Báo
NEW YORK TIMES
Ngày 11 tháng Mười, 1986
CHIẾN TRANH GIỮA CÁC VÌ SAO
Armstrong ký vào hợp đồng thuê, sau đó đưa bút cho Russell ký vào chỗ người làm chứng. Lloyd Summers không kìm được cái cười vui sướng khi tới tháp Trump sáng hôm đó, và anh ta suýt nhảy bật khỏi ghế khi Russell ký tên thêm vào hợp đồng thuê nhà 147 Lower Broadway. Anh ta đưa tay cho Armstrong và nói, “Cảm ơn, ngài chủ tịch, tôi chỉ có thể nói rằng tôi rất mong muốn được làm việc với ngài.”
“Và tôi cũng vậy,” Armstrong nói rồi bắt tay anh ta.
Summers cúi thấp đầu chào Armstrong, sau đó cúi chào Russell cao hơn một chút. Anh ta nhặt bản hợp đồng thuê và khoản tiền 300 000 đô la trước khi rời khỏi phòng. Khi ra tới cửa, anh ta ngoái lại và nói, “Ông sẽ không bao giờ phải ân hận vì điều này.”
“Tôi sợ là ông có thể, Dick.” Russell nói khi cửa đã đóng lại. “Điều gì đã khiến ông thay đổi ý định?”
“Tôi không có nhiều sự lựa chọn khi tôi khám phá ra Townsend đang âm mưu điều gì.”
“Vậy là 3 triệu đô la đã đổ xuống sông,” viên luật sư hỏi.
“Ba trăm nghìn đô la,” Armstrong nói.
“Tôi không hiểu.”
“Có lẽ tôi đã trả tiền đặt cọc, nhưng tôi hoàn toàn không định mua cái tòa nhà chết tiệt ấy.”
“Nhưng anh ta sẽ kiện ông nếu ông không hoàn thành trong thời hạn 30 ngày.”
“Tôi nghi ngờ điều đó,” Armstrong nói.
“Cái gì khiến ông dám chắc như vậy?”
“Vì trong một vài tuần nữa ông sẽ gọi điện cho luật sư của anh ta và bảo hắn rằng tôi đã khó chịu thế nào khi biết được thân chủ của hắn đã ký riêng một hợp đồng thuê một căn hộ tầng mái phía trên phòng trưng bày, đã được mô tả cho tôi như một gác mái.”
“Điều đó hầu như là sẽ không thể chứng minh được.”
Armstrong lấy từ túi ra chiếc cát xét nhỏ và đưa nó cho Russell. “Điều đó dễ hơn là anh nghĩ”.
“Nhưng điều này có thể không được thừa nhận.” Russell vừa nói vừa cầm chiếc cát xét.
“Vậy có lẽ ông phải hỏi cái gì đã xảy ra với 600.000 đô la mà các nhân viên nhà đất trả qua Summers, và trên giá gốc.”
“Đơn giản là anh ta sẽ phủ nhận điều đó. Nhất là khi ông không hoàn thành hợp đồng.”
Armstrong ngừng một lát. “Được, luôn luôn có phương sách cuối cùng.” Ông mở một ngăn kéo bàn và rút ra một bản thảo trang nhất tờ Star. Tiêu đề ghi: “Lloyd Summers bị buộc tội lừa gạt.”
“Anh ta sẽ lại kiện.”
“Anh ta sẽ không làm thế sau khi đọc trang báo bên trong.”
“Nhưng cho đến khi phiên tòa được mở thì chuyện này đã thành chuyện cổ tích.”
“Sẽ không như thế chừng nào tôi là chủ bút của Star.”
oOo
“Công việc diễn ra trong bao lâu?” Townsend hỏi.
“Theo tôi đoán là khoảng 20 phút.” Tom đáp.
“Và anh đã ký với bao nhiêu người?”
“Khoảng hơn 200.”
“Thế là đủ chứ?”
“Đó là tất cả những gì tôi xoay xở được với một thông báo ngắn như vậy, vì thế hãy hy vọng là đủ.”
“Họ biết phải làm gì chứ?”
“Chắc là biết. Tối qua tôi đã nhắc họ nhiều lần. Nhưng tôi vẫn muốn ông gặp họ trước khi cuộc mít tinh bắt đầu.”
“Còn người chủ trò? Cô ta cũng được nhắc lại chứ?” Townsend hỏi.
“Cô ấy không cần,” Tom nói. “Đến lúc nào đó cô ấy sẽ được thay vai.”
“Cô ta đồng ý với thời hạn của tôi chứ?”
“Thậm chí không mặc cả”
“Còn về hợp đồng thuê? Không ai ngạc nhiên chứ?”
“Không, nó đúng như cô ấy nói.”
Townsend đứng dậy, bước ra cửa sổ và nhìn sang công viên Trung tâm. “Anh sẽ đưa kiến nghị à?”
“Không, tôi đã đề nghị Andrew Fraser làm điều đó. Tôi sẽ liên lạc chặt chẽ với ông.”
“Tại sao anh lại chọn Fraser?”
“Ông ta là một hội viên cao cấp, điều đó sẽ khiến chủ tịch nhận thức được chúng ta nặng ký thế nào.”
Townsend quay lại và đối diện với viên luật sư. “Vậy còn điều gì có thể sai lầm?”
oOo
Khi Armstrong được một hội viên cao cấp tiễn ra khỏi văn phòng Keting, Gould & Critchley, ông chạm trán với một đội quân quay phim, chụp ảnh, tất cả đều hy vọng ông sẽ trả lời câu hỏi của mình.
“Ngài định tiến hành những cải cách gì, thưa ngài Armstrong, khi ngài trở thành chủ tịch của Star?”
“Tại sao lại thay đổi một thể chế lớn?” Ông trả lời. “Dù sao đi nữa,” ông nói thêm khi xuôi theo hành lang dài và bước ra ngoài lối đi. “Tôi không thuộc loại chủ bút hay can thiệp vào công việc hằng ngày của một tờ báo. Hãy hỏi bất kỳ Tổng biên tập nào của tôi. Họ sẽ nói với các bạn.”
Một hai nhà báo đang đuổi theo sau ông đã làm như vậy, còn Armstrong thì đã tới được khu vực khá an toàn của chiếc Limousine trước khi họ có thể tiếp tục nêu ra thêm bất kỳ câu hỏi nào.
“Bọn bồi bút chết tiệt,” ông nói khi chiếc xe đi về hướng khách sạn Plaza, nơi Hội nghị toàn thể thường niên của các cổ đông Star đang được tổ chức. “Thậm chí anh không thể kiểm soát được những gì mà anh là chủ.”
Russell không nói gì. Khi họ đi đến Đại lộ 5, Armstrong bắt đầu cứ ít phút lại nhìn đồng hồ. Hình như cứ đến ngã tư là đèn lại chuyển sang màu đỏ. Hoặc giả họ chỉ để ý đến nó khi vội vã? Khi đèn chuyển sang xanh, ông sờ tay lên túi ngực để kiểm tra bài diễn văn nhậm chức có còn ở đó. Đã một lần ông đọc thấy rằng Marearet Thatcher không bao giờ cho phép một phụ tá nào được mang những bài diễn văn của bà, vì bà đã một lần thất kinh khi bước lên diễn đàn mà không có sẵn bài phát biểu. Lần đầu tiên ông thấu hiểu sự lo lắng của bà ta.
Cuộc nói chuyện căng thẳng giữa Armstrong và luật sư của ông đã ngừng lại từ trước đó, nay lại bắt đầu khi chiếc xe vượt qua Tòa nhà General Motor. Arsmtrong lấy trong túi ra miếng bông phấn lớn và vỗ nhẹ lên trán. Russell chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Vậy còn cái gì có thể sai sót?” Armstrong hỏi tới lần thứ 10.
“Không gì cả,” Russell nhắc lại, khe khẽ gõ nhịp lên chiếc cặp da để trên gối. “Tôi có cổ phiếu và nắm tổng số 51% cổ phần, và chúng ta biết Townsend chỉ có 46%. Hãy yên chí.”
Nhiều phóng viên, quay phim và chụp ảnh đã đợi sẵn trên những bậc thềm của Plaza khi chiếc Limousine tới đó. Russell liếc nhìn thân chủ của mình, người hình như luôn thích được chú ý, mặc dù lúc nào cũng cam đoan ngược lại. Khi Armstrong bước xuống khỏi xe, người quản lý của Plaza tiến tới chào đón ông như thể ông là Thống đốc bang New York. Ông ta dẫn hai người đàn ông vào khách sạn, vượt qua sảnh và hướng về phòng Lincoln. Armstrong không để ý thấy Keith Townsend và người cộng sự cấp cao của một hãng luật danh tiếng bước ra khỏi thang máy khi ông và người cộng sự của mình đi lướt qua.
Townsend đã tới Plaza từ một giờ trước. Không bị người quản lý chú ý, ông đã xem qua căn phòng, nơi cuộc họp sắp được tổ chức, và sau đó tìm đến phòng State, nơi Tom đã tập hợp một nhóm diễn viên thất nghiệp. Ông nói vắn tắt cho họ về vai mà họ sẽ đóng, và sự cần thiết tại sao họ phải ký nhiều đơn chuyển nhượng như vậy. Bốn mươi phút sau ông quay lại hành lang.
Townsend và Tom từ từ đi về phía phòng Lincoln, theo sát gót Armstrong. Rất dễ nhầm họ là hai nhân viên cấp thấp của ông ta.
“Điều gì sẽ xảy ra nếu cô ta không xuất hiện?” Townsend hỏi.
“Vậy thì nhiều người sẽ uổng phí nhiều thời gian và tiền bạc,” Tom nói khi họ bước vào phòng Lincoln.
Townsend ngạc nhiên khi thấy căn phòng đã rất đông đúc; ông cứ ngỡ rằng 500 ghế mà ông thấy các nhân viên xếp ra sáng sớm hôm nay là nhiều quá mức cần thiết. Ông còn thấy có nhiều người đã phải đứng ở cuối phòng. Một chiếc dây đỏ ngăn những người không phải là cổ đông ngồi vào hai mươi hàng ghế gần diễn đàn nhất. Các công nhân in, đám chạy việc vặt của tờ báo và những kẻ hiếu kỳ được dồn vào phía đó.
Townsend và luật sư của ông chậm rãi bước xuống lối đi ở giữa, thỉnh thoảng ánh đèn flash lại nháy lên, tới khi họ đến chỗ dây đỏ, cả hai bị yêu cầu phải xuất trình bằng chứng họ là cổ đông của công ty. Một phụ nữ đưa tay dò theo bản danh sách dài mấy trang giấy. Cô đánh vào đó hai dấu, mỉm cười với họ và nâng sợi dây lên.
Điều đầu tiên Townsend để ý là số lượng phương tiện truyền thông tập trung vào Armstrong và những người cùng đi với ông ta, họ dường như chiếm trọn hai hàng ghế đầu. Tom là người nhận ra họ đầu tiên, ông chạm vào khuỷu tay Townsend. “Ở xa mé bên trái, quãng hàng thứ 10.” Townsend nhìn về phía trái ông, và thấy rõ Lloyd Summers cùng người giám đốc thường trực của anh ta đang ngồi cạnh nhau.
Tom dẫn Townsend đi về phía bên kia của gian phòng ngồi vào hai ghế còn trống ở giữa. Khi Townsend căng thẳng nhìn quanh, Tom gật đầu về phía một người đàn ông khác đang đi xuôi theo lối đi ở giữa. Andrew Fraser, người cộng tác chính của Townsend, thả người xuống một chiếc ghế trống sau Armstrong vài hàng.
Townsend chuyển sự chú ý lên phía diễn đàn, nơi ông nhận ra một số giám đốc của Star mà ông đã gặp trong 6 tuần qua, ngồi dọc theo chiếc bàn dài phủ nhung xanh lá cây có ghi nổi bật những chữ cái màu đỏ THE NEW YORK STAR. Armstrong đã hứa với nhiều người trong số họ rằng họ sẽ vẫn ở trong Hội đồng Quản trị nếu ông ta trở thành chủ tịch. Chẳng một ai trong số họ tin lời hứa đó. Chiếc đồng hồ treo tường phía sau họ cho thấy chỉ 5 phút nữa là tới 12 giờ. Townsend đưa mắt nhìn qua vai và chú ý thấy rằng căn phòng đã chật kín người. Ông thì thầm với Tom, ông ta nhìn về phía sau, cau mày và nói. “Nếu nó là một khó khăn khi họ khai mạc, tôi sẽ kín đáo dàn xếp chuyện này.”
Townsend quay lại phía diễn đàn và quan sát các thành viên của Hội đồng Quản trị bắt đầu sắp xếp chỗ ngồi sau chiếc bàn dài. Người cuối cùng ngồi xuống là vị chủ tịch, Cornelius J. Adams IV, như tấm biển in thanh nhã trước mặt ông thông báo. Khi ông đã ngồi xuống, các máy quay phim bèn chuyển sự chú ý của chúng từ hàng ghế khán giả đầu tiên sang diễn đàn. Tiếng ồn ào giảm đi. Lúc chiếc đồng hồ điểm chuông 12 giờ, vị chủ tịch gõ búa vài lần để lôi cuốn sự chú ý của mọi người.
“Xin chào các quý ông và quý bà,” ông bắt đầu. “Tên tôi là Cornelius Adams, và tôi là chủ tịch Hội đồng Quản trị của New York Star.” Ông ngừng lời. “Vâng, ít nhất là trong vài phút nữa.” Ông nhìn về phía Armstrong. Một vài tiếng cười nổ ra cho bài diễn văn mà Townsend ngờ là được luyện tập tốt. “Đây,” ông tuyên bố, “là Đại hội toàn thể thường niên của tờ báo lớn nhất nước Mỹ.” Lời tuyên bố này được đón chào bằng tràng vỗ tay nồng nhiệt của khu vực ghế ngồi phía trước, và bằng sự im lặng thờ ơ của hầu hết những người đứng sau chiếc dây đỏ.
“Mục đích chính của chúng ta ngày hôm nay,” ông ta tiếp tục, “là chỉ định một vị chủ tịch mới, người sẽ có trách nhiệm lãnh đạo Star bước sang thế kỷ mới. Như tôi chắc là tất cả các ngài đều đã biết. Mức thầu lớn nhất đạt được trong năm nay thuộc về ngài Richard Armstrong, công ty truyền thông Armstrong, và gói thầu còn lại đạt được cùng ngày thuộc về ngài Keith Townsend, công ty Globe. Việc đầu tiên của tôi tại Đại hội này là hướng dẫn các ngài thông qua thủ tục để đảm bảo việc chuyển giao quyền lực diễn ra tốt đẹp.
“Tôi có thể xác nhận rằng cả hai bên có liên quan đều đã xuất trình cho tôi, thông qua các nhóm luật sư riêng rẽ, bằng chứng về quyền kiểm soát của họ đối với cổ phần của công ty. Các kiểm toán viên của chúng ta đã kiểm tra tỷ mỉ mọi quyền lợi của họ trong các khoản. Chúng cho thấy,” ông nói và nhìn vào tập hồ sơ cầm từ bàn lên, “rằng ngài Richard Armstrong hiện làm chủ 51% cổ phần của công ty, trong khi ngài Keith Townsend kiểm soát 46%. Ba phần trăm cổ đông không cho biết họ ủng hộ ai.
“Là cổ đông lớn nhất, ngài Armstrong nắm quyền kiểm soát, vì vậy không còn lý do gì để tôi không chuyển giao cương vị chủ tịch cho ngài – trừ phi, như một nghi thức trong đám cưới, có ai đó chỉ ra một nguyên nhân hoặc một sự cản trở khiến tôi không được làm như vậy.” Ông tươi cười với đám thính giả như một linh mục đang đứng trước mặt cô dâu chú rể, và im lặng một lát.
Một phụ nữ đột ngột đứng lên khỏi hàng ghế thứ ba. “Cả hai người đàn ông đặt mua tờ Star đều là người nước ngoài, cô nói. “Tôi phải nhờ cậy đến cái gì nếu không muốn bất cứ ai trong số họ trở thành chủ tịch?”
Đó là câu hỏi mà họ đã lường trước, và Adams đã có sẵn câu trả lời. “Không gì cả, thưa bà,” vị chủ tịch đáp ngay lập tức. “Mặt khác bất kỳ nhóm cổ đông nào cũng có quyền lấy các giám đốc Mỹ từ các công ty của Anh và Úc trên khắp thế giới.” Vị chủ tịch hài lòng vì đã đáp lại người phụ nữ một cách lịch sự và xác đáng.
Người nêu câu hỏi rõ ràng là không hài lòng. Bà ta quay lưng lại phía diễn đàn và hiên ngang bước ra khỏi phòng, theo sau là một máy quay phim của CNN và một phóng viên ảnh.
Tiếp theo là một số câu hỏi cùng kiểu, mà Russell đã nói trước với Armstrong. “chỉ đơn giản là các cổ đông muốn diễu võ dương oai,” ông giải thích.
Cứ mỗi câu hỏi được trả lời, Townsend lại quay lại và lo lắng nhìn về phía cửa. Lúc nào cũng có nhiều người chặn ở đó. Tom có thể thấy thân chủ của mình trở nên căng thẳng đến mức nào, vì vậy ông rời chỗ và đi về phía cuối phòng, nói gì đó với người dẫn chỗ. Cho tới lúc vị chủ tịch hài lòng là đã trả lời xong mọi câu hỏi, mà nhiều câu được trả lời đến lần thứ hai, Tom quay sang anh. “Đừng lo, Keith,” ông nói. “Tất cả vẫn nằm trong sự kiểm soát.”
“Nhưng khi nào Andrew sẽ…”
“Hãy kiên nhẫn,” Tom nói, khi vị chủ tịch tuyên bố. “Nếu không còn câu hỏi nào nữa, tôi sẽ vui mừng được mời ngài Richard…” Ông sẽ kết thúc câu nói của mình nếu Andrew Fraser không đứng lên khỏi chỗ ngồi phía sau Armstrong một vài hàng và ra hiệu là muốn phát biểu. Cornelius J. Adams cau mày, song cũng gật đầu cộc lốc khi nhận ra người muốn hỏi.
“Thưa ngài chủ tịch,” Fraser bắt đầu khi một vài tiếng rì rầm phản đối lan khắp phòng.
“Vâng?” Adams nói, không thể che giấu được sự bực bội.
Townsend ngoái nhìn lại lối vào một lần nữa, và thấy một dòng người từ từ xuôi theo lối đi ở giữa tiến về phía chỗ ngồi của các cổ đông. Khi mỗi người trong số họ tới chiếc rào chắn bằng dây đỏ, người phụ nữ có trách nhiệm ở đó lại cản họ lại và kiểm tra tên từng người trong bản danh sách dài trước khi nhấc dây lên và để họ đi qua, ngồi vào những chỗ còn trống.
“Tôi mong ngài hãy chú ý,” người cộng sự của Tom tiếp tục, “quy tắc 7B của điều lệ công ty.” Tiếng tranh luận bắt đầu nổi lên khắp phòng. Một vài người ở phía bên này của chiếc dây hẳn đã từng đọc điều lệ của công ty, và chắc chắn chẳng ai trong số họ có chút khái niệm gì về cái mà quy tắc 7B đưa ra. Vị chủ tịch cúi xuống nghe viên thư ký nói thầm vào tai những điều mà anh ta vừa mới xem ở trang 47 của cuốn sách bìa da màu đỏ hiếm khi được giở ra. Đây là một câu hỏi mà anh ta đã không dự kiến trưóc, và cũng không chuẩn bị trước câu trả lời.
Townsend có thể nhìn thấy hoạt động hối hả ở hàng ghế đầu tiên, người đàn ông mà ông đã nhìn thấy lần đầu tiên khi ông ta lên phía sau chiếc xe Limousine ở ngoài tòa nhà 147 Lower Broadway đang cố gắng giải thích ý nghĩa của quy tắc 7B cho thân chủ của mình.
Andrew Fraser đợi cho sự xôn xao xung quanh dịu xuống trước khi tiếp tục, cho phép có thêm thời gian để dòng người đổ vào phòng chiếm lĩnh các chỗ ngồi phía sau chiếc dây đỏ. Vị chủ tịch thấy cần gõ búa vài lần trước khi căn phòng đủ trật tự để thông báo cho mọi người: “Quy tắc 7B cho phép mọi cổ đông tham dự Đại hội toàn thể thường niên – ông đọc thẳng từ cuốn sách nhỏ bìa đỏ “đề cử người cho các chức vụ thuộc bất kỳ văn phòng nào trực thuộc công ty”. Đó có phải là quy tắc mà ngài nhắc đến không?” Ông hỏi và nhìn vào Andrew Fraser.
“Nó đấy,” viên luật sư già quả quyết đáp lại. Viên thư ký công ty kéo mạnh tay áo của vị chủ tịch. Một lần nữa Adams lại cúi xuống nghe. Andrew Fraser vẫn ở nguyên chỗ. Lát sau, vị chủ tịch đứng thẳng lên và nhìn chằm chằm xuống Fraser. “Tất nhiên là ông biết rõ rằng ông không thể đề cử người thay thế cho cương vị chủ tịch mà không thông báo bằng văn bản trước ba mươi ngày. Quy tắc 7B, điều khoản phụ a,” ông nói với một sự hài lòng nhất định.
“Tôi biết rõ điều đó, thưa ngài,” Fraser vẫn đứng nguyên chỗ nói.”Chức chủ tịch không phải là vị trí mà tôi muốn đề cử người vào.”
Tiếng ồn ào nổ tung ra khắp phòng, Adams phải gõ búa vài lần trước khi Fraser có thể tiếp tục.
“Tôi muốn đề cử người vào cương vị giám đốc quỹ Summers.”
Townsend chăm chú nhìn Lloyd Summers đang tái mặt đi. Anh ta nhìn Fraser chăm chăm và lau trán bằng chiếc khăn tay lụa đỏ.
“Nhưng chúng ta đã có một giám đốc tuyệt vời là ngài Summers,” vị chủ tịch nói. “Hay ông đơn thuần chỉ muốn xác nhận vị trí của ông ấy? Về mặt này, tôi có thể đảm bảo với ông rằng ngài Armstrong dự định …”
“Không, thưa ngài. Tôi đề nghị nên thay thế ngài Summers bằng cô Angela Humphries, Giám đốc thường trực đương nhiệm.”
Vị chủ tịch gõ búa trong khi cố nghe xác nhận của người thư ký công ty xem liệu đề xuất này có hợp lệ không. Tom Spencer đứng lên và kiểm tra lại để đoan chắc rằng tất cả những nguời được anh tuyển mộ đã chiếm chỗ an toàn trước chiếc dây đỏ. Townsend có thể thấy tất cả mọi chỗ ngồi đều đã có người, và một số người đến muộn đã bằng lòng đứng ở bên cạnh hoặc ngồi trên các lối đi.
Sau khi được người thư ký công ty cho biết hành động này là hợp lệ, Adams cao giọng hỏi. “Có ai tán thành không?” Ông ta ngạc nhiên thấy có nhiều cánh tay giơ lên bèn chỉ hú họa vào một phụ nữ ở hàng 15. “Tên bà là gì, thưa bà?”
“Roscoe,” bà ta nói.
Thư ký công ty giở qua một trang khác trong cuốn sách bìa đỏ rồi chuyển nó cho vị chủ tịch.
“Tôi có trách nhiệm phải báo cho bà biết rằng một cuộc bỏ phiếu kín sẽ được tiến hành theo quy tắc 7B, mọi cổ đông hiện có mặt đều được phép tham gia bỏ phiếu,” ông ta đọc từ cuốn sách bìa đỏ. “Các lá phiếu sẽ được phân phát, theo như điều lệ, và các ngài có thể đánh dấu chữ thập vào ô trống chỉ rõ các ngài tán thành hay phản đối việc thay thế ông Lloyd Summers, chủ tịch Quỹ Summers bằng cô Angela Humphries.” Ông ngừng lời và nhìn lên. “Tôi cho rằng nó được áp dụng trong hoàn cảnh này để các ngài biết dự định của Hội đồng Quản trị trong việc bầu một cương vị khi có người phản đối, vì chúng tôi tin rằng sự tín nhiệm sẽ được dành cho giám đốc đương nhiệm của quỹ, ngài Summers, và rằng ông ấy nên được phép tiếp tục giữ cương vị này.” Summers căng thẳng nhìn về phía Adams, nhưng có vẻ yên tâm khi thấy các thành viên Hội đồng Quản trị gật đầu tán thành ngài chủ tịch.
Những người tham dự bắt đầu đi lên đi xuống, tay cầm lá phiếu. Armstrong đánh dấu chữ thập ở ô “Chống”. Townsend đánh dấu vào ô “Thuận” và thả lá phiếu vào chiếc hộp sắt.
Khi cuộc bỏ phiếu diễn ra, một số người trong phòng bắt đầu đứng dậy và vươn vai. Lloyd Summers vẫn im lặng ngồi thu lu trong ghế, thỉnh thoảng lau trán bằng chiếc khăn tay lụa đỏ. Angela Humphries không lần nào nhìn về phía anh ta.
Russell khuyên thân chủ của mình bình tĩnh và dành thời gian đọc qua bài diễn văn nhậm chức. Ông tin chắc rằng, sau sự chỉ dẫn rõ ràng của hội đồng quản trị, đề nghị đó sẽ thất bại nặng nề.
“Nhưng ông đã không nói lời nào với cô Humphries, đúng không?’ Armstrong thì thầm.
“Tôi cho rằng trong hoàn cảnh này, nó sẽ là không khôn ngoan,” Russell nói, “nhất là khi thấy cô ta đang ngồi gần ai.”
Armstrong liếc về phía họ, và cau có. “Chắc chắn Townsend không thể…”
Trong khi việc kiểm phiếu diễn ra ở một nơi nào đó phía sau diễn đàn, người ta có thể thấy Lloyd Summers giận dữ cố hỏi giám đốc thường trực của mình một câu gì đó. Cô liếc nhìn anh ta và mỉm cười dịu dàng.
“Thưa các quý ông và quý bà,” Cornelius Adams nói khi đứng lên khỏi chỗ ngồi. “Đề nghị các ngài quay lại chỗ ngồi, vì việc kiểm phiếu đã hoàn thành”.
Người thư ký công ty chuyển cho vị chủ tịch một tờ giấy gấp kín. Ông mở nó ra và, như một quan tòa mẫu mực, không biểu lộ một tình cảm gì khi tuyên án.
“Số phiếu ủng hộ đề nghị này là 317,” ông tuyên bố bằng giọng oai vệ.
Townsend hít một hơi thở sâu. “Có đủ không?” ông hỏi Tom, cố tính số người ngồi trước vòng dây đỏ.
“Chúng ta sắp biết bây giờ,” Tom nói khẽ.
“Số phiếu chống là 286. Do đó tôi tuyên bố việc đề cử được nhiều hơn 31 phiếu.” Ông ngừng lời. “Và cô Angela Humphries là Giám đốc mới của quỹ. ”
Tiếng ngạc nhiên lan khắp phòng, tiếp theo là tiếng ồn ào náo động, như thể tất cả đám khán giả đều có dịp phát biểu ý kiến.
“Gần với mức tôi mong đợi.” Townsend nói to.
“Nhưng ông đã thắng, và đó mới là tất cả,” Tom đáp.
“Tôi vẫn chưa thắng,” Townsend nói, cặp mắt ông giờ đây dán vào Angela.
Lúc này ai nấy đều đưa mắt tìm khắp phòng cố biết xem cô Angela ngồi ở đâu, mặc dù không nhiều người trong số họ biết mặt cô. Có một người vẫn đứng nguyên tại chỗ.
Trên diễn đàn, vị chủ tịch thảo luận thêm với người thư ký, anh ta một lần nữa lại đọc cho ông nghe những điều được ghi trong cuốn sách bìa đỏ. Cuối cùng ông gật đầu, quay lại phía những người tham dự và gõ búa. Nhìn xuống chỗ Fraser, vị chủ tịch đợi cho tiếng ồn lắng xuống trước khi hỏi, “Ông còn định đề nghị gì nữa không, thưa ông Fraser?” Ông ta không cố giấu sự châm chọc trong giọng nói.
“Không, thưa ngài. Nhưng tôi muốn biết giám đốc mới đắc cử sẽ ủng hộ 5% cổ phiếu của quỹ trong công ty cho ai, vì điều này có liên quan tới việc xác định chủ tịch mới của Hội đồng Quản trị.”
Trong vài giây mọi người bắt đầu ồn ào và lại nhìn khắp phòng tìm vị nữ giám đốc mới. Fraser ngồi xuống, và Angela đứng dậy, như thể cô ở đầu bên kia chiếc bập bênh.
Vị chủ tịch chuyển sự chú ý sang cô. “Cô Humphries,” ông nói, “vì hiện cô kiểm soát 5% cổ phần của quỹ, trách nhiệm của tôi là phải hỏi xem cô ủng hộ ai làm chủ tịch.”
Lloyd Summers tiếp tục lau lông mày, nhưng không thể thu hút được những ánh mắt đang nhìn về phía Angela. Trông cô đĩnh đạc và bình tĩnh khác thường. Cô đợi cho đến khi mọi người im lặng.
“Thưa ngài chủ tịch, hẳn ngài sẽ không ngạc nhiên khi tôi muốn ủng hộ người mà tôi tin sẽ đem lại cho quỹ sự quan tâm tốt nhất.” Cô dừng lời khi Armstrong đứng lên và vẫy về phía cô, nhưng ánh sáng chói của ngọn đèn quay phim đã làm cô không thể nhìn thấy cử chỉ ấy của ông. Vị chủ tịch có vẻ yên tâm. “Khoản tín chấp 5% của nó được dành cho…” cô lại ngừng lại, rõ ràng là rất hân hoan “Ngài Keith Townsend.”
Tiếng ồn ào vỡ ra khắp phòng. Lần đầu tiên, vị chủ tịch không thốt lên được lời nào. Ông để rơi búa xuống bàn và há hốc miệng nhìn Angela. Một lát sau, ông bừng tỉnh và bình tĩnh lại, bắt đầu kêu gọi trật tự. Khi thấy mọi người đã lắng nghe, ông hỏi.
“Cô Humphries, cô có nhận thức được việc đồng ý chuyển sự ủng hộ của quỹ tại thời điểm cuối cùng này?”
“Tôi hoàn toàn chắc chắn, thưa ngài chủ tịch,” cô xác nhận.
Đám luật sư của Armstrong đứng dậy phản đối. Vị chủ tịch gõ búa liên tục. Khi tiếng ồn ào đã dịu xuống, ông tuyên bố rằng vì cô Humphries đã dành 5% cổ phần của quỹ ủng hộ ngài Townsend, do đó đã đem lại cho ông Townsend 51% so với 46% của ngài Armstrong. Theo khoản 11A, mục d, ông không còn cách lựa chọn nào khác là phải tuyên bố ngài Keith Townsend là Chủ tịch Hội đồng Quản trị mới của New York Star.
Hai trăm cổ đông đến muộn reo hò cổ vũ như trong một cuốn phim được tập dượt tốt khi Townsend tiến lên diễn đàn. Armstrong lao ra khỏi phòng, bỏ mặc đám luật sư của ông ta đang phản đối.
Townsend bắt đầu bắt tay Cornelius Adams, cựu chủ tịch, và từng thành viên trong Hội đồng Quản trị, mặc dù chẳng có ai trong số họ tỏ ra đặc biệt hài lòng khi nhìn thấy ông. Sau đó ông ngồi xuống chỗ của mình tại phía trước diễn đàn và nhìn xuống căn phòng đang ồn ào. “Thưa ngài chủ tịch, thưa các quý ông và quý bà,” ông vừa nói vừa gõ vào micro, ” để mở đầu, cho phép tôi ngỏ lời cảm ơn ngài Adams và Hội đồng Quản trị của Star, về sự lãnh đạo tận tâm tận lực mà các ngài đã dành cho công ty trong nhiều năm qua, và tôi xin chúc tất cả các ngài thành công ở bất kỳ cương vị nào trong tương lai.”
Tom vui mừng thấy Townsend không thể nhìn thấy được tình cảm hiện trên nét mặt những người ngồi sau lưng ông.
“Tôi xin đảm bảo với các cổ đông của tờ báo danh tiếng này, rằng tôi sẽ làm mọi điều trong khả năng của mình để tiếp tục giữ vững những truyền thống của Star. Tôi xin hứa là sẽ không bao giờ can thiệp vào tính toàn vẹn của tờ báo, như lời của tổng biên tập C.P. Scott của tờ báo danh tiếng Manchester Guardian, kim chỉ nam cho sự nghiệp của tôi Tự do phê bình, nhưng sự thật là thiêng liêng…”
Các diễn viên lại đứng lên và hoan hô theo một hiệu lệnh nào đó. Khi tiếng ồn đã dứt, Townsend kết thúc. “Tôi mong được gặp lại tất cả các quý vị vào thời gian này sang năm.” Ông gõ búa và tuyên bố bế mạc Đại hội toàn thể thường niên.
Nhiều người ở hàng ghế đầu lại bật dậy tiếp tục phản đối, trong khi hai trăm người khác làm theo chỉ dẫn. Họ đứng lên và vừa bắt đầu tiến về phía lối ra vừa tranh cãi inh ỏi. Trong vài phút, căn phòng đã sạch bách chỉ còn một nhúm người phản đối trước một diễn đàn trống trơn.
Khi Townsend rời khỏi phòng, câu đầu tiên anh hỏi Tom là, “Ông đã thảo hợp đồng thuê mới tòa nhà cũ của quỹ chưa?”
“Rồi, nó đang nằm ở văn phòng tôi. Chỉ còn cần chữ ký của ông.”
“Và không tăng giá thuê chứ?”
“Không, trong vòng 10 năm tới,” Tom nói. “Như cô Humphries đảm bảo với tôi như vậy.”
“Và hợp đồng của cô ấy?”
“Cũng trong 10 năm, với mức lương bằng một phần ba của Lloy Summers.
Khi hai người đàn ông ra khỏi khách sạn, Townsend quay sang viên luật sư của mình và nói, “Vậy tất cả những gì tôi phải làm bây giờ là quyết định xem liệu có nên ký hay không.”
“Nhưng tôi đã thỏa thuận miệng với cô ấy,” Tom nói.
Townsend nở nụ cười khi thấy người quản lý khách sạn và một số nhà quay phim, nhiếp ảnh, nhà báo bám theo họ đến chiếc xe đang đợi sẵn.
“Tôi muốn hỏi ông một câu,” Tom nói khi họ đã yên vị trên ghế sau chiếc BMW.
“Nói tiếp đi.”
“Bây giờ mọi chuyện đã qua. Tôi chỉ muốn biết ông đã nghĩ ra nước bài tuyệt diệu đánh bại Armstrong này vào lúc nào.”
“Khoảng 40 năm trước.”
“Tôi không chắc là đã hiểu,” viên luật sư bối rối nói.
“Không có lý do gì để ông có thể hiểu được, ông bạn già Tom ạ, vì ông chưa bao giờ là thành viên Câu lạc bộ Lao động của Trường đại học Oxford khi tôi không tranh được chức chủ tịch chỉ vì chưa bao giờ đọc cuốn điều lệ.”