nhiêu. Nhưng dù sao thì cũng đã muộn rồi. Sau khi nghe Phe-ra-ri báo cáo, khâm sứ đặc phái của Giáo Hoàng đã xét yêu cầu của Phe-ra-ri mà ban cho hắn đặc quyền tự tay xét xử vụ án này. Vì vậy giờ đây nếu hắn rút lui thì có khác nào chịu nhục mà thừa nhận rằng đối thủ lợi hại hơn hắn ta nhiều.
Như Giê-ma và Mi-ke-lê đã đoán trước, viên đại tá đòi lập tòa án binh bằng được để tránh khỏi mọi lôi thôi rắc rối. Việc Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li khăng khăng từ chối kế hoạch ấy là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy chén nước nhẫn nại của Phe-ra-ri.
Hắn nói:
– Thưa đức Hồng y, nếu ngài biết tôi và những người giúp việc tôi đã chịu khổ sở biết bao nhiêu vì tên quỷ sứ này, thì chắc ngài sẽ có một thái độ khác. Tôi cũng biết rằng đức Hồng y không tán thành việc làm trái thủ tục tố tụng, và tôi rất quý trọng lương tâm của ngài. Nhưng trong trường hợp đặc biệt này thì cần phải có những biện pháp đặc biệt.
Mông-ta-ne-li bẻ lại:
– Không thể lấy trường hợp đặc biệt nào để bào chữa cho bất công được. Dùng tòa án binh bí mật để xử thường dân là không công bằng và không hợp pháp..
– Thưa đức Hồng y, chúng ta buộc lòng phải làm như thế! Kẻ bị bắt đã can dự rõ rệt vào nhiều trọng tội. Y đã từng tham gia các cuộc nổi loạn, và nếu y không trốn đi Tô-scan thì toàn án của ủy ban quân sự do đức ông Spi-nô-la làm chánh án đã kết án y tử hình hoặc tù chung thân rồi. Từ đó đến nay Ri-va-rét vẫn liên tục tổ chức hết âm mưu này đến âm mưu khác. Mọi người đều biết rằng y là một tay lợi hại của một trong những hội kín phá hoại ghê gớm nhất. Có đầy đủ chứng cớ để tình nghi rằng chính y đã gây phiến loạn hoặc đã đồng ý giết ít nhất là ba nhân viên cảnh sát bí mật. Y bị bắt trong khi bí mật chở vụ khí vào địa phận Giáo hoàng. Không những thế, y lại còn vũ trang kháng cự lại nhà đương cục và làm bị thương nặng hai viên chức trong khi họ thừa hành nhiệm vụ. Bây giờ y là một mối đe dạ thường xuyên cho an ninh và trật tự của thành phố. Đó là những lý do đầy đủ để đưa y ra tòa án binh.
Mông-ta-ne-li quả quyết:
– Bất kỳ ai dù phạm tội nặng đến đâu chăng nữa cũng phải được xét xử theo pháp luật
– Thưa đức Hồng y, nếu cứ theo thủ tục thông thường thì mất rất nhiều thời giờ mà hiện nay thì mỗi phút đáng giá ngàn vàng. Tôi không ngớt lo sợ rằng y có thể trốn thoát.
– Nếu có nguy cơ đó thì nhiệm vụ của ông đại tá là phải canh gác cẩn thận hơn.
– Thưa đức Hồng y, tôi đã làm hết sức, nhưng dù sao tôi cũng vẫn phải trông vào đội lính gác nhà tù. Song toàn thể lính gác đã bị Ruồi Trâu mê hoặc. Trong ba tuần qua, tôi đã thay lính gác cả thảy bốn lần, luôn luôn bắt phạt họ nhưng vẫn không ăn thua gì. họ tiếp tục đưa thư của y ra ngoài và mang tin vào cho y mà tôi vẫn không làm gì nổi. Những tên lính chó chết ấy mê y như mê đàn bà vậy.
– Thật lạ. Có lẽ y không phải người thường.
– Y là một tên quỷ sứ tinh ranh đặc biệt. Xin đức Hồng y tha lỗi, thật quá Ri-va-rét có thể làm cho các đức thánh cũng không sao chịu nổi. Chắc ngài không tin, nhưng chính tôi đã thân hành đứng ra thẩm vấn y, tôi biết. Những sĩ quan chị trách nhiệm thẩm vấn đã không sao chịu nổi, nên tôi phải làm thay…
– Thế nghĩa là thế nào?
– Thưa đức Hồng y, điều ấy khó nói lắm, nhưng nếu ngài xem qua thái độ của Ri-va-rét trong khi thẩm vấn thì tự khắc hiểu ngay. Ngài có thể thấy rằng trong lúc đó sĩ quan tẩm vấn hóa ra tội phạm còn y thì lại trở thành quan tòa.
– Y làm thế nào mà ghê gớm thế được? Y không trả lời câu hỏi của các ông hay sao? Ngoài im lặng ra, y còn thứ vũ khí gì khác nữa đâu?
– Ri-va-rét còn có một miệng lưỡi sắc bén như dao cạo nữa. Thưa đức Hồng y, chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, có ai là người không phạm phải sai lầm. Và dĩ nhiên không ai muốn người khác đem tội của mình ra bêu riếu ầm ĩ khắp nơi. Đó là bản tính của con người. Vậy mà nay lại có kẻ bới móc những tội lỗi cách đây hàng hai chục năm ra văng vào mặt mình.
– Vậy Ri-va-rét đã tố giác chuyện gì bí mật của viên sĩ quan thẩm vấn có phải không?
– Vâng… thưa đức Hồng y… hồi viên sĩ quan đáng thương ấy còn là sĩ quan kỵ binh hắn đã mắc nợ quá nhiều và có tạm vay một món tiền nhỏ trong quỹ quân đội…
– Nghĩa là hắn đã ăn cắp tiền công chứ gì?
– Thưa đức Hồng y, lẽ dĩ nhiên hắn làm thế là xấu, nhưng bạn bè đã góp ngay tiền cho hắn trang trải và chuyện đó đã được ỉm đi. Hắn là con nhà tử tế và từ đó đến nay giữ được hạnh kiểm tốt. Thế mà tôi không hiểu Ri-va-rét đào bới đâu ra mớ chuyện cũ rích ấy. Ngay hôm hỏi cung đầu tiên, y đã nói toạc chuyện đó ngay trước mặt viên sĩ quan và những người dưới quyền ông ta. Và y nói với một giọng hiền lành như đọc kinh vậy. Lẽ dĩ nhiên đến nay chuyện đó đã được cả tỉnh bàn tán xôn xao. Thưa đức Hồng y, nếu ngà idự một buổi hỏi cung thì chắc ngài sẽ rõ ngay… Tất nhiên chúng tôi sẽ giấu không để cho Ri-va-rét biêt và ngài sẽ có thể ngồi nghe kín đáo…
Mông-ta-ne-li quay lại nhìn viên đại tá với cặp mắt khác thường.
– Tôi là sứ thần của giáo hội chứ không phải là mật thám. Nghe trộm không phải là nhiệm vụ của tôi.
– Tôi… tôi không hề có ý làm phật lòng đức Hồng y…
– Tôi thiết tưởng không cần đôi co làm gì nữa vô ích. Ông đưa tên đó lên để tôi nói chuyện.
– Thưa đức Hồng y, xin ngài cho phép tôi từ chối điều này. Ri-va-rét là kẻ không sao còn tu tỉnh được. Lần này phải vượt qua pháp luật mà trừ khử hắn, đừng để hắn gây ra tai họa mới, như thế là chắc chắn và phải lẽ hơn cả. Đức Hồng y đã nói thì tôi cũng không dám van nài, nhưng xin ngài hiểu cho rằng tôi phải chịu trách nhiệm trước đức khâm sứ đặc phái của đức Giáo hoàng về an ninh của thành phố…
Mông-ta-ne-li ngắt lời:
– Còn tôi, tôi chịu trách nhiệm trước Thiên chúa và đức Thánh cha để cho trong địa phận của tôi không ai được làm điều ám muội. Nếu ông đại tá vẫn không chịu thì tôi xin phép ông dùng tới đặc quyền Hồng y giáo chủ của tôi. Trong hòa bình tôi không thể đồng ý cho lập tòa án binh bí mật giữa thành phố này. Mười giờ sáng mai một mình tôi sẽ tiếp kẻ bị bắt ở đây, không cần người làm chứng.
Viên đại tá gượng gạo trả lời một cách kính cẩn:
– Xin tùy đức Hồng y
Rồi hắn ta vừa bước ra vừa lầu nhầu:
– Thật là bướng bỉnh chẳng kém gì nhau.
Hắn giữ kín việc Ruồi Trâu sắp gặp Hồng y giáo chủ cho mãi tới phút phải tháo cùm và dẫn Ruồi Trâu đến trước lâu đài.
Hắn nói với đứa cháu bị thương:
– Con lừa Mông-ta-ne-li bây giờ cũng ti toe bàn chuyện pháp luật! để cho bạn lính ăn cánh với Ri-va-rét và đồ đảng của y đánh tháo cho y dọc đường rồi mới trắng mắt ra.
Mông-ta-ne-li đang ngồi cạnh bàn chất đầy giấy má. Khi Ruồi Trâu bị bọn lính áp giải vào phòng, anh sực nhớ tới ngày hè oi ả năm xưa, nhớ tới những bài giảng đạo mà anh đã lần giở từng tập trong căn phòng giống hệt căn phòng này. Lúc ấy cửa chớp cũng khép nửa chừng như bây giờ và ngoài phố tiếng người bán hoa quả cũng rao vang:
– Dâu tây, dâu tây đây!
Ruồi Trâu giận dữ lắc đầu, hất ngược mớ tóc xõa xuống mắt và cố mỉm cười.
Mông-ta-ne-li ngẩng đầu lên nhìn anh.
Ông ta nói với đội lính:
– Các con hãy ra đợi ở phòng ngoài.
Viên đội khẽ lắp bắp:
– Xin đức Hồng y tha lỗi, quan giám binh nói tên này rất nguy hiểm và bảo…
Cặp mắt Mông-ta-ne-li nẩy lửa, nhưng giọng ông vẫn ôn tồn nhắc lại:
– Các con ra đợi ở phòng ngoài.
Viên đội sợ hãi cúi chào, mồm lúng búng xin lỗi rồi cùng với đội lính bước ra khỏi phòng.
Khi cửa đã đóng lại. Mông-ta-ne-li cất tiếng:
– Mời ngồi!
Ruồi Trâu lặng lẽ ngồi xuống. Sau một phút im lặng, Mông-ta-ne-li mới giáo đầu:
– Ông Ri-va-rét, tôi muốn hỏi ông mấy câu, nếu ông trả lời thì tôi rất cảm ơn.
Ruồi Trâu mỉm cười:
– Công việc chính… chính của tôi bây giờ là nghe… nghe người ta hỏi cung.
– Nghe và không trả lời chứ gì? Phải, tôi có nghe nói, nhưngnhững câu hỏi của các sĩ quan hỏi cung lại khác. Họ có nhiệm vụ lợi dụng những câu trả lời của ông để kết tội ông…
– Thế còn… những câu hỏi của ngài thì sao?
Giọng nói của Ruồi Trâu lại còn châm chọc hơn cả lời nói của anh. Mông-ta-ne-li hiểu ngay điều đó, nhưng ông ta vẫn giữ vẻ nghiêm trang và niềm nở.
– Dù ông có trả lời hay không, những câu hỏi của tôi vẫn là giữa hai chúng ta mà thôi. Nếu những câu hỏi ấy dính dáng tới những bí mật chính trị của ông thì lẽ dĩ nhiên xin ông chớ trả lời. Mặc dù chúng ta chưa hề quen nhau nhưng mong rằng ông cho phép tôi được tiếp chuyện ông.
– Thưa… thưa đức Hồng y, tôi hoàn toàn theo ý ngài.
Dáng nghiêng mình và vẻ mặt đi đôi với những lời nói ấy của Ruồi Trâu làm cho cả những kẻ trắng trợn nhất cũng đành phải thôi, không muốn tiếp chuyện với anh nữa. Nhưng Mông-ta-ne-li vẫn hỏi:
– Người ta buộc ông vào tội chuyên chở súng ống vào địa phận này. Vậy ông dùng súng ống để làm gì?
– Để… để giết chuộc.
– Câu trả lời của ông thật ghê gớm. Vậy ông coi những người đồng bào không cùng một tư tưởng với ông là chuột ư?
– Một… một số người trong bọn họ.
Mông-ta-ne-li ngả người vào ghế và yên lặng nhìn Ruồi Trâu trong mấy phút liền.
Bỗng ông ta hỏi:
– Tay ông làm sao thế kia?
– Những vết răng… răng của những con chuột ấy.
– Xin lỗi ông, tôi hỏi về những vết thương còn mới ở bàn tay này kia.
Ruồi Trâu giơ cánh tay nhỏ nhắn, mềm mại và đầy thương tật ấy lên. Cổ tay sưng vù, tím bầm lại.
– Ồ, có gì đáng kể đâu! Đội ơn đức Hồng y, hôm tôi bị bắt – Ruồi Trâu khẽ nghiêng mình – tôi bị một tên lính chém vào tay.
Mông-ta-ne-li cầm lấy cánh tay, chăm chú nhìn.
– Từ hôm ấy đến nay đã ba tuần, tại sao vẫn cứ thế này?
– Có lẽ tại mấy… mấy chiếc cùm quý hóa đấy thôi.
Mông-ta-ne-li cau mày:
– Họ bắt ông đeo cùm vào vết thương mới ư?
– Lẽ… lẽ dĩ nhiên, thưa ngài. Vết thương mới chính là chỗ để đeo cùm. Đeo vào vết thương cũ thì phỏng có ích gì. Vết thương cũ chỉ nhức nhối thôi chứ không thể cháy lên như lửa đốt.
Mông-ta-ne-li lại chăm chú nhìn Ruồi Trâu với đôi mắt dò hỏi. Rồi ông đứng dậy, lấy trong ô kéo ra bộ đồ băng bó.
– Ông đưa tay đây cho tôi.
Ruồi Trâu nghe theo, mặt anh lạnh như thép nguội. Mông-ta-ne-li rửa sạch vết thương, băng bó lại cẩn thận. Có lẽ ông ta đã quen với việc này.
– Tôi sẽ nói chuyện với viên cai ngục về việc đeo cùm. Bây giờ tôi muốn hỏi ông một câu khác: sau đây, ông định làm gì nữa?
– Thưa ngài…, câu trả… trả lời của tôi đơn giản lắm. Tôi sẽ vượt ngục nếu có thể. Không vượt ngục được thì chỉ còn có chết mà thôi.
– Tại sao lại chết?
– Vì nếu viên giám binh không tìm được cách xử bắn tôi thì tất nhiên tôi cũng bị kết án khổ sai, mà như thế cũng chẳng khác gì xử tử vì sức tôi không chịu nổi tù khổ sai.
Mông-ta-ne-li tì tay lên bàn, nghĩ ngợi. Ruồi Trâu cũng ngồi im, anh tựa người vào ghế, mắt lim dim tận hưởng những phút khoan khoái thoát khỏi gông cùm.
Mông-ta-ne-li lại hỏi tiếp:
– Nếu trốn thoát được thì ông sẽ làm gì cho đời ông?
– Tôi đã thưa với ngài rồi, tôi sẽ lại giết chuột.
– Giết chuột… Như vậy là nếu tôi có quyền giải thoát cho ông thì ông sẽ lợi dụng tự do đó để xúc tiến, chứ không phải để ngăn ngừa bạo lực và đổ máu?
Ruồi Trâu ngước nhìn cây thánh giá treo trên tường:
– “Không phải là sự bằng an mà là lưỡi gươm” (1). Đấy ngài xem, tôi vẫn noi theo gương sáng đấy chứ. Nhưng phải nói rằng tôi ưa dùng súng ngắn hơn”.
Mông-ta-ne-li vẫn hết sức bình tĩnh:
– Ông Ri-va-rét, tôi không hề xúc phạm tới ông và cũng không hề tỏ ý coi thường những tư tưởng cùng những bạn bè của ông. Vậy tôi có thể nào mong ông cũng đối xử lại với tôi tế nhị như thế không? Hay là ông muốn bắt tôi phải nghĩ rằng hễ người vô thần thì không bao giờ biết lễ phép là gì cả?
– À, ra tôi… tôi quên rằng đức Hồng y cho lễ phép là một trong những đức tính cao quý nhất của đạo Thiên chúa. Tôi vẫn còn nhớ bài giảng của đức cha ở Phơ-lô-răng-xơ, khi đức cha nói tới cuộc tranh luận giữa tôi và người bảo vệ nặc danh của đức cha!
– Chính tôi đang muốn hỏi ông chuyện ấy. Xin ông cho biết tại sao ông căm thù tôi đến thế? Nếu ông chỉ cho tôi là một cái bia tốt để châm chọc thì đó là chuyện khác. Bây giờ chúng ta không bàn cãi về phương pháp đấu tranh chính trị của ông làm gì. Nhưng qua các bài văn châm biếm của ông thì tôi thấy hình như ông có thù riêng gì với tôi. Tôi muốn hiểu tại sao ông lại có thái độ như thế đối với tôi. Tôi đã từng làm điều gì có hại đến ông chưa?
Hừ, chưa từng làm gì có hại cho anh! Ruồi Trâu đưa cánh tay quấn đầy băng lên cổ. Anh cười khẩu nói:
– Xin mời đức Hồng y hãy nhớ lại Sếch-xpia. Hẳn ngài còn nhớ trong một vở kịch của ông ta có một nhân vật rất ghét mèo, một giống vật nuôi (2) hiền lành và rất có ích. Ấy, tôi cũng thế đấy, tôi rất ghét giáo sĩ. Cứ trông thấy bộ quần áo cố đạo là tôi cảm thấy nhức nhối đến tận… chân răng. (3)
Mông-ta-ne-li thản nhiên khoát tay:
– Nếu vấn đề chỉ là ở chỗ đó thì… Thôi được, xin ông cứ việc đả kích. Nhưng ông xuyên tạc sự thật là gì! Khi trả lời bài giảng của tôi ông có nói rằng tôi biết kẻ bảo vệ nặc danh của tôi là ai. Nhưng điều đó không đúng sự thật! Tôi không dám kết tội ông cố tình nói dối, nhưng chắc là ông đã lầm. Cho tới ngày nay tôi cũng không hề biết người đó là ai.
Ruồi trâu nghiêng đầu chăm chú nhìn Hồng y giáo chủ. Rồi anh ngả người vào ghế cười ha hả :
– Ôi, s-s-sancta simplicitas! (tiếng Latinh : thật là thanh sạch như các đấng thánh!) Đức Hồng y hiền lành chẳng kém gì người dân Ac-ca-đi! Có thật ngài không đoán được là ai không? Có thật ngài không trông thấy rằng tuy hai vết móng nhưng chỉ là một vó ngựa như bàn chân của quỷ sứ mà thôi hay sao ?
Mông-ta-ne-li đứng dậy :
– Ông Ri-va-ret, thế nghĩa là một mình ông đóng cả hai vai trong cuộc tranh luận ấy có phải không ?
Đôi mắt to và xanh biếc của Ruồi trâu nhìn xoáy vào mắt Hông y giáo chủ.
– Vâng, làm như thế là rất xấu. Nhưng rôi đã được một mẻ cười vỡ bụng ! Là vì chuyện gì ngài cũng nuốt hết, nuốt như nuốt ruột sò hến ý ấy ! Tuy vậy tôi cũng đồng ý với ngài rằng thái độ ấy thật là xấu !
Mông-ta-ne-li cười mím môi, ngồi xuống ghê. Ngay từ lúc đầu đã biết Ruồi trâu muốn chọc tức mình, Mông-ta-ne-li đã cố sức trấn tĩnh. Nhưng bây giờ thì ông ta mới hiểu vì sao viên đại tá lại giận dữ đến thế. Một con người mà ba tuần lễ liền n gày nào cũng hỏi cung Ruồi trâu hàng hai tiếng đồng hồ thì dù có nói lỡ lời điều gì cũng có thể tha thứ được.
Mông-ta-ne-li vẫn bình tĩnh nói :
– Thôi, ta gác chuyện ấy lại. Sở dĩ tôi muốn gặp ông chẳng qua là vì lí do sau đây : tôi là Hồng y giáo chủ, tôi có quyền dự bàn về số mạng của ông. Nhưng tôi chỉ dùng đặc quyền của tôi để giúp ông khi nào người ta dùng những biện pháp quá nặng nề với ông mà thôi. Vì thế tôi muốn hỏi xem ông có điều gì phàn nàn không. Về chuyện gông cùm thì ông không lo việc ấy sẽ dàn xếp ổn thoả. Nhưng có lẽ ông còn muốn kêu ca điều gì khác nữa ? Ngoài ra, trước khi nói lên ý kiến của mình toi cũng cần xem ông là người như thế nào đã.
– Thưa đức Hồng y, tôi chẳng có gì để phàn nàn cả. À la guerre comme à la guerre (tiếng pháp : đã chiến đấu thì cho ra chiến đấu). Tôi không phải là một cậu học trò ngây thơ chờ đợi chính phủ xoa đầu mình về tội bí mật trở súng ống vào giáo phận này. Lẽ tất nhiên chính phủ sẽ trừng trị tôi thẳng tay. Còn như tôi là người như thế nào thì ngài đã có lần được nghe tôi xưng tội rồi tuy cách xưng hô của tôi có hơi ngông một tí. Như thế chưa đủ hay sao ? Hay là ngài muốn nghe.. Nghe lại một lần nữa ?
Mông-ta-ne-li cầm chiếc bút chì gõ gõ vào ngón tay và lạnh lùng nói :
– Tôi không hiểu ông muốn nói gì.
– Đức Hồng y hẳn chưa quên ngươi khách thập phương già Đi-ê-gô chứ ?
Ruồi trâu lấy giọng ông già ”
-“Lão là một kẻ không may có tội..”
Chiếc bút chì gãy làm đôi trong tay Mông-ta-ne-li. Ông ta vừa đứng dậy vừa nói :
– Ông quá quắt lắm rồi !
Ruồi trâu ngửa mặt cười, rồi anh nhìn theo Hồng y giáo chủ đang lặng lẽ đi bách bộ trong phòng.
Sau cùng Mông-ta-ne-li dừng bước trước mặt anh.
– Ông Ri-va-ret, ông đối xử với tôi còn tệ hơn cả một người do cha mẹ đẻ ra đối xử với kẻ thù hung ác nhất của mình. Ông bới móc nỗi đau khổ riêng của tôi để bông đùa và giễu cợt. Một lần nữa xin ông hãy cho tôi biết tôi đã từng làm điều gì hại đến ông chưa ? Nếu không thì tại sao ông lại nhẫn tâm đùa cợt như thế ?
Ruồi trâu ngả người trên đệm ghế, mỉm cười một cách bí ẩn, lạnh lùng và sâu cay.
– Thưa đức Hồng y, ngài quá lưu ..lưu ý tới những lời nói của tôi làm tôi không thể nhịn cười được và phần nào nhớ lại.. một gánh xiếc rong..
Đôi môi tái nhợt, Mông-ta-ne-li quay ngoắt đi và rung chuông. Đội lính áp giải bước vào, ông ta chỉ nói vắn tắt :
– Dẫn người tù này về.
Khi họ dẫn Ruồi trâu ra khỏi, Mông-ta-ne-li ngồi lặng trước bàn và vẫn run lên vì quá tức giận. Ông cầm lấy tập báo cáo của các linh mục trong giáo phận gửi tới nhưng rồi lại đẩy ngay ra, gục đầu xuống bàn hai tay bưng lấy mặt. Dường như Ruồi trâu vẫn còn là một bóng đen lởn vởn trong phòng ghê gớm đến nỗi làm cho Mông-ta-ne-li không dám buông tay ra khỏi mặt. Ông vẫn run lẩy bẩy và kinh hoàng, chỉ sợ phải nhìn thấy bóng ma đó mặc dầu nó đã không còn ở đó nữa. Mông-ta-ne-li biết chỉ tại thần kinh của mình rối loạn lên thôi nhưng ông vẫn hãi hùng trước bóng đen đó.. cánh tay đầy thương tích nụ cười cay độc trên môi cái nhìn sâu xa bí hiểm như biển cả…
Cố gắng lắm Mông-ta-ne-li mới xua đuổi được sự ám ảnh ghê rợn ấy và bắt tay vào việc. Suốt ngày không một phút nào rảnh nên không bị ký ức giày vò. Nhưng đêm khuya, khi bước vào phòng ngủ thì Mông-ta-ne-li lại bủn rủn, lặng người đi trên ngưỡng cửa. Nếu bóng ma ấy hiện ra trong giấc mộng thì biết làm sao đây ? Một lát sau, Mông-ta-ne-li trấn tĩnh lại và quỳ trước tượng Chịu nạn. Nhưng suốt đêm ấy, ông ta vẫn không sao chợp mắt được.
… …… …..
(1) “Không phải là sự bằng an mà là lưỡi gươm” – Câu nói của Chúa Giê-xu trong Kinh Thánh khi Chúa nói với các tông đồ: “Các người đừng tưởng rằng ta đến đây là để mang lại hoà bình trên trái đất. Ta đến đây không phải để mang lại sự bằng an, mà là mang lại lưỡi gươm”.
(2) trong bản dịch ghi là “gia súc” !!!
(3) Trích Sếch-xpia, “Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ”, màn 4,