Báo
THE TIMES
Ngày 16 tháng Mười, 1964
KHRUSHCHEV TỪ CHỨC VÌ TUỔI CAO VÀ SỨC KHOẺ YẾU
BREZHNEV VÀ KOSYGIN NẮM QUYỀN Ở LIÊN XÔ
Keith Townsend tháo dây an toàn ít phút sau khi máy bay đạt đủ độ cao, mở khóa cặp và lấy ra một tập giấy. Anh liếc sang Kate đang mê mải xem cuốn tiểu thuyết mới nhất của Patrick White.
Anh bắt đầu kiểm tra hồ sơ của Tổ hợp West Riding. Liệu đây có phải là cơ hội tốt nhất để có một chỗ đặt chân vững chắc ở nước Anh không? Sau tất cả, khoản lợi tức đầu tiên của anh ở Sydney là một nhóm những tờ báo nhỏ giờ đây đã cho anh đủ khả năng mua tờ Sydney Chronicle. Anh tin rằng một khi đã kiểm soát được một nhóm báo chí địa phương ở Anh, anh sẽ thuận lợi hơn trong việc cố gắng có được một tờ báo tầm cỡ quốc gia.
“Harry Schuttleworth”, anh đọc, “là người đã tài trợ cho tổ hợp hồi đầu thế kỷ. Lần đầu tiên, ông đã xuất bản tờ báo buổi chiều ở Huddersfield, như một ấn phẩm phụ thêm cho nhà máy dệt đang phát đạt của ông”. Townsend nhận ra mô hình một tờ báo địa phương được kiểm soát bởi một ông chủ lớn nhất vùng – rằng ông ta đã kết thúc bằng một khách sạn và hai mỏ than như thế nào. Mỗi khi Shuttleworth mở nhà máy ở một thành phố mới, ngay năm sau sẽ có một tờ báo sánh đôi với nó. Cho đến khi về hưu, ông đã có bốn nhà máy và bốn tờ báo ở West Riding.
“Người con trai cả của Shuttleworth, Frank, nắm quyền kiểm soát sau khi trở về từ cuộc Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, và mặc dù mối quan tâm cơ bản của ông vẫn là ngành dệt, ông…”
“Ngài muốn uống chút gì không ạ?”
Townsend gật đầu. “Cho tôi một whisky và chút nước”
“… cũng sáng lập thêm những tờ báo cạnh ba nhà máy được xây dựng ở Doncastle, Bradford và Leeds. Tại nhiều thời điểm chúng đã lôi cuốn nhiều sự tiếp xúc thân mật từ Beaverbrook, Northcliffe và Rothermere. Frank hình như đã đem đến cho ba tờ báo này câu tiêu ngữ “Sự ngớ ngẩn dành cho kẻ ngu ngốc”.
Nhưng dường như thế hệ Shuttleworth thứ ba không có được lòng nhiệt tình này. Một tổ hợp nhập khẩu hàng dệt rẻ tiền từ Ấn Độ và chỉ có một người con trai luôn muốn trở thành nhà thực vật học, có nghĩa là mặc dù Frank qua đời để lại tám nhà máy, bảy nhật báo, năm tuần báo và một tạp chí cấp tỉnh, lợi nhuận của công ty đã bắt đầu giảm xuống trong khi mộ ông
còn chưa xanh cỏ. Các nhà máy đã tan biến vào cuối những năm 1940 và kể từ đó tổ hợp báo chí rõ ràng đã suy sụp. Giờ đây dường như nó chỉ còn tồn tại nhờ những độc giả trung thành, song những số liệu mới đây cho thấy thậm chí điều này cũng không giúp chúng kéo dài được lâu hơn nữa.
Townsend nhìn lên khi chiếc khay có trải khăn nhỏ bằng vải lanh được chuyển đến tay anh. Khi cô tiếp viên làm vậy với Kate, nàng đặt cuốn “Người đánh xe trong chiếc xe ngựa” xuống, song vẫn im lặng, không muốn phá vỡ sự tập trung của ông chủ.
“Tôi muốn cô đọc cái này”, anh nói, đưa cho nàng những trang đầu của bản báo cáo. “Sau đó cô sẽ hiểu tại sao tôi phải đi Anh lần này”.
Townsend mở tập hồ sơ thứ hai do Henry Wolstenholme, bạn học của anh ở Oxford và hiện là luật sư ở Leeds chuẩn bị. Anh chỉ còn nhớ rất ít về Wolstenholme, ngoại trừ việc sau một vài chén là anh ta trở nên cực kỳ ba hoa. Anh ta không phải là người đầu tiên Townsend chọn để làm ăn, nhưng do công ty của anh ta đã đại diện cho Tổ hợp West Riding từ khi nó được thành lập, nên anh chẳng có cách lựa chọn nào khác. Chính Wolstenholme là người đầu tiên đã cảnh báo cho anh về khả năng của tổ hợp: rằng mặc dù WRG không được đưa ra thị trường – chắc chắn là vị chủ tịch hiện thời sẽ từ chối việc anh tiếp xúc với nó – John Shuttleworth vẫn đang xem xét việc bán tổ hợp này, bởi anh ta đang muốn có một khoản tiền để đi khỏi Yorkshire càng xa càng tốt. Townsend mỉm cười khi một tô xúp rùa được đặt xuống trước anh. Như một người chủ của tờ Hobart Mail, anh đã trở thành ứng cử viên hàng đầu thế giới.
Khi Townsend đã viết thư về mối quan tâm trước mắt, Wolstenholme cho rằng họ cần gặp nhau để thảo luận. Điều kiện đầu tiên của Townsend là anh cần được nhìn thấy những nhà in của tổ hợp, câu trả lời được đưa ra ngay lập tức là “Không hy vọng”. Shuttleworth không muốn được nêu ra trên báo cho đến khi việc thương lượng hoàn tất. Townsend công nhận rằng không có cuộc thương lượng nào thông qua bữa tiệc lần thứ ba là dễ dàng, nhưng anh phải dựa vào Wolstenholme để trả lời, thậm chí còn nhiều câu hỏi hơn thường lệ.
Một tay cầm dĩa, một tay giở tài liệu, anh tiếp tục lướt qua những số liệu mà Clive Jervis đã chuẩn bị. Clive ước tính giá trị của công ty vào khoảng một trăm đến một trăm năm mươi nghìn bảng, nhưng nhấn mạnh là chẳng có gì ngoài một bảng quyết toán.
“Cái này thú vị hơn là “Người đánh xe trong chiếc xe ngựa”, Kate nói sau khi đặt xuống tập tài liệu đầu tiên. “Nhưng tôi sẽ đóng vai trò gì trong vụ này?”
“Điều đó sẽ phụ thuộc vào hồi kết”, Keith trả lời. “Nếu thắng vụ này, tôi cần những bài viết trên tất cả các tờ báo của tôi ở Úc, và tôi muốn một phần bánh riêng – nhỏ hơn một chút – đối với Reuters và Press Asociation. Điều quan trọng là để báo cho các nhà xuất bản trên khắp thế giới, rằng trên thực tế tôi là một địch thủ đáng gờm ở ngoài biên giới Úc”
“Ông hiểu Wolstenholme đến mức nào?”, Kate hỏi, “tôi có cảm giác ông dựa rất nhiều vào cách nhìn nhận của ông ta”.
” Không rõ lắm”. Keith thừa nhận. “Hắn là bạn thân của tôi từ nhiều năm trước ở Worcester, và được xem là người nhiệt tình”.
“Nhiệt tình?” Kate nhắc lại, nhìn anh khó hiểu.
“Trong ngày lễ Thánh Misen hắn dành phần lớn thời gian cho đội bóng bầu dục, và hai lần khác thì đứng ở bờ sông cổ vũ đội thuyền của trường. Tôi nghĩ hắn chọn việc huấn luyện họ vì hắn có một giọng nói có thể khiến cho cả bờ bên kia của sông Thames cũng nghe thấy, và khoái uống một lít bia với toàn đội, ngay cả khi họ bị chìm. Nhưng đó là 10 năm trước; tất cả những gì tôi biết là hắn đã an cư và trở thành một luật sư nghiêm khắc ở Yorkshire, với một người vợ và vài đứa con”
“Ông đã ước lượng giá trị thực tế của West Riding Group chưa?”
“Chưa, nhưng tôi có thể thường xuyên có người giúp đỡ để xem được sáu nhà in, và cùng lúc thử đánh giá chất lượng của các tổng biên tập và các nhà báo. Nhưng ở nước Anh vấn đề lớn nhất luôn luôn là công đoàn. Nếu tổ hợp này bị kiểm soát bởi một thỏa thuận nội bộ, thì tôi không quan tâm, vì dù rằng nó có tốt đi nữa, công đoàn cũng có thể làm cho tôi phá sản trong vòng vài tháng”.
“Thế còn nếu nó không như vậy?” Kate hỏi
“Thì tôi sẽ sẵn sàng trả một trăm, thậm chí một trăm hai mươi nghìn bảng. Nhưng tôi sẽ không để lộ sự tính toán chừng nào tôi còn chưa biết họ nghĩ gì”.
“Họ sẽ nhờ đến toà án”. Kate nói.
“Đó cũng là nơi tôi muốn bắt đầu”. Keith nói. “Nhưng người chủ bút tờ Chronicle không nghĩ các nỗ lực của tôi là phần thưởng thắng lợi, không giống như cô, và phần lớn các bài báo của tôi đã chấm dứt trước khi anh ta viết xong đoạn văn đầu tiên”.
“Có lẽ anh ta chỉ muốn chứng minh là mình không sợ cha ông”.
Keith liếc nhìn nàng và nhận ra là nàng đang lo không biết mình có lỡ lời không. “Có lẽ”, anh trả lời. “Song điều đó chỉ có trước khi tôi nắm được tờ Chronicle và có thể sa thải anh ta”
Kate vẫn im lặng khi cô tiếp viên dọn khay của họ đi. “Trong cabin hơi tối”, cô ta nói, “nhưng ông có thể bật ngọn đèn trên đầu nếu muốn đọc tiếp”.
Keith gật đầu và bật đèn. Kate duỗi dài người thư giãn, đắp một chiếc áo khoác lên người và nhắm mắt lại. Keith nhìn nàng một lát trước khi mở tập tài liệu thứ tư. Anh đã đọc suốt đêm hôm đó.
oOo
Khi đại tá Tulpanov gọi điện đề nghị anh gặp một cộng sự của anh ta là Yuri Valchek để thảo luận một vấn đề mà cả hai đều quan tâm, Armstrong bèn đề nghị dùng bữa trưa ở Savoy khi Valchek đến London.
Trong mười năm qua, Armstrong thường xuyên đến Moscow. Trong việc trao đổi độc quyền xuất bản ở nước ngoài những tác phẩm của các nhà khoa học Xô viết, anh thực hiện rất ít nghĩa vụ đối với Tupalnov, người vẫn tin rằng anh không hề làm điều gì có hại cho tổ quốc của ông ta. Sự lừa gạt này được giúp đỡ bởi Forsdyke, người luôn được biết khi nào anh thực hiện một chuyến đi như vậy, và thỉnh thoảng là bởi những bức thư được viết nhân danh anh, thường quay trở về với những câu trả lời không thể hiểu được. Armstrong tin rằng cả hai mặt này giúp cho anh trở thành người của họ, và ngờ rằng Valchek không phải đơn thuần là người đưa tin vặt, mà được gửi đến để xem anh có thể thúc đẩy công việc đến đâu. Bằng cách chọn Savoy Grill, Armstrong hy vọng chứng minh cho Forsdyke biết rằng anh không che giấu điều gì cả.
Armstrong tới Savoy sớm vài phút, và được dẫn vào chiếc bàn quen thuộc ở trong góc. Thay vì whisky pha soda như ưa thích anh gọi vodka, một dấu hiệu thỏa thuận là sẽ không được nói tiếng Anh. Anh nhìn ra cửa, và băn khoăn không biết liệu có nhận ra Valchek khi anh ta buớc vào hay không. Mười năm trước thì điều ấy thật dễ dàng, nhưng anh đã cảnh báo nhiều đồng nghiệp phía Nga rằng họ sẽ không làm được việc với chiếc áo nịt ngực rẻ tiền và chiếc nơ dây nước sốt. Kể từ đó nhiều vị khách thường xuyên đến London và New York đã học được cách nghỉ ở Savile Row và Fifth Avenue trong chuyến thăm – mặc dù Armstrong ngờ rằng một sự thay đổi nhanh chóng sẽ được thực hiện trên chiếc máy bay Aeroflot khi họ bay trở về Moscow.
Có hai người đi vào Grill, họ nói chuyện với nhau rất say sưa. Armstrong có thể nhận ra một người, nhưng không thể nhớ được tên anh ta. Theo sau họ là một phụ nữ trẻ tuyệt đẹp cùng hai người đàn ông khác đi kèm hai bên. Phụ nữ ăn trưa ở Grill là một sự lạ, và anh nhìn theo cô khi họ được dẫn tới góc ngồi kế bên.
Người hầu bàn cắt ngang ý nghĩ của anh. “Khách của ngài đã tới”.
Armstrong bắt tay người khách rồi gọi hai ly vodka.
“Chuyến bay của ông thế nào?” Anh hỏi bằng tiếng Nga.
“Không tốt lắm” Valchek trả lời. “Không giống ông, tôi chẳng có sự lựa chọn nào khác ngoài Aeroflot. Nếu có bao giờ ông phải bay bằng hãng này, ông hãy uống thuốc ngủ, và đừng nghĩ đến chuyện ăn uống.”
Armstrong bật cười. “Còn đại tá Tulpanov thế nào”.
“Tướng Tulpanov gần như là nhân vật thứ hai của KGB, và ông muốn anh cho thiếu tướng Forsdyke biết ông vẫn cao hơn hắn ta”.
“Đó sẽ là một điều thú vị”. Armstrong nói. “Còn sự thay đổi nào trong các quan chức cao cấp mà tôi nên biết nữa không?”
“Không phải bây giờ”, anh ta ngừng lời. “Mặc dù tôi ngờ là Khrushchev sẽ không ngồi trên chiếc ghế đó được lâu hơn”.
“Và sau đó có lẽ ông cũng phải rời bỏ chiếc ghế của mình”. Armstrong nói.
“Nhưng điều đó không xảy ra chừng nào Tulpanov còn là sếp của tôi”.
“Thế ai sẽ là người kế nhiệm Khrushchev ?” Armstrong hỏi.
“Tôi đặt cuộc vào Brezhnev,”, người khách nói. “Nhưng vì Tulpanov có hồ sơ về tất cả ứng cử viên có khả năng, nên sẽ chẳng có ai dám thử thay thế ông.”
Armstrong mỉm cười nghĩ rằng Tulpanov đã không bỏ quên mối quan hệ với anh.
Người hầu bàn đặt một ly vodka khác xuống trước mặt người khách. “Tướng Tulpanov rất đề cao ông”. Valchek nói khi hầu bàn đã đi khỏi, “và không nghi ngờ gì nữa, ảnh hưởng của ông thậm chí còn tăng lên khi ông ấy được bổ nhiệm chính thức”. Valchek ngừng lời trong khi anh kiểm tra thực đơn trước khi đưa những yêu cầu bằng tiếng Anh cho người phục vụ đứng gần đó. “Hãy cho tôi biết”, anh ta tiếp tục khi người phục vụ đã đi khỏi, “tại sao tướng Tulpanov thường gọi anh là Lubji?”
“Đó cũng là một cái tên như tất cả những tên khác”. Armstrong nói.
“Nhưng anh đâu phải là người Nga”.
“Đúng là không phải”. Armtrong xác nhận.
“Và cũng không phải là người Anh?”
“Tôi còn Anh hơn cả người Anh”, câu trả lời của Amstrong dường như muốn vị khách im lặng. Một dĩa cá hồi bốc khói được đặt trước mặt anh ta.
Valchek đã ăn xong món thứ nhất và bắt đầu cắt miếng thịt hầm nhừ trước khi tiết lộ mục đích thật sự chuyến viếng thăm của mình:
“Viện Nghiên cứu Khoa học Quốc gia muốn xuất bản một cuốn sách kỷ niệm các thành tựu của họ trong cuộc chinh phục vũ trụ”, anh ta nói, sau khi chọn tương mù tạc Dijon. “Ngài chủ tịch cảm thấy rằng Tổng thống Kennedy đã đặt quá nhiều niềm tin vào chương trình của NASA, trong khi, như mọi người đều biết, Liên Xô mới là nước đầu tiên đưa được người lên vũ trụ. Chúng tôi đã chuẩn bị tài liệu chi tiết về những thành tựu của các chương trình của chúng tôi, dựa trên nền móng của Học viện Hàng không Vũ trụ. Tôi có một bản thảo 200 000 từ do các nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực này biên soạn, với hơn một trăm bức ảnh mới lấy tháng trước, các biểu đồ chi tiết và đặc điểm kỹ thuật của Luna IV và V…”
Armtrong gắng không cắt ngang lời Valchek. Anh ta phải hiểu rằng một cuốn sách như vậy sẽ vượt quá giới hạn, ngay cả truớc khi nó được xuất bản. Rõ ràng là còn có một lý do khác khiến anh ta phải vượt qua từng ấy quãng đuờng từ Moscow đến ăn trưa với anh. Song người khách của anh vẫn cứ nói chuyện lan man, thêm ngày càng nhiều những chi tiết phi lý. Cuối cùng anh ta đề nghị Armstrong cho biết ý kiến về dự án này.
“Tướng Tulpanov muốn in bao nhiêu bản?”
“Một triệu cuốn sách bìa cứng, được phát hành qua các kênh thông thường”.
Armstrong tự hỏi một cuốn sách như vậy liệu có thu hút được số độc giả trên toàn thế giới bằng một phần nhỏ con số vừa nêu hay không. “Nhưng chỉ riêng chi phí in…”, anh bắt đầu.
“Chúng tôi rất hiểu những nguy cơ ông sẽ gặp với một ấn phẩm như vậy. Vì vậy chúng tôi sẽ đặt trước một khoản tiền là năm triệu đô la, chỉ phát hành trong những nước mà cuốn sách này sẽ được dịch, để xuất bản và bán. Đương nhiên sẽ có một khoản tiền hoa hồng cho đại lý là mười phần trăm. Tôi cần nói thêm là tướng Tulpanov sẽ không ngạc nhiên lắm nếu nó không có trong danh mục những cuốn sách ăn khách nhất. Chừng nào anh có thể thể hiện trong báo cáo thường niên của mình rằng một triệu bản đã được in ra, là ông ấy hài lòng. Việc phân chia lợi nhuận mới là vấn đề”. Valchek nói thêm khi nhấp một ngụm vodka.
“Việc này chỉ xảy ra một lần?” Armstrong hỏi.
“Nếu ông thực hiện thành công…” Valchek ngừng lời để chọn một từ thích hợp, ” dự án này, chúng tôi muốn xuất bản chừng ấy cuốn sách bìa mềm vào năm sau, tất nhiên chúng tôi biết rằng cần có thêm năm triệu đô la nữa. Sau đó sẽ phải tái bản, soát lại các bản dịch.”
“Điều này hẳn đảm bảo cho hoạt động của các ông được liên tục ở tất cả các nước có sự hiện diện của KGB” Armstrong nói.
“Và là người đại diện của chúng tôi,” Valchek nói, bỏ qua lời châm chọc, “ông sẽ nhận được 10% trong bất kỳ khoản đặt cọc nào. Sau hết, chẳng có lý do gì để ông bị đối xử khác với các đại lý bình thường. Và tôi tin chắc rằng các nhà khoa học của chúng tôi sẽ còn viết được ra những bản thảo mới, xứng đáng được xuất bản hằng năm”. Anh ta ngừng lời. “Chừng nào những đặc quyền của họ còn được đền đáp vào bất cứ lúc nào và theo bất cứ giá nào mà chúng tôi yêu cầu”.
“Khi nào tôi được xem bản thảo?” Armstrong hỏi.
“Tôi có đem theo “, Valchek đáp, nhìn xuống chiếc cặp để bên cạnh. “Nếu ông đồng ý xuất bản, năm triệu đô la đầu tiên sẽ được trả vào tài khoản của ông ở Liechtenstein vào cuối tuần. Tôi hiểu là trước đây chúng tôi luôn cùng ông chỉ đạo mọi thương vụ như thế nào”.
Armstrong gật đầu. “Tôi cần một bản sao để chuyển cho Forsdyke”.
Valchek nhướng lông mày khi dĩa của anh ta được dọn đi.
“Anh ta có một nhân viên ngồi ở góc xa căn phòng”. Armstrong nói. “Vì vậy ông nên chuyển giao bản thảo ngay trước khi chúng ta rời khỏi đây, và tôi sẽ cầm nó theo. Đừng lo”, anh nói tiếp, cảm thấy sự lo lắng của Valchek. “Anh ta chẳng biết gì về xuất bản đâu, và phòng của anh ta có lẽ chỉ tốn thời gian để nghiên cứu những bức mật mã trong cuốn Sputniks”.
Valchek phá lên cười, nhưng chẳng buồn liếc qua căn phòng khi chiếc xe dọn món tráng miệng lăn tới bàn họ, mà chỉ chăm chú nhìn vào bảng giá trước mặt anh ta.
Trong một khoảng im lặng Armstrong chợt nghe được một từ vẳng ra từ bàn bên cạnh – “nhà in”. Anh bắt đầu lắng nghe cuộc đối thoại, nhưng Valchek lại hỏi ý kiến anh về một người Czech trẻ tuổi có tên là Havel mới bị bắt giam gần đây.
“Anh ta là nhà chính trị à?”
“Không, anh ta là…”
Armstrong đặt ngón tay lên môi ra hiệu cho người cộng sự cứ tiếp tục nói nhưng đừng đợi câu trả lời. Và người Nga hiểu ngay ý anh.
Armstrong tập trung vào ba người đang ngồi trong góc. Người đàn ông gầy gò, có giọng nói nhẹ nhàng ngồi sau lưng anh chỉ có thể là một người Úc, nhưng mặc dù giọng nói rất rõ ràng, Armstrong vẫn khó nghe được một từ nào của anh ta. Bên cạnh anh ta là cô gái đã hớp hồn anh ngay khi cô vừa bước vào. Anh đoán cô là người vùng Trung Âu và có lẽ quê hương cô không xa nơi chôn rau cắt rốn của anh là mấy. Bên phải cô, đối diện với người Úc là một người đàn ông có kiểu phát âm của miền Bắc nước Anh. Chưa bao giờ từ “bí ẩn” lại giải thích cho anh đầy đủ như vậy.
Khi Valchek tiếp tục nói nhỏ bằng tiếng Nga, Armstrong lấy bút từ túi áo ra và bắt đầu viết từng từ một xuống mặt sau tờ thực đơn – một công việc không dễ dàng, trừ phi bạn được một giáo sư dạy. Đây không phải là lần đầu tiên anh thầm cảm ơn những mẹo vặt của Forsdyke.
Anh viết nguệch ngoạc “John Shuttleworth, Chủ tịch WRG”, một lát sau “chủ”. Một khoảng thời gian trôi qua trước khi anh viết thêm “Tờ Tiếng vang Huddersfiel” và tên của sáu tờ báo khác. Anh nhìn chăm chăm vào mắt Valchek và tiếp tục lắng nghe sau đó viết tiếp “Leeds, ngày mai, lúc mười hai giờ”. Trong khi tách cà phê nguội đi “giá hợp lý là 120.000”. Và cuối cùng “các nhà máy đã đóng cửa một thời gian”.
Khi những người ở bàn bên chuyển sang nói chuyện về môn cricket, Armstrong cảm thấy rằng mặc dù anh đã nắm được một vài thông tin ở đây, ngay bây giờ anh cần trở về văn phòng càng sớm càng tốt nếu muốn hy vọng hoàn thành được bức tranh trước mười hai giờ ngày mai. Anh xem đồng hồ, và mặc dù mới lấy bánh mì và pudding bơ lần thứ hai, anh đã gọi tính tiền. Khi hóa đơn được đưa đến, Valchek lấy tập bản thảo dày từ trong cặp ra và hãnh diện đưa nó qua bàn cho anh. Khi trả tiền xong, Armstrong đứng lên, kẹp tập bản thảo dưới cánh tay và nói với Valchek bằng tiếng Nga khi họ đi qua bàn bên cạnh. Anh liếc nhìn cô gái và thấy vẻ mặt cô giãn ra khi nghe anh và Valchek nói chuyện bằng tiếng nước ngoài.
Khi họ ra đến cửa, Armstrong thưởng người hầu bàn một bảng. “Một bữa trưa tuyệt vời, Mario”, anh nói. “Và cảm ơn anh đã cho tôi ngồi gần một cô gái đẹp như vậy”.
“Tôi rất vui, thưa ngài”. Mario nói, bỏ tiền vào túi.
“Liệu tôi có thể biết tên người khách đã đặt bàn đó chứ?”
Mario lần ngón tay theo danh sách. “Một ông Keith Townsend nào đó, thưa ngài”.
Chỉ riêng điều này cũng đã có giá một bảng, Armstrong nghĩ khi đi ra khỏi nhà hàng trước vị khách của mình.
Khi họ ra đến ngoài đường, Armstrong bắt tay người bạn Nga và đoan chắc với anh ta rằng việc xuất bản sẽ được bắt đầu ngay. “Thật dễ chịu khi được nghe điều ấy, ông bạn”. Valchek nói, với một ngữ điệu Anh trau chuốt. “Còn bây giờ”, Armstrong nói ”Tôi phải rảo cẳng nếu không muốn muộn cuộc hẹn với người thợ may của tôi”. Anh nhanh chóng hòa vào dòng người trên phố Strand và biến mất ở ngả Savile Row.
Khi Benson chở anh tới văn phòng, trong đầu Armstrong chẳng có Tulpanov, Yuri Gagarin hay thậm chí cả Forsdyke. Khi lên tới tầng trên cùng anh xông thẳng vào phòng làm việc của Sally, thấy cô đang nói chuyện điện thoại, anh vươn tay qua bàn cắt ngang cuộc nói chuyện của cô. “Tại sao Keith Townsend lại quan tâm tới một cái gì đó có tên là WRG?”.
Sally, tay vẫn cầm ống nghe, nghĩ một lát rồi thốt lên, “Tổ hợp đường sắt miền Tây?”.
“Không, không đúng – Townsend chỉ quan tâm đến các tờ báo”.
“Ông có muốn tôi thử tìm hiểu không”.
“Có”, Armstrong nói. “Nếu Townsend đến London để mua một cái gì đó, thì tôi muốn biết đó là cái gì. Chỉ để nhóm Berlin làm công việc này, và không được để bất kỳ ai khác tham gia.”
Công việc này đã làm Sally, Peter Wakeham, Stephen Hallet và Reg Benson mất tới mười hai tiếng đồng hồ, trong lúc Armstrong báo cho kế toán và thủ quỹ biết họ có hai mươi tư giờ chuẩn bị.
Lúc 4 giờ 15 Armstrong đã nghiên cứu bản báo cáo về Tổ hợp xuất bản West Riding vừa được Dunn & Bradstreet chuyển cho anh vài phút trước đó. Sau khi soát lại các con số một lượt nữa, anh cũng đồng ý với Townsend rằng 120 000 bảng là một giá phải chăng. Nhưng dĩ nhiên đó là trước khi ngài John Shuttleworth biết rằng ông ta sẽ bị phá giá.
Lúc sáu giờ chiều toàn nhóm đã ngồi quanh bàn làm việc của Armstrong sẵn sàng cung cấp những phát hiện của mình.
Stephen Hallet đã tìm ra người đàn ông còn lại ở bàn là ai, và điều này được một luật sư có liên hệ với anh xác nhận. “Họ đã đại diện cho gia đình Shuttleworth qua nửa thế kỷ”, anh nói với Armstrong.
“Townsend có một cuộc họp với John Shuttleworth, chủ tịch đương thời, tại Leeds vào ngày mai, nhưng tôi không nắm được thời gian và địa điểm chính xác”. Sally mỉm cười.
“Tốt lắm, Stephen. Còn anh có cái gì, Peter?”
“Tôi có số nhà và địa chỉ văn phòng Wolstenholme, giờ chạy của chuyến tàu mà anh ta sẽ đi Leeds, và số đăng ký của chiếc xe mà vợ anh ta sẽ lái khi đón anh ta ở nhà ga. Tôi đã thuyết phục cô thư ký rằng tôi là bạn học cũ của anh ta”.
“Tốt, anh đã tìm hiểu được nhiều đây”, Armstrong nói. “Thế còn anh, Reg?” Anh phải mất nhiều năm để không còn gọi anh ta là binh nhì Benson.
“Townsend nghỉ ở khách sạn Ritz, và cô gái cũng vậy. Cô ta tên là Kate Tulloh”, anh nói tiếp, “hai mươi hai tuổi, làm việc cho tờ Sunday Chronicle”.
“Tôi nghĩ từ anh nghe được là Sydney Chronicle” Sally xen vào.
“Cái trọng âm Úc chết tiệt” Reg nói với giọng mũi đặc sệt người khu đông London. “Cô Tulloh”, anh tiếp tục, “như người hầu phòng khẳng định với tôi, không chỉ ở riêng phòng với ông chủ của mình, mà còn ở dưới ông ta hai tầng lầu”.
“Như vậy cô ta không phải là nhân tình của hắn”, Armstrong nói. “Sally, cô có bổ sung gì không?”
“Mối liên hệ giữa Townsend và Wolstenholme là do họ cùng học ở Oxford, theo như người thư ký của trường xác nhận. Nhưng có tin buồn là John Shuttleworth là cổ đông duy nhất của West Riding Group, và thực sự là một người ẩn dật. Tôi không tìm được địa chỉ của ông ta, và ông ta cũng không có điện thoại. Trên thực tế, trong nhiều năm qua không có ai trong số những người lãnh đạo tổ hợp nhìn thấy ông ta. Vì vậy ý nghĩ phá giá trước mười hai giờ trưa mai là phi thực tế”.
Tin tức của Sally làm tất cả im lặng, cuối cùng Armstrong lên tiếng “Vậy đấy. Hy vọng duy nhất của chúng ta là làm thế nào để ngăn không cho Townsend đến với cuộc gặp ở Leeds, và thay vào chỗ anh ta.”
“Chẳng dễ gì làm được việc đó nếu ta không biết cuộc gặp sẽ diễn ra ở đâu”, Peter nói.
“Ở khách sạn Queen”, Sally đáp.
“Làm thế nào mà cô chắc như vậy?” Armstrong hỏi.
“Tôi đã gọi điện tới tất cả những khách sạn lớn ở Leeds và hỏi xem liệu có người khách nào tên là Wolstenholme đặt chỗ trước không. Khách sạn Queen trả lời rằng vị khách này đã đặt Phòng Hồng bạch từ mười hai giờ đến ba giờ, và yêu cầu được phục vụ bữa trưa cho bốn người vào lúc một giờ. Thậm chí tôi có thể nói cho ông biết thực đơn gồm những món gì”.
“Tôi không biết tôi có thể làm gì nếu thiếu cô, Sally”, Armstrong nói “Bây giờ, hãy rút ra lợi ích từ những điều ta đã biết. Wolstenholme đang ở…”
“Anh ta đang trên đường trở về Leeds”, Peter xen vào, “anh ta đi lúc 6 giờ 50 phút từ ga King’s Cross. Anh ta chắc sẽ tới nơi vào 9 giờ sáng mai”.
“Còn Townsend và cô gái?” Armstrong hỏi “Reg?”
“Townsend đã đặt ô tô đưa họ tới ga King’s Cross lúc 7 giờ 30 phút ngày mai, nhờ vậy họ có thể đi chuyến tàu 8 giờ 12 phút và đến Leeds vào 11 giờ 47 phút, họ có đủ thời gian tới khách sạn Queen vào đúng giữa trưa.”
“Như vậy từ bây giờ đến 7 giờ 30 phút ngày mai chúng ta phải làm cách nào đó để ngăn không cho Townsend lên tàu đi Leeds”. Armstrong nhìn khắp phòng, nhưng chẳng thấy ai tỏ ra hy vọng. “Và chúng ta sẽ phải đạt được một điều gì đó”, anh nói thêm, “vì tôi có thể nói với mọi người rằng Townsend còn lợi hại hơn Julius Hahn nhiều, và cô Tulloh cũng không phải là một kẻ ngớ ngẩn.”
Tất cả lại im lặng, sau đó Sally lên tiếng. “Tôi không có đề xuất đặc biệt gì, nhưng tôi phát hiện ra là Townsend đã ở Anh khi cha anh ta qua đời”.
“Vậy sao?” Armstrong thốt lên.