Ý của người em cùng cha khác mẹ muốn cùng với Môngtaneli “dạo chơi Thuỵ Sĩ” chẳng làm cho Giêmxơ Bớctơn hài lòng chút nào. Nhưng ông cấm đoán sao được khi cuộc du chơi ấy là một cuộc du chơi vô hại mà bạn đường là một vị giáo sư thần học, vả lại còn để nghiên cứu về vạn vật học nữa. Áctơ sẽ không hiểu được những nguyên nhân sâu xa vì sao ông từ chối và có thể cho ông là độc đoán, cực đoan, cho ông là thành kiến về tôn giáo hoặc chủng tộc mà họ hàng nhà Bớctơn thì lại rất tự hào về đức tính rộng lượng tân tiến của mình. Mọi người trong họ đều là người gốc đạo Tin lành và những nhà Bảo thủ trung kiên từ hơn một thế kỉ nay, kể từ khi công ty thương thuyền “Bớctơn và con, Luân Đôn – Livoócnô” ra đời.
Nhưng họ hàng nhà Bớctơn chủ trương rằng người quý phái nước Anh phải có thái độ vô tư cả với những người theo đạo Thiên chúa, một giáo mẫu xinh đẹp của những đứa con nhỏ của mình, thì những đứa con lớn như Giêmxơ và Tômatxơ cũng chỉ đành nuốt giận mà tuân theo ý trời, vì thực ra họ không chịu nổi việc mẹ kế của họ chỉ xấp xỉ tuổi họ.
Sau khi người cha mất, và nhất là sau khi người con cả lấy vợ thì không khí nặng nề trong gia đình lại càng rắc rối thêm. Nhưng khi Gơlêđixơ còn sống thì cả hai người anh cũng cố hết sức bênh vực bà, chống lại miệng lưỡi độc ác của Giuli. Họ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của họ đối với Áctơ. Họ không thích cậu bé và cũng không giấu điều đó. Tất cả tình cảm của họ đối với em trai chỉ là đưa nhiều tiền cho em tiêu vặt và để cho em phóng khoáng tự do.
Trả lời bức thư của Áctơ là một ngân phiếu để chi tiền đi đường và dăm câu nói nhạt nhẽo, cho phép Áctơ muốn đi nghỉ hè đâu thì đi. Áctơ trích một nửa số tiền thừa để mua các sách vạn vật học và một số cặp bìa để đựng các vật mẫu, rồi chẳng bao lâu cùng các vị linh mục lên đường bắt đầu cuộc du lịch đầu tiên trên dãy núi Anpơ.
Từ lâu Áctơ chưa bao giờ thấy cha nhẹ nhõm như những ngày ấy. Sau câu chuyện làm cho Môngtaneli xúc động lần đầu tiên trong khu vườn hôm nọ, đến nay sự thăng bằng đã dần dần trở lại và bây giờ Môngtaneli đã bình tĩnh trước chuyện đó. Môngtaneli cho rằng Áctơ còn non dại lắm. Quyết định của Áctơ chắc chưa phải là đã dứt khoát. Cũng chưa đến nỗi muộn. Với những lời khuyên bảo nhẹ nhàng và những lí lẽ đúng mức còn có thể làm cho Áctơ quay lại, rời bỏ con đường mà Áctơ vừa mới bước chân vào.
Họ định ở Giơnevơ vài hôm. Nhưng khi Áctơ vừa trông thấy những đường phố chói nắng và những đám người du lịch đứng đầy trên các nẻo đường bụi bặm ven hồ, thì anh nhăn nhó ngay. Môngtaneli theo dõi thái độ của Áctơ với một nụ cười bình tĩnh.
– Sao? Con không thích nơi này ư, carino?
– Chính con cũng không biết nói thế nào nữa. Con vẫn chờ đợi được nhìn một khung cảnh khác hẳn như thế này, kể ra thì cảnh hồ rất đẹp và đồi núi cũng xinh tươi đấy… – Họ đứng trên đảo Rútxô (1), và Áctơ đưa tay chỉ lên những nét dài và khắc khổ của rặng núi Anpơ Xavoa…
– Nhưng thành phố thì câu nệ và vuông vắn quá, như đượm một vẻ gì… của đạo Tin lành. Nó có vẻ tự mãn. Không, con không ưa thành phố này, nó giông giống như Giuli vậy.
Môngtaneli bật cười:
– Thật không may, con đáng thương của cha! Nhưng không hề gì, ta đi du lịch chỉ để tìm thú vui mà thôi, cũng chả cần ở đây lâu. Thôi, hôm nay ta hãy dạo thuyền buồm chơi trên hồ, và sáng mai ta sẽ lên núi.
– Nhưng thưa cha, chắc cha còn muốn ở đây chơi?
– Con yêu quý, cha đã từng qua đây hàng chục lần rồi. Cha chỉ cốt sao cho con được vui trong cuộc đi chơi này với cha. Thế con muốn đi chơi đâu?
– Nếu cha đi đâu cũng được thì con và cha sẽ đi ngược dòng sông , đi tới tận nguồn!
– Đi ngược dòng sông Rôn ấy ư?
– Không, ngược sông Ácvơ. Sông ấy chảy xiết lắm.
– Thế ta đi Samôni vậy.
Suốt buổi chiều họ lênh đênh trên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Những người thanh niên vẫn thích dòng sông Ácvơ xám đục hơn là cảnh hồ mĩ lệ. Áctơ lớn lên bên bờ Địa Trung Hải nên đã quen nhìn những làn sóng biếc xanh. Những dòng sông nước chảy xiết bao giờ cũng lôi cuốn tâm hồn Áctơ và vì thế, dòng nước cuồn cuộn của sông Ácvơ từ vùng băng giá chảy về làm anh say mê hết sức.
Áctơ nói:
– Thế này mới thật là sông chứ. Chảy như thế này mới thật say mê!
Sáng sớm hôm sau, họ lên đường đi Samôni. Con đường chạy qua một thung lũng phì nhiêu. Nhìn cảnh vật chung quanh, Áctơ cảm thấy lòng mình phơi phới. Nhưng gần tới Cờluydơ thì họ phải ngoặt vào một quãng đường núi quanh co. Những ngọn núi lớn hình răng cưa vây chặt lấy họ. Áctơ trở nên nghiêm nghị và trầm ngâm. Từ Xanh Máctanh họ chầm chậm leo đèo. Họ nghỉ đêm trong những mái nhà gỗ ven đường hoặc ở những xóm làng nhỏ bé rồi lại tiếp tục lên đườn, không bó mình theo một hành trình nhất định. Cảnh thiên nhiên của vùng núi Anpơ để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí Áctơ, và khi gặp con thác đầu tiên anh đã cảm thấy rộn ràng vui sướng. Nhưng càng tới gần những ngọn núi tuyết bao nhiêu thì Áctơ càng trở nên say sưa mơ mộng bấy nhiêu. Tâm trạng này của Áctơ, Môngtaneli mới thấy lần này là lần đầu tiên. Hình như giữa chàng thanh niên và những ngọn núi này có một sợi dây liên lạc thần bí nào. Áctơ có thể yên lặng hàng giờ giữa tiếng âm vang của nhưng cây thông âm u, bí ẩn, đưa mắt theo dõi những thân cây cao thẳng mà nhìn vào thế giới chan hoà ánh nắng đang nhuộm vàng những ngọn núi sáng long lanh và những vách đá trơ trụi. Môngtaneli theo dõi Áctơ một cách buồn rầu, thèm muốn.
Một hôm Áctơ đã nằm hơn một tiếng đồng hồ trên mặt đất đầy rêu, mở to mắt chăm chú nhìn mãi những ngọn núi cao óng ánh và khoảng trời xanh thăm thẳm. Môngtaneli bèn rời trang sách, nhìn Áctơ mà hỏi:
– Cha muốn biết con trông thấy cái gì ở đó, carino?
Họ định nghỉ đêm trong một xóm làng tĩnh mịch cách thác nước Điôdơ không xa, nên đến chiều họ không đi theo đường lớn mà leo lên mỏm núi mọc đầy thông để ngắm cảnh hoang hôn buông dần trên nhưng ngọn núi lô nhô và trên đỉnh Mông Bờlăng. Áctơ ngẩng đầu say sưa nhìn khung cảnh huyền ảo trước mặt và trả lời Môngtaneli:
– Con trông thấy gì ư, thưa cha? Con tưởng như nhìn thấy qua một bức màn pha lê sẫm một sinh linh vĩ đại mặc quần áo trắng trên khoảng không gian xanh thẳm vô cùng tận ấy. Bao thế kỉ nay, sinh linh ấy đã chờ đợi ơn thiêng liêng của Chúa soi sáng cho.
Môngtaneli thở dài.
– Xưa kia cha cũng đã từng thấy những cảnh tượng như con nói.
– Thế hiện nay?
– Nay thì không. Không bao giờ cha còn thấy những cảnh tượng như thế nữa. Cha biết rằng những cảnh tượng ấy chưa biến mất, nhưng đối với những cảnh tượng ấy mắt cha đã nhắm lại không còn nhìn thấy nữa rồi. Bây giờ cha nhìn thấy những cảnh tượng khác hẳn.
– Vậy cha nhìn thấy gì?
– Nhìn thấy gì ư, carino? Trên cao cha nhìn thấy khoảng trời xanh và đỉnh núi tuyết trắng xoá, nhưng ở dưới kia cha nhìn thấy một cảnh khác hẳn thế – Môngtaneli chỉ tay xuống dưới chân đèo.
Áctơ quỳ gối cúi người trên bờ vực nhìn xuống những cây thông to lớn thu mình dưới ánh hoàng hôn, đứng thẳng tắp trên các bờ sông như những người lính gác. Một lát sau, mặt trời đỏ như cục than hồng đã khuất mình sau mỏm đá lô nhô và mọi vật như ngừng đọng lại và mờ mịt cả. Một cái gì đen tối, dữ tợn trùm lên khắp thung lũng. Những mỏm đá lô nhô ở phía tây mọc thẳng lên trời như những chiếc vuốt nhọn của một hung thần sắp sửa nhảy xuống vồ mồi mà đem xuống cửa miếng há hốc của vực thẳm nơi rừng rú đương rên rỉ trong gió. Những ngọn thông cao lớn vươn lên như những lưỡi dao nhọn, thầm thì trong tiếng reo vi vút: “Hãy rơi xuống đây!” Suối nước réo ầm ầm trong đêm tối, tuyệt vọng xô mình vào những vách đá đứng sừng sững như vách nhà tù.
– Cha! Áctơ nhỏm dậy rùng mình lui khỏi bờ vực thẳm – Thật giống địa ngục!
– Không, con ạ! – Môngtaneli nhẹ nhàng nói – Nó giống như linh hồn con người.
– Linh hồn của những kẻ đang chơi vơi trong tăm tối và dưới bóng đen của tử thần ư?
– Linh hồn của những kẻ mà hàng ngày con vẫn gặp trên đường phố!
Áctơ co rúm mình, nhìn vào bóng đêm phía dưới. Sương mù mờ trắng trôi giữa rừng thông, dừng lại chầm chậm trên dòng suối đang giãy chết tuyệt vọng, thật giống như một bóng ma ủ rũ, không đủ sức thốt ra một lời an ủi.
Bỗng Áctơ nói:
– Trông kìa! Những kẻ chơi vơi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng mặt trời rồi!
Đằng đông ánh hoàng hôn đốt cháy những đỉnh núi tuyết. Nhưng rồi, ngay sau khi những tia nắng mờ đó tắt đi, thì Môngtaneli quay lại đặt tay lên vai Áctơ:
– Thôi về đi, carino. Trời đã tối, khéo lạc đường.
– Mỏm đá kia thật giống như một người đã chết. – Áctơ nói như vậy, mắt rời khỏi đỉnh núi tuyết còn lóng lánh ở đằng xa trong ánh hoàng hôn.
Họ từ từ xuống núi, len lỏi giữa những hàng cây đen tối và tiến về phía nhà trọ.
Khi bước vào phòng ăn, nơi Áctơ đang ngồi đợi, Môngtaneli thấy rằng cậu bé đã lãng quên những cảnh đen tối ảm đạm vừa qua và dường như đã biến thành một con người khác hẳn.
– Cha, mời cha lại đây! Cha xem con chó ngộ nghĩnh chưa này! Nó nhảy nhót được bằng hai chân sau đấy!
Cậu bé say mê con chó và những bước nhảy tung tăng của nó, chẳng khác gì một giờ trước đây cậu đã say mê cảnh hoàng hôn trên núi Anpơ.
Bà chủ nhà, một người đàn bà má đỏ mặc bộ cánh trắng, hai tay đẫy đà chống ngang hông, mỉm cười nhìn Áctơ đùa với con chó.
Bà nói với con gái bằng tiếng địa phương:
– Trông cậu ấy nô nghịch như thế thì chắc chắn cậu ấy chẳng phải lo nghĩ nhiều. Cậu ấy xinh trai quá.
Áctơ đỏ mặt như một cô học trò, còn bà chủ thấy anh hiểu câu nói của mình thì liền bỏ đi, buồn cười vì nỗi thẹn thò của anh.
Trong bữa cơm anh chỉ bàn về chương trình đi chơi sắp tới, bàn chuyện leo núi, chuyện tìm cây cỏ. Những hình ảnh huyền ảo vừa qua dường như chẳng có gì ảnh hưởng đến tâm tình cũng như khẩu vị của anh cả.
Sáng sớm hôm sau, khi tỉnh dậy Môngtaneli đã không thấy Áctơ đâu nữa. Trước lúc rạng đông, Áctơ đã lên trên đồng cỏ cao để “giúp Gátsparu chăn dê” rồi.
Nhưng sắp tới giờ ăn sáng thì Áctơ chạy xổ vào buồng đầu không mũ, vai công kênh một cô bé chừng ba tuổi và tay ôm một bó hoa dại lớn.
Môngtaneli nhìn Áctơ mỉm cười. Thật hoàn toàn khác hẳn với Áctơ nghiêm nghị trầm lặng tại Pidơ và Livoócnô trước đây.
– Đi đâu về thế, quái con? Chưa ăn gì cả mà đã chạy khắp núi rồi.
– A, thưa cha, trên ấy hay lắm! Mặt trời mọc trên đỉnh núi, tráng lệ biết bao! Sương xuống nhiều quá. Này, cha trông!
Áctơ nhấc chân giơ chiếc giày ướt át và lấm bùn lên.
– Lúc đi chúng con chỉ mang theo một ít bánh và phomát, nhưng đến đồng cỏ chúng con được uống sữa dê… Khiếp lắm cơ! Nhưng con lại đã đói rồi. Với lại con cũng muốn cho cô bé này ăn một tí gì nữa cơ. Này, có muốn uống mật không, Anét?
Áctơ ngồi xuống, đặt cô bé vào lòng rồi xếp gọn hoa lại cho nó.
Môngtaneli vội ngăn:
– Thôi, thôi! Thế rồi lại cảm đấy. Đi thay quần áo đi… Anét, lại đây cháu… Con thấy con bé này ở đâu Áctơ?
– Ở tận cuối làng ạ. Nó là con gái của ông thợ giày mà chúng ta gặp hôm qua đấy. Cha trông nó có đôi mắt xinh kháu khỉnh chưa! Trong túi nó lại có một con rùa tên là Carôlina.
Sau khi Áctơ thay bít tất ướt và xuống ăn lót dạ, thì thấy cô bé ngồi trong lòng vị linh mục. Nó liến thoắng kể chuyện con rùa. Nó đặt con rùa nằm ngửa trong lòng bàn tay mũm mĩm để “monsieur” (2) thấy cẳng rùa ngọ nguậy.
Nó nói với giọng người lớn:
– Monsieur trông này! Carôlina nó đi giày đây này!
Môngtaneli ngồi chơi với Anét, vuốt mái tóc của nó, xem con rùa ngộ nghĩnh và kể cho nó nghe những chuyện cổ tích thật hay.
Bà chủ nhà vào dọn bàn thấy Anét đang móc túi của vị mặc quần áo cố đạo nghiêm trang thì rất đỗi ngạc nhiên.
Bà nói:
– Thật là trời xui con trẻ nhận ra người tốt bụng. Anét tính hay sợ người lạ, thế mà bây giờ thấy cha, nó lại chẳng sợ sệt gì cả kia. Kể cũng thật lạ lùng! Anét, cháu quỳ xuống xin cha ban phép lành cho. Cha sẽ ban phúc cho cháu đấy cháu ạ…
Một giờ sau, khi hai người đi trên đồng cỏ chói nắng, Áctơ nói:
– Thưa cha, con thật không ngờ cha lại khéo vui đùa với con trẻ thế. Con bé cứ nhìn cha chằm chặp. Thưa cha, con…
– Sao?
– Con định nói rằng… rất tiếc tại sao Giáo hội lại cấm không cho các cha kết hôn. Con thật không hiểu vì sao. Giáo dục trẻ con – đó là một việc rất quan trọng lắm chứ! Ngay từ lúc lọt lòng, nếu trẻ em được sống giữa những ảnh hưởng tốt thì hay biết bao. Con tưởng rằng, người nào sự nghiệp càng cao quý bao nhiêu, cuộc sống càng trong sạch bao nhiêu thì người đó càng xứng đáng làm nhiệm vụ người cha bấy nhiêu. Thưa cha, con tin rằng nếu cha không bị ràng buộc bởi lời thề, mà cha lập gia đình thì con cái của cha chắc sẽ rất…
– Im đi con!
Câu nói ấy thốt ra bằng một giọng thì thầm vội vã nên càng làm sâu sắc thêm sự im lặng.
Thấy nét mặt Môngtaneli sa sầm, Áctơ rất buồn và nói tiếp:
– Thưa cha, con nói như thế có gì sai đâu? Cũng có thể con lầm nhưng con nghĩ như thế nào thì nói như thế ấy…
Môngtaneli dịu dàng đáp:
– Có lẽ con chưa thật hiểu rõ những lời con nói. Vài năm nữa con sẽ biết nhiều. Bây giờ ta hãy nói chuyện khác thì hơn.
Đó là vết rạn nứt đầu tiên trong không khí thoải mái và hoà hợp hoàn toàn giữa hai người từ lúc nghỉ hè đến nay.
Từ Samôni, Môngtaneli và Áctơ vượt qua đỉnh Tếttơnoa. Đến Máctinhi thì họ tạm dừng chân vì thời tiết rất oi ả.
Sau bữa cơm trưa, họ bước lên sân thượng khuất nắng của khách sạn. Một cảnh núi rừng mĩ lệ mở ra trước mắt. Áctơ đem hộp mẫu cây cỏ ra và say sưa nói chuyện với Môngtaneli về thực vật học. Họ nói với nhau bằng tiếng Ý.
Hai họa sĩ người Anh cũng đang ngồi ở sân thượng. Một người khác thì phác họa phong cảnh, còn người kia thì tán dóc. Người này không ngờ rằng hai người kia hiểu được tiếng Anh.
Hắn nói:
– Thôi, Uyli, xếp cái trò vẽ phong cảnh lăng nhăng ấy đi! Vẽ anh chàng người Ý đẹp trai đang ngồi mải mê với mấy cái lá mèo lười kia kìa! Mày hãy trông đôi lông mày của nó! Thay chiếc kính lúp trong tay nó bằng một cây thánh giá, thay chiếc quần soóc và chiếc áo ngắn bằng một bộ áo La Mã thì mày sẽ vẽ nên một tín đồ Thiên chúa giáo hết sức điển hình của những thế kỉ đầu tiên.
– Thiên chúa thiên chiếc gì! Khi ăn cơm tao ngồi cạnh nó. Nó thích gà rán như thích đám cỏ kia vậy. Còn nói gì nữa, thằng bé kháu lắm, nước da màu ôliu thật tuyệt. Nhưng ông bố nó còn đáng vẽ hơn nhiều.
– Bố nó ấy à, ai thế?
– Bố nó ngồi ngay trước mặt mày ấy, mày không chú ý à? Khuôn mặt ông ta thật là đẹp.
– Chà cái thằng mêtôđít (3) này, mày đần thật! Mày không nhận ra cả cố đạo Thiên chúa giáo à!
– Cố đạo ư! Ừ nhỉ! Chết chưa! Tao quên mất, họ thề không phá giới và không gì gì nữa cơ mà… Thôi, thế thì ta cũng có thể thương hại ông ta một tí, cho thằng bé là cháu gọi bằng bác vậy.
Đôi mắt tươi cười đung đưa nhìn Môngtaneli, Áctơ nói thầm:
– Sao họ ngu thế! Dù sao họ cũng còn tốt là nhận thấy con giống cha lắm. Con cũng muốn làm cháu thực của cha… Cha, sao thế! Sao mặt cha tái đi?
Môngtaneli đứng dậy, lấy tay sờ trán. Giọng khàn khàn và yếu ớt, ông nói:
– Cha hơi chóng mặt. Chắc sáng nay cha dãi nắng nhiều quá. Cha đi ngả lưng một tí đây, Carino ạ. Vì nóng quá đấy thôi.
*
* *
Sau hai tuần du ngoạn bên bờ hồ Luyxécnơ, Áctơ và Môngtaneli vượt đèo Xanh Gôta trở về Ý. Tiết trời lúc nào cũng thuận lợi nên cuộc chơi nào cũng đều thú vị cả. Nhưng niềm vui trong lòng họ những ngày đầu tiên bây giờ đã biến mất.
Môngtaneli luôn luôn băn khoăn nghĩ cách nói với Áctơ câu chuyện nghiêm trang mà
Môngtaneli tưởng rằng kì nghỉ hè này dễ nói hơn cả. Trên đồi Ácvơ, Môngtaneli cố ý tránh nhắc tới câu chuyện mà họ đã bàn với nhau trong vườn, dưới cây mộc lan. Môngtaneli nghĩ rằng nếu đem câu chuyện nặng nề ấy làm đen tối những nguồn vui đầu tiên mà thiên nhiên vùng Anpơ đã đem lại cho một tâm hồn nghệ sĩ như Áctơ thì thật tàn nhẫn quá. Nhưng từ ngày ở Máctinhi đến nay, cứ mỗi buổi sáng Môngtaneli tự nhủ thầm:
“Hôm nay phải nói với nó mới được”, nhưng cứ đến tối thì lại “Thôi, để mai”. Nghỉ hè sắp hết mà Môngtaneli vẫn tự nhủ thầm “Mai, mai”. Điều kìm hãm Môngtaneli chính là một cảm nghĩ mờ mờ tê lạnh, thấy rằng quan hệ giữa hai người không còn như cũ nữa, mà dường như có một tấm màn vô hình ngăn cách họ. Mãi đến buổi chiều cuối cùng của vụ hè Môngtaneli mới đột nhiên hiểu rằng nếu muốn nói thì chỉ có nói ngày hôm nay.
Họ ở lại Luganô để nghỉ đêm sáng hôm sau sẽ lên đường về Pidơ. Môngtaneli định ít nhất cũng tìm xem đứa con yêu của mình đã sa vào vũng lầy tai hoạ của tình hình chính trị nước Ý tới mực nào.
Sau khi mặt trời đã khuất, Môngtaneli nói:
– Tạnh mưa rồi, carino ạ. Bây giờ là lúc đi ngắm cảnh hồ. Đi đi, cha muốn nói chuyện với con.
Họ men theo bờ hồ, tới một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, rồi ngồi lên bức tường đá thấp, cạnh tường là một bụi hồng dại chi chít đầy quả đỏ tía. Trên cành cao còn run rẩy một vài đoá hồng nhỏ muộn màng màu trắng sữa đã phai tàn và đầm đìa giọt mưa, như đang rưng rưng khóc. Lướt trên mặt hồ phẳng lặng và xanh rờn là một con thuyền nhỏ với cánh buồm trắng nhẹ nhàng rung rinh trong làn sương ấm. Con thuyền mảnh khảnh trông thật giống cánh hoa màu bạc buông trên mặt nước. Cao cao trên ngọn Môngtơ Sanvato, cửa sổ một chiếc nhà cô quạnh của dân mở rộng, trông giống như một con mắt vàng. Những đoá hồng cúi đầu mơ ngủ dưới bầu trời đầy mây của tiết tháng chín; nước hồ rì rào xô từng đợt lên những viên cuội ven bờ.
Môngtaneli bắt đầu nói:
– Đã lâu nay, chỉ tới giờ phút này cha mới có thể bình tĩnh nói chuyện được với con. Rồi đây con sẽ trở về với công việc nhà trường, với chúng bạn, còn cha thì cũng sẽ rất bận trong suốt mùa đông tới. Cha muốn biết rõ, rồi đây cha và con sẽ ăn ở ra sao. Và nếu con…
Môngtaneli ngừng một chút rồi chậm rãi nói:
– Và nếu con cảm thấy rằng vẫn có thể tin cha được như xưa thì cha muốn con không nên nói với cha như trong vườn trường dòng dạo nọ, mà nên nói thật cho cha hay rằng con sẽ đi xa tới mức độ nào.
Áctơ nhìn mặt nước lăn tăn, bình tĩnh lắng nghe và im lặng.
Môngtaneli tiếp:
– Nếu con có thể trả lời được thì con cho cha rõ là con đã ràng buộc mình bằng một lời thề hoặc… bằng một cái gì khác.
– Cha thân yêu, con chẳng có gì nói với cha cả, con chẳng ràng buộc gì mình cả, nhưng con vẫn bị ràng buộc.
– Cha không hiểu…
– Những lời thề có ý nghĩa gì? Ràng buộc con người không phải là lời thề. Chỉ cần mình tự cảm thấy thiết tha với một điều nào đó, thế là đủ rồi. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì ràng buộc được mình cả.
– Thế nghĩa là điều đó… điều đó không thể thay đổi được ư? Áctơ, con đã nghĩ kĩ về những lời con nói chưa?
– Thưa cha, cha hỏi con có tin cha không. Vậy thì cha cũng có thể tin con không? Bởi vì nếu có gì thì con đã nói cho cha nghe. Nhưng những chuyện ấy nói cũng chẳng ích gì. Con vẫn không quên và sẽ không bao giờ quên những lời cha nói với con chiều hôm ấy. Nhưng con phải đi theo con đường của con đi, tới phía ánh sáng đang bừng lên trước mặt con.
Môngtaneli ngắt một đoá hoa nhỏ khỏi bụi hồng, bứt từng cánh hoa và ném xuống nước.
– Con đã nói đúng, carino. Thôi đủ rồi, ta đừng nói chuyện ấy nữa. Mà nói nhiều cũng chẳng ích gì… Thôi, ta về đi.
Chú thích:
(1) Đảo Rútxô: hòn đảo có dựng tượng của nhà tư tưởng và nhà văn Giăng Giắc Rútxô (1712 – 1778), người Pháp, sinh ở Giơnevơ.
(2) Monsieur: tiếng Pháp nghĩa là ông. Tác giả muốn nhấn rõ con bé Anét là người vùng Anpơ (vùng nói tiếng Pháp).
(3) Méthodiste: tín đồ hội giám lí – một môn phái của đạo Cơ đốc, xuất hiện hồi thế kỉ 18 ở Anh