Buổi chiều hôm đó tôi trốn đi để tìm Cha Vincenzo.
Tôi đã không thấy ông suốt cả nhiều ngày kể từ lúc tôi nghĩ rằng những tội lỗi tôi có là do tự nguyện phạm phải, nhưng giờ đây tâm hồn tôi quá trĩu nặng với sự hối hận không thể chịu được lâu hơn nữa. Khi tôi tìm thấy ông, ông đang ở một mình trong phòng cầu nguyện, và tôi nghĩ ông đã nghe vài thứ về những chuyện đã xảy ra, vì ông chào tôi mà không hề ngạc nhiên, dáng vẻ hiền lành của ông nói lên nhiều điều hơn so với những lời gò bó mà ông nói. Chậm rãi, lời cầu nguyện quen thuộc bắt lấy sự chú ý của tôi, làm mờ đi nỗi kinh hoàng tột độ của khu rừng quang đãng, và tôi đang quỳ đứng lên, cảm thấy được an ủi.
“Lần sau, con gái, đừng đợi đến khi con phải chịu a id=”filepos929802″>ựng tình cảnh giống thế này mới đến tìm ta; và hãy nhớ, con không phải người phán xét sức nặng tội lỗi con phạm phải.”
Tôi đỏ mặt khi bắt gặp vẻ quan tâm điềm tĩnh của người cha xứ. “Chúng đủ nặng bởi bất kỳ sự tính toán nào, thưa Cha.”
“Nhưng không quá nặng đến mức để con vò nát lương tâm mình; nếu chúng nặng đến mức đó, con sẽ không đến tìm ta. Công tước chỉ dùng lời thú tội như một cách để làm ta căm phẫn; cái chết của một người đàn ông đối với ngài ấy cũng chẳng đáng gì như mất một chiếc găng tay. Ta chỉ trích ngài ấy, nhưng ta nghi ngờ rằng ngài không sợ bất cứ thứ gì ngoài bóng tối trong chính tâm trí ngài.”
Tôi hẳn phải làm điều gì đó để bị tiết lộ, vì ông nhìn tôi đầy sắc sảo và gật đầu.
“Con cũng biết về nó. Ta nghĩ con hẳn phải đoán được vài thứ – nó còn hơn cả sự thèm muốn của một vị thần đưa ngài ấy vào con đường quỷ dữ. Ta đã tìm cách để ngài nói ra trong lời xưng tội, nhưng ngài ấy không làm thế – ta nghĩ có lẽ ngài không biết chính bản thân ngài là gì.”
“Ngài ấy bị ám ảnh.” Tôi khó khăn nói, quan sát những ngón tay mình khi chúng quấn lại với nhau. “Con sẽ không nói với cha nhiều hơn thế. Nhưng lòng kiêu hãnh không để ngài ấy thú nhận rằng có sự tồn tại của một thứ có thể làm ngài kinh hãi, nên ngài ấy chẳng bao giờ nói về nó.”
“Không cả với con sao?”
Tôi lắc đầu. “Con chỉ là tình nhân của ngài. Thỉnh thoảng ngài ấy nói trong giấc ngủ, chỉ vậy thôi.”
Cha Vincenzo không trả lời ngay. Ông trầm tư trong một thoáng rồi nói. “Ngài ấy đang dần thay đổi. Con có biết lòng kiên định ngài ấy dành cho con là điều kỳ diệu của cung điện không?”
“Piero…” Lưỡi tôi va vấp. “Piero della Quercia nói thứ gì đó giống thế, nhưng một phần ba lời ngài Piero là lời dối trá. Tất cả những gì con biết là có thể còn vô số người khác.”
“Công tước sẽ không tử tế đến mức đó khi không nói với con về họ. Ngài ấy có thói quen ưa thích là dày vò những cô gái ngài ấy yêu mến với cảnh tượng nhìn ngài và một người khác, và rồi trong cùng đêm, ruồng bỏ cả hai người phụ nữ. Và vinh dự ngài ấy trao cho con tại buổi lễ đăng quang đã được loan truyền khắp Italia…”
“Ngài ấy làm thế để chọc tức người chú.” Tôi cay đắng cắt ngang. “Việc đó không gì hơn một biểu hiện rằng ngài có thể làm bất cứ gì mình thích vì bây giờ ngài là Công tước.”
Vị linh mục thở dài. “Giống như thế.”
“Và con biết ngài ấy chỉ giữ con đến khi ngài ấy kết hôn. Ngài ấy nói vậy với con.”
Tôi đã biết được sự thật đó trước khi nói ra; nhưng âm thanh những lời đó, sự thẳng thừng gây đau đớn đến mức tôi đứng bất động như thể mình đã lãnh một vết thương, không dám di chuyển vì sợ nỗi đau sẽ dần tăng. Cha Vincenzo liếc tôi một cách sắc bén, và khi nói lần nữa, giọng ông thấp và dịu dàng.
“Hãy nhớ, con gái, ta sẽ luôn gánh lấy nửa gánh nặng cho con nếu con yêu cầu ta.”
Tôi cúi đầu chào trong ngập tràn biết ơn bất ngờ và hôn lên bàn tay gầy gò của ông, và khi tôi làm thế, một giọng nhạo báng vang lên từ ngưỡng cửa.
“Đây là sự hiến dâng, Ippolito! Em yêu, có phải nàng đang tìm kiếm kiểu cách trong lòng mộ đạo? Nàng sẽ có vài kẻ theo sau cho việc đó.”
Tôi quay lại để thấy Domenico tại ngưỡng cửa, Ippolito và bộ tứ bám sát gót. Anh thơ thẩn lười nhác, nụ cười nửa miệng coi thường trên môi, và tôi buộc phải tuân theo tiếng búng tay độc đoán của anh; chỉ khi tôi đến cạnh bên, tôi mới có thể thấy vẻ xa xôi, chưa từng có sâu trong đôi mắt đen ấy.
Anh tiếp tục một cách êm ả, những ngón tay gần sát ngón tay tôi. “Có phải nàng đang tìm kiếm lời miễn xá cho tội lỗi nàng phạm phải? Lẽ ra nàng nên hỏi xin sự tha thứ từ ta – ta thề ta có thể làm cho nàng ăn năn nhẹ nhàng hơn bất cứ tay linh mục nào.”
Những người phía sau anh cười khẩy, và vị cha xứ mỉm cười khá buồn bã. Tôi nói, “Ngài sẽ ở lại chứ, thưa Đức ngài?” nhưng lắc mạnh đầu, gần như giận dữ.
“Ta vẫn sẽ giữ lấy con đường của chính mình, ta nghĩ thế.” Giọng anh nhẹ nhàng, nụ cười vẫn trên môi. “Và sự thật những lời cầu nguyện của nàng giữ ta khỏi những móng vuốt quỷ dữ.”
“Điều đó nằm ngoài khả năng của em, thưa Đức ngài.”
“Sao, khi nào nàng trở lại với tên giáo sĩ nghe xưng tội tốt lành của ta tại đây?” Domenico khinh thường khẽ liếc về phía Cha Vincenzo. “Với ông ấy, linh hồn ta chẳng khác nào là chuồng bò Augean của Heracles.[19]”
Vị linh mục trẻ cúi đầu. “Ta cám ơn Đức ngài vì sự so sánh. Heracles hoàn tất công việc nặng nhọc đó, và cả mười một kỳ công
Domenico thẳng người. “Hãy làm thế cho ta, và ta sẽ phong ngươi làm tổng giám mục kế tiếp.”
“Đức ngài quên mất,” vị linh mục dịu dàng đáp lại, “rằng ngài vẫn chưa là Đức giáo hoàng.”
Domenico cứ như không nghe; những ngón tay anh cứng lại quanh tay tôi, và cái nhìn đăm đăm lãnh cảm của anh dính chặt vào tôi. “Nếu nàng không lén lút rời khỏi ta, nàng có thể nghe được tin ta nói với quần thần – chúng ta sẽ khởi hành lần nữa. Chúng ta sẽ đi đến Fidena vào sáng mai.”
“Fidena! Nhưng em nghĩ ngài có ý ở lại đây đến khi…”
Đến khi con gái Savoy đến, tôi có ý nói thế, nhưng anh cộc lốc cắt ngang.
“Không cần nữa. Ông chú ta vẫn ở lại trông nom những công việc tại đây, và chúng ta không cần thiết lừa gạt ở đây lâu hơn.” Vẻ đột ngột mất kiên nhẫn trong giọng anh cảnh báo tôi, và tôi cúi đầu phục tùng; những thứ tôi cố thử làm bằng lời nguyện cầu, anh theo đuổi bằng cách lẩn trốn, bỏ Diurno lại phía sau.
Nhưng như tôi được nghe, có quá nhiều tiếng càu nhàu trong cung điện khi chuyến đi được thông báo, Sandro còn chửi thề thẳng thừng và hờn dỗi vang như tiếng sấm.
Chúng tôi khởi hành trở về chậm hơn nhiều so với lúc đi, Ippolito trò chuyện với tôi vào tối đó, và anh ấy mỉm cười khi thấy vẻ mặt tôi.
“Đừng trông quá rầu rĩ thế, quý cô. Chúng ta sẽ không phi nước kiệu. Nhìn này.” Anh ấy lôi một tấm bản đồ ra từ túi. “Hãy nhìn những ngọn núi kia – và đây khi con đường băng ngược tới biên giới Marches – những cái đó và những tòa lâu đài thuộc về những ngài lãnh chúa của Công tước. Chúng ta sẽ ở lại mỗi nơi một hay hai đêm, đón mừng chiến thắng – và dễ dàng ngủ lại – và đó là thứ sẽ khiến cuộc hành trình của chúng ta chậm hơn.”
Tôi thở dài nhẹ nhõm. “Anh thật là nguồn an ủi tuyệt vời với tôi, thưa ngài.”
Anh ấy giật mình trong s giả vờ. “Đừng nói thế trước Công tước, quý cô. Tôi sẽ không thoải mái nhiều khi không còn đầu đâu.”
“Sao, quý cô!” Giọng Sandro khiến tôi nhảy dựng lên. “Ta phải kể câu chuyện của cô với em trai ta nếu cô dồn người thư ký của cậu ấy vào góc.”
Tôi nhìn quanh và thấy hắn đang quan tâm tới tôi một cách giễu cợt, và cười lớn. “Chúng tôi đang nói về cuộc hành trình trở lại Fidena, thưa ngài. Ngài Ippolito đang chỉ cho tôi lộ trình chúng ta sẽ đi.”
“À, phải.” Đôi mày Sandro nâng lên. “Một tuần ngoằn ngoèo qua những khe hở và hẻm núi để nghỉ một hay hai đêm, tại những lâu đài đổ nát mà chủ nhân chúng tìm kiếm để lảng tránh những thứ thuế của đứa em trai hoàng gia của ta. Cô sẽ thích thú thôi!”
“Ngài không đi với chúng tôi sao?” Tôi hỏi nhanh.
“Còn lâu ấy! Nơi người thư ký của ta đặt có con mụ còm cõi trên cỗ xe bốn bánh nặng trĩu. Ta và người của mình có thể đi cùng một chuyến hành trình trong bốn ngày; và ta có sự cho phép đúng mức để dẫn đầu. Ta nói với em trai mình về lời tuyên bố kết hôn với một cô gái trẻ, nên ta mong ước được rời đi nhanh chóng – lời đó đủ để là một câu chuyện.”
“Ngài ấy tin ngài sao?”
“Không một từ nào,” Sandro hồ hởi thú nhận, “nhưng cậu ấy nhìn ta từ dưới hàng mi, vậy đó, và nói trong giọng nghe cứ như hứng thú, ‘Anh có những lý do của anh, ta không nghi ngờ; đi đi nếu anh muốn.’ và ta làm theo lời cậu ấy.” Hắn nhăn nhó khiếm nhã. “Dường như cậu ấy luôn có cách để biết điều gì trong tâm trí một thằng đàn ông.”
Và cả của phụ nữ nữa, tôi gượng gạo nghĩ. Rồi tôi thấy cái gật đầu thấu hiểu của Ippolito và cảm giác vui mừng rằng mình không phải là người duy nhất không thoải mái bởi cái nhìn chằm chằm tối tăm của Domenico.
Có thể bởi tôi quen với sự thiếu tiện nghi trong cuộc hành trình của cung điện, nhưng hành trình trở về bờ biển dường như ngắn hơn con đường đất liền đã đi. Tôi chỉ biết vui mừng vì đã rời Diurno, vì thành phố xinh đẹp ấy trong trí nhớ tôi là nơi với những hình ảnh của chết chóc cùng sợ hãi, và tôi sẽ đi đến bất cứ đâu hơn là ở lại đó. Tổng giám mục đã giận điên lên, cãi nhau với Domenico về chuyến khởi hành đột ngột của anh, dù cố nhấn mạnh đến con gái Savoy như một lý do để anh ở lại và đợi, nhưng Công tước đã không nghe.
“Cứ để cô ấy đến sau.” Anh hờ hững nói. “Trở thành nữ Công tước xứ Cabria xứng đáng với một ít nỗi đau – và chú sẽ ở đây để chăm sóc cho cô ấy.”
Thỉnh thoảng, khi những con đường núi không quá dốc, anh để tôi cưỡi ngựa thay vì ngồi trong cỗ xe bốn bánh gập ghềnh. Lúc đầu, tôi háo hức vì những sự nghỉ ngơi đó; nhưng giờ đây tôi sợ hãi chúng, vì anh tự làm mình thích thú bằng cách trêu chọc khi chúng tôi cưỡi ngựa, với một trộn lẫn giữa ác ý và hứng thú khinh khỉnh khiến hai má tôi như bị thiêu đốt. Cứ như thể anh chỉ chịu đựng sự hiện diện của tôi vì lợi ích đến giường tôi mỗi đêm, và anh không bận tâm đến việc che giấu sự thật. Sự lơ đễnh của anh, gần như là sự chiếm hữu khinh thường khoác lên chiếc mặt nạ hờ hững đã lớn dần trong anh, kể từ cái đêm anh mang tôi trở lại cung điện. Vào đêm, anh sử dụng tôi tàn nhẫn, thúc ép câu trả lời của tôi mà không hề có dấu vết của sự dịu dàng, và chế nhạo khi tôi đầu hàng, và ban ngày, dù anh giữ tôi ngay cạnh vào bất cứ lúc nào, trong mắt anh là vẻ xa cách, gần như căm ghét.
Tôi buồn bã liếc trộm vẻ mặt nhìn nghiêng của anh. Anh không tỏ bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy việc quan tâm đến cô dâu vẫn tiếp tục vắng mặt của anh; không thể nào là do tính nóng vội của một người yêu khiến anh ác nghiệt đến thế. Chỉ có thể là do tôi đã, sau cùng, giết chết nỗi ham mê anh dành cho tôi bằng cách chạy đi khỏi anh, và rằng anh chỉ đợi đến khi tới Fidena để vứt bỏ tôi.
Bản năng nào đó khiến anh quay đầu lại, và tôi nhanh chóng hạ cái nhìn chăm chăm của mình xuống; nhưng anh đã thấy, và tôi thấy môi anh cong lên ác ý khi tôi khiếp sợ.
“Ippolito.” Sung sướng vì anh lên tiếng với người thư ký, không phải với mình, và Ippolito thúc con ngựa chậm chạp tới trước với một cú đá mạnh.
“Vâng, thưa Đức ngài?”
“Còn bao lâu nữa trước khi tới Corveteri? Ta nghĩ quý cô đây đã mệt.”
“Chưa tới nửa giờ nữa, thưa Đức ngài. Khi chúng ta tới đoạn đầu của hẻm núi này, đoạn đường uốn lượn qua bề mặt con dốc đứng và sẽ mang chúng ta đến lâu đài.”
Con ngựa của tôi bồn chồn lo lắng, như thể nó cùng chia sẻ sự không thoải mái của tôi, và bàn tay Domenico nắm chặt dây cương dẫn đường. “Em yêu, vậy thì chịu đựng thêm một lúc nữa thôi. Nàng sẽ sớm ở trên giường mình.”
Tôi nghe một âm thanh kiềm lại từ Ippolito nhưng không dám nhìn xung quanh. Thay vào đó tôi kéo bản thân mình dậy, kiên quyết với lòng tự trọng bị xúc phạm, và nghe Domenico nói trong một giọng suy xét. “Đó là tư thế tốt nhất của nàng trong suốt cả ngày, nhưng đừng giữ chặt dây cương như thế.”
Khi chúng tôi tới cánh cổng của lâu đài Corveteri, anh xuống ngựa gần như trước khi người nài ngựa chạm tới đầu nó. Tôi chớp mắt trước chuyển động hoàn toàn duyên dáng, rồi thấy anh đang đứng cạnh con ngựa tôi với lời đòi hỏi cứng rắn trên vẻ mặt.
“Nào.” Anh cộc lốc nói, và tôi trượt khỏi yên ngựa vào vòng tay anh mà không hề nghĩ tới việc quan sát những người hầu, hay vị bá tước và nữ bá tước đang đợi với lũ trẻ con của họ kêu ầm ĩ nơi bậc thềm lâu đài.
Tám ngày sau khi rời khỏi Diurno, đoàn người ngựa của Công tước đang đi men dọc bìa rừng tiếp giáp vùng đồng bằng xung quanh Fidena. Tôi đang cưỡi ngựa cạnh Domenico, bỏ lại Niccolosa một mình trong xe ngựa cọt kẹt xuống những chân núi và bắt đầu đi dọc theo vùng đất bằng phẳng. Ngay cả những con ngựa dường như cũng háo hức đến thành phố – vì nhiều ngày nay chúng đã lê bước nặng nhọc qua những ngọn núi như thể tin rằng cuộc hành trình sẽ bất tận, nhưng hiện tại chúng vểnh tai lên và phóng mình tới trước, bất chấp dây cương, cứ như thể chúng ngửi được mùi chuồng trại. Những nhà quý tộc rã rời thẳng lưng trên yên ngựa; cả hàng người dường như vút nhanh qua những cây cối um tùm, trong một sự dâng tràn bất ngờ.
Khi chúng tôi qua những thôn xóm nhỏ xa xôi hẻo lánh ở phía tây Fidena, tôi để ý những cánh đồng quá mức yên tĩnh. Thông thường, người ở lại làm việc tới tận khi mặt trời lặn, nhưng ý nghĩ đó chỉ nhá qua tâm trí và đi mất khi tôi lướt qua những bức tường của thành phố, lúc đầu nhìn như lớ sương mờ ảo nhòe nhoẹt trên miệng đèo bên trên vịnh, sau đó là những đường nét ngoài quen thuộc khi chúng tôi tới gần hơn. Rồi Domenico thắng mạnh cương; cả đoàn người ngựa tả tơi dừng lại, và ngay lập tức, sự ầm ĩ phát sinh từ tiếng la hét của những người cưỡi và lũ ngựa bồn chồn của họ, và những giọng nói rít lên yêu cầu biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi dõi theo cái nhìn chằm chằm nheo lại của Domenico, và thấy một tốp người cưỡi ngựa dính chặt nhau vây quanh chúng tôi. Tôi thấy Giovanni Santi dạng chân ra trên con ngựa gầy trơ xương, rồi nhận ra rằng Sandro là thủ lĩnh của họ; gương mặt thô kệch dữ tợn, và bóng những đêm không ngủ viền quanh mắt. Hắn thẳng tới chỗ Domenico, giật mạnh con ngựa dừng lại trước anh.
“Em tốt hơn nên quay trở lại Pinzi, em trai, hoặc là cưỡi ngựa dọc theo bãi biển đến Sorentino. Fidena không an toàn.”
“Anh đang giỡn à?” Giọng Domenico khàn đi.
“Chúa ơi, anh ước gì mình đã đùa! Naples đang kích động chống lại chúng ta.” Ngay tức khắc trong mắt Sandro không còn vẻ cười cợt. “Anh nhận được tin khi đến đây ba ngày trước. Anh đã cố thử vào thành phố bị vây hãm – quân đội kẻ thù sẽ đến vào bất cứ lúc nào. Bọn anh nghĩ em là hắn ta khi em đến.”
Domenico nói. “Chúng ta đã dẩy lùi những gã lính của hắn chưa đến hai tháng trước. Hắn không thể tập hợp đội quân khác nhanh đến vậy.”
“Hắn đã tuyển quân mới từ Tây Ban Nha.” Santi xen vào, và Sandro ném cho gã một cái liếc đầy sát khí.
“Vậy ra tin đồn là thật.”
Domenico đang cau mày. “Tây Ban Nha! Vậy ra con chó cà tàng đó tìm kiếm sự giúp đỡ từ chủ nhân của hắn! Phải vậy, hoặc hắn không thể chống lại chúng ta sớm đến thế. Đi nào, anh sẽ nói cho ta những gì anh biết khi cưỡi ngựa.”
Ngài Con hoang không di chuyển. “Em tốt hơn nên đưa bản thân và người của mình đến nơi an toàn hơn. Anh sẽ bảo vệ thành phố.”
Trong khoảnh khắc, chỉ có sự im lặng dường như làm bất động tiếng hỗn độn xung quanh. Domenico đang quan sát anh trai như con báo dõi theo một con chó sói. Rồi anh lạnh lùng nói. “Chúng ta sẽ không gây rắc rối cho cương v quản lý của anh.”
Gương mặt Sandro không thay đổi, nhưng tôi có thể thề hắn bị xao động. “Vậy, theo lệnh em thôi,” hắn ôn tồn đáp trả, “nhưng em sẽ ước đã nghe theo lời khuyên của anh.”
Đôi môi Domenico nhẹ cong lên giễu cợt cũng đủ là câu trả lời, và anh búng những ngón tay đeo găng cho Sandro quay ngựa lại và đến bên anh. Sandro tuân theo, và trước một tín hiệu, cả đoàn người ngựa di chuyển lần nữa.
Tôi chỉ nghe những mảnh rời rạc từ câu chuyện của Sandro khi chúng tôi nhẹ phi nước kiệu đến Fidena, nhưng nguyên nhân chính hoàn toàn rõ rệt. Hắn đã đi nhanh khỏi Diurno, đến nơi ba ngày trước để nhận ra thành phố rối loạn trong khiếp sợ. Những nông dân nơi vùng ngoài hẻo lánh đã bị nhồi nhét vào trong thành phố với những người bà con trong những bức tường; thành phố cảng đóng lại và cảng cung cấp người trong trường hợp để phòng sự xâm lược có thể đến từ đường biển.
“Chúng thậm chí không dỡ hàng khỏi tàu.” Hắn khinh bỉ nói. “Chúng bỏ bốn kiện hàng hóa ngũ cốc thối rữa lại trên vịnh. Anh thấy thế và gửi người đi để khám phá ra tên xâm lăng lần này là ai, và lực lượng của hắn bao lớn. Người của anh mang trở lại một tên đại sứ từ Vua xứ Naples với những lá thư cho em, nên anh cám ơn lòng tốt của gã và gửi gã trở lại cổng, đề phòng trường hợp gã làm gián điệp cho chủ nhân gã.”
“Những lá thư đâu?”
“Đang đợi sự chú ý tử tế của em, em trai, trong cung điện. Anh chưa đọc chúng.”
Domenico im lặng trong suốt cuộc hành trình còn lại, và tiếng móng ngựa của anh vang lên một cách đáng ngại khi lọc cọc qua cánh cửa thành phố. Giờ đây không có tiếng thì thầm nào hoan hô nhiệt liệt gầm lên đón chào anh trong buổi chiều như khi anh cưỡi ngựa ra khỏi Diurno; những con đường câm lặng như thể trong giờ giới nghiêm. Cả thành phố đang đợi chờ.
Anh xuống ngựa nơi cửa phía nam của lâu đài, và cùng những người khác – bộ tứ, Sandro, Ippolito, Santi, và vài người nữa. Tôi do dự, thấy bản thân mình bị quên lãng, nhưng khi Ippolito giúp tôi xuống ngựa, anh ấy thì thầm, như một người có âm mưu. “Tốt hơn là cô đi cùng chúng tôi, quý cô. Công tước có thể muố
Tôi biết anh sẽ chẳng muốn tôi đâu, nhưng đó là một ý nghĩ tử tế. Tôi theo sau những người đàn ông lên cầu thang đã mòn, cong cong để đến một căn phòng bằng đá rỗng không ở tận đỉnh tháp, nơi những dòng ánh sáng mỏng manh tuôn trào sắc vàng qua những khe hở của khung cửa sổ. Thậm chí với trọn ánh sáng ban ngày cũng không đủ để nhìn thấy, và tôi thụt người vào bóng tối khi những người hầu vội vã thắp sáng, đứng không bị chú ý tới lúc những ngọn nến được thắp lên. Ngay cả trong những nơi nhỏ nhoi, nỗi sợ của sự vây hãm là rõ ràng; bây giờ có nhiều ngọn nến hơn so với trước kia.
Domenico đang bước đi như một con báo bị nhốt, thỉnh thoảng quay lại để bắn ra câu hỏi với Sandro, người đang đứng một cách vô cảm quan sát anh trong khi những người còn lại đơn giản là chờ đợi, đôi mắt họ lấp lánh lạ lùng trong ánh nến. Trong im lặng, tôi có thể nghe thấy tiếng những cỗ xe và ngựa rầm rập, lọc cọc băng qua cánh cửa dưới chúng tôi. Tôi bước trở lại nơi cửa sổ để tìm kiếm; tiếng ồn ấy nhắc tôi nhớ, một cách ngớ ngẩn, đến quán Eagle.
“Anh đã gửi tin đến đơn vị trú tại Lâu đài Fucino rồi chứ?” Câu hỏi bất ngờ của Công tước khiến tôi giật mình, và tôi quay lại, thấy Sandro đang lắc đầu.
“Vẫn chưa cần họ. Đến khi nào chúng ta có tin tức chắc chắn hơn lời đồn, họ tốt hơn nên ở lại đó – chúng ta sẽ có ít miệng ăn hơn.”
“Nếu chúng ta không gửi tin sớm, họ sẽ đến quá trễ để tấn công bọn Tây Ban Nha.” Câu bắt bẻ châm chích như sợi roi da. “Hay anh có mục đích để họ báo thù cho Fidena đổ nát?”
Sandro nhún vai. Hắn đã thế, hắn truyền đạt, ba ngày để ngẫm nghĩ đến từng câu hỏi sẽ bị bắn vào mình, và không đòi hỏi tức giận nào từ Domenico có thể thay đổi diễn biến các sự kiện. Về phần hắn, tốt hơn là bị bỏ lại một mình để có lời đưa ra về việc vây hãm, nhưng nếu Công tước khăng khăng…
“Những lá thư từ Naples.” Domenico tạm dừng lần nữa vả rồi hỏi sắc bén. “Chúng đâu?”
Trước tín hiệu từ Sandro, Santi bước tới trước và giơ chúng ra một cách không kiểu cách. Công tước gật đầu cụt ngủn, quay lại, và trải tấm da dê lên những tấm bản đồ trên bàn, cúi người trên ánh nến bừng cháy phía trên để đọc. Không có âm thanh nào trong phòng ngoài tiếng sột soạt của trang giấy; ánh sáng bên dưới vẽ ra những hình bóng quỷ quái đến lạ trên gương mặt xinh đẹp, chạm vào mái tóc bạc ánh kim với một vầng hào quang vàng ấm áp. Chẳng có lời cảnh báo, nỗi đau từ tình yêu vô vọng nhấn chìm tôi lần nữa, và tôi đứng trong bóng tối, toàn thân run lẩy bẩy.
Cuối cùng Domenico lên tiếng, vẫn đang nhìn bức thư. Giọng anh nhẹ nhàng như cơn gió thoảng mùa hạ.
“Có phải ta đã nói rằng Naples là một thằng quê mùa thô kệch?”
“Chắc chắn là ngài đã nói, thưa Đức ngài – và hắn ta đúng là như vậy.”
“Ta chỉ mới nói một nửa, Ippolito. Hắn không chỉ là một thằng quê mùa thô kệch mà còn là một tên đểu cáng – một tên đểu cáng đang sống – và giờ hắn thử những trò đểu giả lên ta!” Anh đập mạnh xuống bàn khi ngẩng đầu lên, đôi mắt rực sáng.
“Hắn nói gì, thưa Đức ngài? Có phải là tranh luận về lãnh thổ?”
“Hắn đòi có tất cả.” Giọng Domenico run lên, và những ngón tay chậm rãi siết lại, vò nát lá thư. “Hắn đề nghị tất cả Cabria nhân danh người mẹ nữ Công tước của ta, để mua niềm yêu thích từ lãnh chúa Tây Ban Nha của hắn.”
Một hơi thở rít lên trong phòng khi những người cận thần nhìn lẫn nhau.
Ippolito trông tái mét. “Nhưng bà ấy không có quyền yêu cầu!”
“Bà ta đã được mời một lần. Bà đưa Naples bằng chứng rằng cha ta để lại bằng chúc thư cho bà ngai vàng như một người nhiếp chính suốt đời. Hắn bảo ta nhường lãnh địa Công tước của mình cho con mụ điếm già cả đó, và nói rằng nếu ta không làm thế, hắn sẽ giành lấy bằng vũ lực. Nhân danh Chúa, phải chăng hắn hy vọng ta đưa cho hắn trong thuần phục?”
Có tiếng bép xép phản đối ngay tức khắc.
“Hắn phải biết câu chuyện là sai trái, thưa Đức ngài.”
“Nội dung bức chúc thư của người cha hoàng tộc của ngài để lại ai cũng biết cả. Nữ Công tước không có bằng chứng như thế.”
“Đó chỉ là cái cớ để bao bọc sự xâm lăng của hắn.”
“Một cái cớ!” Đôi mắt Domenico lóe sáng, và giọng tăng lên thành tiếng hét. “Ngươi gọi tội mưu phản bằng cái tên đó sao, hả?”
Andrea Regnovi, kẻ nhút nhát nhất của bộ tứ, run sợ. “Thưa Đức ngài, tôi chỉ có ý… khám phá ra một cách chính đáng đây không phải là sự mưu phản… Vua xứ Naples không phải thần dân của ngài, và…”
Một cú đánh dữ dội làm gã im lặng, và Domenico chằm chằm nhìn xuống hắn, khuôn mặt đẹp ửng đỏ và nhăn lại vì giận dữ. “Thằng ăn mày láo xược! Vậy, ngươi sẽ trợ giúp lũ phản bội đó, và ướp đường túi mật đắng này bằng miệng lưỡi ngươi… Đó là gì nếu không phải là sự phản bội?”
Ippolito nhanh chóng can thiệp. “Thưa Đức ngài, cậu ấy không có ý xấu! Một người ngu xuẩn không biết lựa chọn lời nói không phải một kẻ phản bội.”
Domenico dừng lại, hơi thở trở nên ngắn và nhanh. Tôi quan sát với sự kinh hãi tột độ khi Ippolito gắng sức để giữ anh bình tĩnh; thứ gì đó đã phát ra cơn thịnh nộ của loài thú, quá khác so với vẻ giận dữ lạnh nhạt thường lệ của anh. Anh đang run lên vì điên tiết, gương mặt đỏ lên nguy hiểm, và hồi chuông báo động sợ hãi thực sự sắc nét trên gương mặt điểm trang của nhóm bốn người khi họ quan sát anh. Chỉ có Sandro chăm chăm nhìn mà không thay đổi biểu cảm.
“Đức ngài… đức ngài của tôi…” Ippolito đang không quan tâm anh nói gì. Rồi, đột ngột, Domenico lắc lư. Lời nguyền rủa nghẹn lại trong miệng, và những ngón tay anh nắm chặt cạnh bàn cho đến khi những đốt ngón tay sáng lên trắng bệch. Rồi anh nửa quay đi và đơn giản rơi xuống, vô thức đổ sụp vào vai Ippolito.
Khoảnh khắc ấy kéo dài. Tôi thấy chính mình đang cầu nguyện liên tục, “Làm ơn, Chúa ơi, đừng để anh ấy chết.” và thấy cùng nỗi sợ hãi dán trên gương mặt có tuổi của Ippolito trước khi Domenico lay động. Anh đứng thẳng, nhìn chằm chằm xuống người thư ký với đôi mắt như mù lòa; rồi một giọng nói trẻ con run rẩy lên tiếng, “Thứ điên rồ này khuấy đảo ta.” và anh quay lại cái bàn trải tấm bàn đồ như thể chưa có chuyện gì xảy ra.
Cả hàng giờ, cuộc thảo luận nảy lửa qua lại, chạm đến đồng minh, hiệp ước, đường tiếp tế. Tôi nhớ một lần, từ rất lâu, đã cảm giác mỏi mệt và mong về khoảng thời gian khi đến Fidena. Giờ đây ý nghĩ đó dường như trở nên buồn cười – không có thời gian để mệt mỏi. Những cỗ xe ngựa đã dừng lại hồi lâu, lọc cọc qua cánh cổng bên dưới, và cung điện chìm trong thứ tĩnh mịch âu lo. Tôi chỉ có thể đoán chúng tôi đã ở đây bao lâu qua những dòng sáp nhỏ lấp kín chân đế ngọn nến.
Sandro bất ngờ ngáp dài và toe toét cười xung quanh với những người tụ tập.
“Chà, xâm lăng hay không xâm lăng, ta đi ngủ đây. Ta đã quan sát mấy thứ này qua cả hai đêm, và ta sẽ không tử tế đâu nếu bọn Tây Ban Nha đến đánh thức ta trước trời sáng.”
Những gương mặt căng thẳng thư giãn, và ngay cả bộ tứ cũng ngáp dài, lê bước như những gã đàn ông bình thường. Chỉ có Domenico là không chú ý. Anh vẫn ngồi, tay ghì vào cạnh bàn, đang nghiên cứu một trong những tấm bản đồ trải ra trước anh, với mái đầu rực rỡ cúi xuống, và đường thẳng cứng rắn, tàn nhẫn đã ở đó trên môi anh kể từ sau cơn bùng phát với Andrea. Nó như cùng một cơn giận đã chộp lấy anh vào cái ngày Piero chết – cơn thịnh nộ không kiềm chế được và sự đổ sụp bất ngờ, vẻ trầm lặng lạnh nhạt đáng ngờ sau đó. Nó như một loại bệnh, một cơn sốt của trí não, một dấu hiệu suy sụp đã sản sinh trong anh. Có lẽ đó là thứ Sandro có ý ám chỉ khi nói rằng em trai hắn điên rồ…
Ippolito đang đuổi những người còn lại ra cửa, nhưng dù vậy Domenico vẫn không ngước lên nhìn. Chậm rãi, tôi di chuyển ra khỏi bóng tối. Lạnh đến thấu xương, và tôi đã bất động như đá lâu đến mức phải vươn tay ngay tức thì. Domenico nhìn lên sắc bén. Trong một khắc không nhận ra, anh chằm chằm nhìn tôi như thể tôi là một bóng ma, và rồi vẻ khiếp sợ nhạt dần khỏi gương mặt, hàng mi anh rũ xuống.
“Felicia – nàng đã ở đây suốt lúc nãy sao?”
Tôi gật đầu. “Ngài không bảo em đi.”
“Giờ ta bảo nàng đi.” Anh đứng lên từ cạnh bàn và đến chỗ tôi, gương mặt hiện tại là một chiếc mặt nạ tĩnh lặng, chẳng để lộ điều gì. “Con điếm Gratiana chết tiệt đó đang gây nguy hại, nàng có nghe không? Mụ t đòi hỏi lãnh địa Công tước của ta.”
“Vâng, em có nghe.”
Những ngón tay anh bồn chồn gõ lên bàn. “Bằng cách nào đó ta sẽ nguyền rủa mụ. Quân đội của chúng ta đã được bố trí, và sẽ làm tốt khi quân Tân Ban Nha đến. Sẽ có những đồn canh gác để cảnh báo,” anh nói thêm với Sandro qua vai tôi, “nên bọn chúng không thể làm chúng ta ngạc nhiên.”
Riccardo D’Rsti cúi đầu và nhếch mép. “Chúng không thể hy vọng lảng tránh được sự đề phòng của Đức ngài!”
“Và giờ chúng ta được bảo đảm, hãy hoan lạc say sưa.”
“Hoan lạc say sưa!”
Anh gật đầu, đôi mắt cứng rắn, sâu thăm thẳm. “Sẽ có những buổi yến tiệc và phô trương chuẩn bị chống lại chuyến trở về của chúng ta – chính là nỗi ô nhục khi bỏ lỡ chúng.”
Sự táo bạo coi thường của anh làm tôi kinh hoảng. “Thưa Đức ngài, là sáng suốt ư khi tìm kiếm niềm vui thích vào thời điểm thế này? Anh trai ngài nói rằng người dân đã mất mùa trong chờ đợi sự vây hãm kéo dài, và nếu ngài quá hoang phí, họ có thể phẫn nộ.”
Khi lên tiếng, tôi biết mình đã đi quá xa; đôi mắt anh nheo lại, giọng buồn bực, lạnh lùng. “Có phải chúng ta nên quan tâm tới sự hài lòng của vài tên chư hầu gầy trơ xương?”
Guido Vassari bước tới trước. “Xin phép cô, madam, đường lối này khôn ngoan hơn là chờ đợi trong e dè. Những sự tán dương đó đã được yêu cầu từ lâu trước khi chúng ta có tin về cuộc xâm lăng, và mọi thứ đã được cung cấp; tất cả những gì chúng ta sẽ làm là để chúng diễn ra. Có hại gì nào?”
“Nhưng của cải cho một buổi yến tiệc như thế sẽ cung cấp thức ăn dự trữ đến bốn ngày.” Tôi phản đối.
“Nàng cũng là một thống lĩnh sao?”
Sự đe dọa trong giọng Domenico khiến tôi run rẩy, vàim lặng. Có đến một lúc lâu, vẻ tĩnh lặng nguy hiểm kéo dài ra, và rồi anh quay về phía những kẻ quý tộc đang đợi. “Các quý ngài của ta, ta sẽ tổ chức một buổi dạ yến tối nay như đã định. Ta sẻ không để cho sự hài lòng của mọi người phụ thuộc vào ý thích bất chợt của Vua xứ Naples.”
Tôi theo sau họ mà không nói một lời, đến đầu bậc cầu thang, và khoảnh khắc họ ra khỏi tầm hiện diện Công tước, tiếng kêu lải nhải xầm xì vội vã bùng ra. Baldassare Lucello, ở phía sau tôi, thô bạo đẩy tôi tới trước với một tiếng rì rầm, “Madam, chúng ta không thể chần chừ lâu hơn.” và tôi bất chợt nghĩ, tôi đã nghe lời đó ở mọi phía kể từ khi đến đây. Cả cung điện đang trong một cơn thèm khát không ngừng – và cho cái gì?
“Madam, Công tước!”
Ý nghĩ lóe lên rồi vụt tắt, và tôi bước nhanh. Đừng để Công tước chờ đợi.
Bóng tối dường như đang thở, ấn xuống tôi như một tấm mền dày nóng bức. Đó đây là những tia sáng yếu tớt từ đám than hồng mới nhất của ngọn lửa, và con người góp thêm vào màu tối tăm bằng những âm thanh nhỏ không đếm xuể, những tiếng thở dài uể oải, hơi thở phập phồng, tiếng áo quần sột soạt và nụ hôn của thịt da, yên ả vào trong sự mệt lử thinh lặng; cơn thèm khát của cung điện đã tự nó trải qua trong sự tràn dâng cuồng nhiệt, và sớm thôi hậu quả tai hại chua xót sẽ đến. Tôi ngồi đăm đăm nhìn vào khoảng không, thấy trong bóng tối, bức tranh của thói phàm ăn và sự trụy lạc mà nỗi sợ về ngày mai đã thúc vào những đám quý tộc xứ Cabria. Chiếc mặt nạ Bảy Tội Lỗi Chết Người[20] diễn ra trước mặt chúng tôi, hát lên và ca tụng, với những người hầu là một đoàn Tội Lỗi nhấn chìm cả gian sảnh trong một chướng khí với sắc màu sặc sỡ: những chiếc đĩa chất chồng, rượu chảy tràn, nhứng ánh nhìn và tiếng thét gào của cung điện khi những ngọn đuốc được tắt đi từng ngọn, từng ngọn một.
Tôi nhớ những vòng tay và cơ thể bện lại với nhau, những gương mặt như chiếc mặt nạ ấn lại gần hơn; người phụ nữ cách chỉ vài centimet đang ngã xuống, nằm ườn ra trên chiếc bàn bạc, cười phá lên trước nỗ lực đổ mồ hôi của người đàn ông nằm bên trên; Guido Vassari đang thân mật giữ một trong những cậu tiểu đồng nhỏ tuổi, kêu những tên chiến hữu lại giúp khi cậu bé đang cố thoát ra. Nhưng giờ đây tiếng la hét và tiếng cười khản đục đã chết đi, được thay thế bằng tiếng hổn hển, rên rỉ và thài hài lòng sâu thẳm.
Gần cạnh tôi, thứ gì đó di chuyển, và tôi nén lại một tiếng kêu; rồi tôi thấy Domenico di chuyển vào ánh sáng, nhẹ nhàng như một chú mèo mộng du. Tôi không thể thấy vẻ mặt anh, chỉ có thể thấy tia sáng lấp lánh lạ lùng trong đôi mắt đen ấy. Hẳn phải gần sáng, vì không khí dày đặc, ôi thiu, và dường như giống cả nhiều giờ trôi qua kể từ khi chúng tôi ăn tối.
Tôi đang chiến đấu với nhận thức về anh khi anh đến chỗ tôi, nhưng chống lại sự sẵn lòng của mình, hai tay tôi siết chặt. Khi tất cả những người còn lại đã bắt đầu hành xử thô bạo với nhau trong một con thèm khát sinh ra khiếp sợ, anh vẫn ngồi cô độc một mình, quan sát như thể vì sự hứng thú của riêng mình. Tôi căng thẳng, đang trông mong, thế mà vẫn kinh hãi sự đụng chạm của anh, nhưng tất cả những gì anh làm là nắm chặt cổ tay tôi để ngăn tôi không bị kéo vào cuộc hỗn chiến với phần còn lại.
Nhưng giờ anh đã dậy và đang đứng trên tôi, cao ngất ngưởng, một hình thù tối đen hơn cả bóng tối. Tôi choáng váng khi cảm thấy sự ấm nóng của đôi tay anh trên bờ vai trần; một ngón tay mềm mại vuốt ve lấy cổ tôi nhẹ nhàng, và khi cơn kích thích run rẩy chạy khắp người, tôi nghe thấy, mờ nhạt và xa xôi, hồi chuông vang lên.
Domenico đã không nghe, nhưng anh nhận ra tôi cứng người, và ngẩng đầu lắng nghe; rồi khi anh cũng nghe nó, cái nắm chặt của anh bất ngờ siết lại tàn nhẫn.
Âm thanh đến từ ngoài phòng chờ, ngoài những bức tường cung điện, sinh ra mờ nhạt và xuyên rõ ràng qua những hành lang vang vọng. Domenico thả tôi ra và quay lại ngưỡng cửa nơi phòng đợi, xoay cánh cửa rộng ra khiến rạng đông xám tràn vào. Trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra hồi chuông thánh thót phải có ý nghĩa gì đó, và ép bản thân mình đứng lên.
Tôi chết cứng, lảo đảo khi bước đi và ghì chặt tay anh, nhưng anh không để ý – anh đang nhìn xung quanh vào thứ đổ nát của buổi yến tiệc đêm qua. Những cơ thể nằm ra sàn nhà, ườn ra khêu gợi hay vẫn còn ôm chặt, điếc đặc trước hồi chuông cảnh báo, bị nhấn chìm quá nhiều trong rượu hay cơn phóng đãng để có thể đứng lên. Rác rưởi dọc đại sảnh bị giẫm đạp lên bởi áo quần, đồ đạc đổ nhào và những vũng rượu nhỏ tràn ra. Mùi hôi thối ngột ngạt, mùi nồng nặc của những ngọn đuốc cháy, vị chua của rượu, thức ăn béo ngậy, và thứ nôn mửa ra mốc meo.
Domenico khẽ chửi thề cáu kỉnh, rồi đưa tay lên che mắt khi một kỵ binh thời trung cổ lọc cọc vào đại sảnh mang theo một ngọn đuốc bừng cháy với ánh lửa cam. Bóng tối đu đưa, quay cuồng, và tôi che đôi mắt đang sáng rực của chính mình, cố gắng để thấy rõ hơn.
“Thưa Đức ngài.” Đó là người đội trưởng lính gác hoàng gia. “Quân Tây Ban Nha!”
“Thì đã sao nào?”
“Là… là… chúng đang đến, thưa Đức ngài. Hành quân dưới những biểu ngữ xứ Naples. Chúng đang tiến tới qua khu rừng ở phía tây nam – chúng hẳn phải hành quân qua đêm nên những lính canh chúng ta không thể thấy chúng băng qua những ngọn đồi thấp phía tây.” “Chết tiệt!” Giọng Domenico là tiếng tanh tách của một ngọn roi. “Chúng mang theo đèn, không phải sao? Tất cả lính chúng ta mù rồi chắc?”
“Đức ngài, vài người trong số họ đã say – họ nói rằng một nhà quý tộc đã gửi những thùng rượu để họ có thể tham gia đánh chén tối qua. Không ai có thể nghĩ quân Tây Ban Nha đến sớm như thế…” Từ ngữ của y chết dần, vì Công tước không còn lắng nghe.
“Gửi tất cả lực lượng của chúng ta đến tường thành phía nam để phân tán những kẻ xâm lăng. Do đó chúng sẽ học được thế nào là đương đầu với Cabira.”
“Nhưng Đức ngài, thế sẽ bỏ các tường thành còn lại không người gác. Nếu có một lực lượng thứ hai…”
“Sẽ không có!” Domenico hạ thấp tay xuống mắt, và siết chặt tay lại.”Ngươi nói quân Tây Ban Nha đang đến từ phía tây nam; vậy đi đi, nếu không phải là một thằng hèn, và đánh đuổi chúng như ngươi được bảo thế!”
Người đàn ông trắng bệch, nhưng chỉ nói bằng một giọng gượng ép, “Vâng, thưa Đức ngài.” và quay gót.
Giờ đây, những hồi chuông khác đang vang lên, gần hơn, lớn hơn, và tôi nghe tiếng bùm vĩ đại của chuông San Domenico rung khắp thành phố. Những tên cận thần đang chuyển động và rên rỉ, mở đôi mắt nặng trĩu, di chuyển trên những cơ thể cứng nhắc do ăn uống quá độ; tôi nghĩ ngay tức khắc đến sự chuyển động sưng phù lên của những con kiến chúa khi một tổ kiến vỡ. Rồi tôi giật mình một cách bản năng Công tước gọi, “Ippolito!” và quét mắt khắp đại sảnh tìm người thư ký. Anh khẽ liếc xuống tôi khi tôi di chuyển, và mắt anh nheo lại.
“Về phòng nàng đi; gọi người của nàng và giữ họ bên cạnh. Ta sẽ gọi nàng khi an toàn.”
“Nhưng, thưa Đức ngài…”
“Không có thời gian để tranh cãi đâu.” Đôi môi mềm mại cong lên đáng sợ. “Vâng lệnh ta, hay ta sẽ buộc nàng tội mưu phản. Đi!”
Anh quay lưng, bỏ lại tôi như bị sét đánh. Tôi không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra; chỉ có thể ngu ngốc nghĩ rằng anh đã ra lệnh cho tôi đi. Ippolito đã trả lời câu gọi, và họ đang hội ý cùng nhau – lời lẽ đến với tôi mập mờ khi tôi đứng đó, nửa như choáng váng.
“Chúng ta sẽ theo dõi những trận chiến bên trên cổng lâu đài và thấy tất cả qua tường thành phía nam từ đó. Không có thời gian để đến bức tường thành phố-”
“Đức ngài phải trang bị vũ khí. Bây giờ ngài ăn mặc như một mục tiêu.”
“Tốt lắm Ippolito! Ta đã quên mất nó. Vậy, nhanh lên!” Anh liếc nhẹ khi tới cửa, đôi mắt nheo lại và giận dữ. “Felicia, đi!”
Tôi không thể làm gì ngoài tuân lệnh, và với vẻ trang nghiêm có thể tập hợp được, tôi bước qua những người đàn ông và phụ nữ đang bắt đầu tụ tập với nhau, và ra khỏi đại sảnh rộng lớn, cảm thấy phát ốm vì khiếp sợ. Tôi nghĩ, nếu anh ra trận bây giờ và bị giết, tôi sẽ không bao giờ trông thấy anh lần nữa.
Tiếng lạch cạch từ âm thanh của đôi chân đang chạy khi một người lính đua tới chỗ tôi. Một tên quý tộc không say nhiều như phần còn lại đang lảo đảo bước đi và chộp lấy cánh tay gã đàn ông khi hắn đi qua.
“Chuyện gì vậy? Chuyện gì?”
Người lính nhảy sang một bên tránh, đang cố giải thoát bản thân. “Tôi phải nói với Công tước… Có một tốp lính khác trên bờ đối diện của hẻm núi bên sông. Hai trăm năm mươi cung thủ đã sẵn sàng ở đó, vào những bức tường châu mai[21] phương bắc, và Công tước đã gửi hết người ra những thành lũy phía nam!”
Tên quý tộc thả anh ta ra và sụm người vào tường. “Chúa nguyền rủa ngài ấy.” Gã nặng nhọc nói. “Cơn nóng nảy của ngài ấy sẽ giết tất cả chúng ta.”
Người lính nhìn gã với đôi mắt kinh hoàng và chạy biến.
Khi leo lên những bậc thang, tôi phải chiến đấu để đi qua nhóm những người cận thần tụ tập hoảng sợ, tất cả tìm kiếm tin tức, đe dọa ép tôi trở lại nơi mình đã đến. Nhưng chẳng biết bằng cách nào đó, tôi giữ vững và xoay sở đến đầu bậc thang trong an toàn.
Chính ngay cuối hành lang dẫn tới phòng mình, tôi chú ý đến một cậu bé. Khoảng tuổi mười bốn, mảnh khảnh và nhỏ so với tuổi, đang tò mò nghểnh cổ sau đám đông bỏ chạy với sự hứng thú lấp lánh trong đôi mắt, ngang tầm khi băng qua tôi. Chính lúc ấy, ý nghĩ ngốc nghếch, liều lĩnh đến với tôi.
Trong quần áo như cậu, tôi có thể theo Công tước mà không bị chú ý; anh sẽ không để tâm đến bất kỳ tiểu đồng nào. Nếu tôi có thể vào trận chiến mà không bị phát giác, khi đó tôi có thể tránh khỏi tầm mắt: Không chuyện gì quan trọng miễn là tôi còn gần Domenico. Anh không bao giờ cần biết tôi ở đó.
“Cậu bé.”
Cậu ấy nhìn quang ngạc nhiên; rồi đôi mắt mở to khi nhận ra tôi. “Madam?”
“Em có bộ chế phục nào khác không?”
Hàm rớt xuống, và cậu bé câm lặng chòng chọc nhìn. Tôi phải lắc cậu nhóc ấy.
“Em có không? Trả lời có hay không đi!”
“Có, thưa madam.” Cậu nhóc nuốt ực khó khăn. “Vâng, tôi… tôi có.”
Cậu nhóc nhìn chiếc túi treo ở thắt lưng tôi, và vẻ lạ lùng lướt qua mặt. “Đến… phòng cô sao, thưa madam?”
Tôi tự hỏi có phải cậu nhóc đơn giản quá không. “Phải, em biết căn phòng nào mà – căn phòng trang trí bằng thảm gần phòng Công tước.”
“Vâng, thưa madam.” Cậu nhóc nâng cái nhìn chằm chằm từ cái túi lên gương mặt tôi. “Tôi sẽ không để người của Đức ngài biết tôi làm gì.”
Cậu nhóc đi mất trước khi tôi có thể tự hỏi những lời ấy nghĩa là gì; cậu nhóc không thể biết tại sao tôi lại muốn trang phục. Nhưng không có thời gian để đứng và thắc mắc. Tôi vội đến phòng mình và bắt đầu cởi y phục, quẳng chiếc áo dài xuống sàn trong gấp gáp, choàng một chiếc áo khoác lụa xung quanh khi tiếng bước chân đến ngoài cửa. Tôi vui mừng mở ra, và cậu tiểu đồng đứng đó, nhếch mép cười, đỏ mặt khi thấy tôi cởi quần áo.
“Tôi mang chế phục tới, thưa madam.” Cậu nhóc cố để nghe hờ hững, nhưng chất giọng vỡ ra và phản bội cậu.
“Tốt – đặt nó ở đó trên chiếc ghế, và chị sẽ trả cho em.” Tôi quay lại để nhặt chiếc áo váy bị vứt bỏ để tìm túi tiền của mình, quá chăm chú đến mức gần như không nghe cậu bé đang nói gì.
“Tôi vẫn chưa làm gì cả, madam.”
“Em đã làm như chị yêu cầu và mang chế phục đến một cách nhanh chóng. Em nghĩ chị sẽ lừa em sao? Đây.” Cộc cằn, tôi gỡ túi tiền và giơ nó ra cho cậu bé.
Cậu nhóc chòng chọc nhìn nó như thể trông mong chiếc túi tan biến trước mắt mình.
“Nhưng tôi nghĩ… tôi nghĩ…”
Vẻ hoang mang của cậu nhóc khiến tôi sững lại dù đang giữa sự vội vã. “Em đã nghĩ gì?”
Hàng mi cậu nhóc rung rinh và hạ xuống. “Chỉ là… chỉ là nhiều quý bà đề nghị những món thù lao hậu hĩnh cho những việc lặt vặt nhỏ bé và rồi yêu cầu một thứ khác hẳn. Tôi nghĩ cô chơi cùng một trò chơi trong khi an toàn khỏi Công tước.”
Tôi chằm chằm nhìn thằng nhóc không tin được, rồi chầm chậm lắc đầu. “Không, chị muốn những gì chị yêu cầu, và không gì hơn nữa. Em mấy tuổi rồi?”
“Gần mười bốn.” Hàng mi nâng lên lần nữa. “Nhưng cô không cần sợ tôi không đủ kỹ năng. Quý bà Caterina nói rằng…”
“Không, chị chắc chắn em không như thế.” Tôi mỉm cười khá chua chát. “Nhưng chị không có thời gian cho những việc đó. Đây là món tiền cho bộ chế phục của em. Có chiếc mũ nào như em đang đội không? Chị phải có một chiếc mũ lưỡi trai.”
“Không, thưa madam…”
“Vậy thêm vào đó, đưa chị cái nón của em, thay cho thứ khác.” Tôi lấy chiếc mũ bằng nhung từ những ngón tay thuận theo và trao túi tiền vào tay cậu.
“Đó, giờ chúng ta đã thanh toán xong.”
Cậu nhóc lùi lại phía sau, vẫn còn chăm chăm nhìn tôi, rồi quờ quạng phía sau tìm then cửa. Khi cửa mở ra, cậu nửa phần lảo đảo, rồi gần như bay xuống hành lang vang vọng.
Tôi hấp tấp, đang cố xóa sạch ký ức nhỏ nhoi khó chịu. Tôi không biết mình có bao nhiêu thời gian trước khi lực lượng Tây Ban Nha đến thành phố; tôi phải đến bên Domenico trước khi quân địch tấn công, hay tôi có thể không bao giờ tìm được anh giữa sức ép của trận chiến. Bất kể cậu bé đã nghĩ gì về yêu cầu của tôi, cậu nhóc đã thỏa nguyện trước món hào phóng – cậu ấy đã mang đến chiếc bít tất dài và quần ống túm đến đầu gối, một chiếc áo sơ mi bằng vải lanh và một chiếc áo chẽn cứng với biểu tượng con diều hâu bạc xứ Cabria. Khi mặc xong, tôi nhìn vào gương và tạ ơn sự chuyên chế của thời trang, vì trong một chiếc áo chẽn phồng ra như đậu Hà Lan, nó sẽ mang đi những ánh mắt sắc bén để nhìn xem cái đó là gì và không là gì. Không có đôi giày nào; cậu bé hẳn phải chỉ sở hữu một đôi, nên tôi tìm thấy đôi bốt màu đen mình đã mang khi cưỡi ngựa và xỏ vào. Tôi quấn tóc vào một sợi dây dày và chèn nó dưới chiếc mũ nhung. Không có thời gian để tự hỏi trước sự tự do không quen thuộc của quần ống túm – vỗ nước lvào mặt từ bình đựng nước xóa mọi dấu vết của cô nhân tình nhợt nhạt của Công tước, và tôi thấy một cậu tiểu đồng với gò má tươi mới trong gương. Rồi tôi chạy nhanh hết mức có thể dọc theo hành lang, ra khỏi buổi sáng ầm ĩ, bỏ cánh cửa căn phòng quay quay lại phía sau.
Những bậc thang cắt vào mặt ngọn tháp, nơi những cung thủ dùng cho trận chiến. Khi leo lên chúng, tôi kéo căng mắt để thấy chuyện gì đang diễn ra ngoài những bức tường thành phố, nhưng rồi cơn choáng váng và nỗi sợ ngã xuống cũ kỹ lớn dần, nên tôi đã nhắm mắt, nắm chặt bức tường bằng đá cho đến khi cảm giác buồn nôn qua đi. Những cung thủ nguyền rủa và thúc tôi ra phía sau, và một người lầm rầm về những kẻ nhu nhược ngày nay được sinh ra. Khi mở mắt, tôi không nhìn xuống lần nữa mà giữ cái nhìn chăm chú của mình hướng lên, quan sát những người đàn ông cực nhọc phía trên rọi bóng ngược trên tấm khiên xanh biếc của bầu trời, khi bầu trời ấy rạng hửng lên trong trọn vẹn lò nung của mùa hè đến trễ. Đây sẽ là một ngày nóng bức.
Một trung úy trong nhiệm vụ quản lý các cung thủ hỏi tôi có việc gì, và khi tôi nói với anh ta rằng mình đến tìm chủ nhân, anh ta phẩy tôi đi mà không liếc đến lần thứ hai. Con người chỉ thấy những gì họ muốn thấy, và không ai trong khoảng thời gian thế này sẽ chú ý đến một tiểu đồng tầm thường – tất cả những gì tôi phải làm bây giờ là tìm Công tước.
Khắp bức tường châu mai, những mũi tên đang được sẵn sàng trong dây cung, chờ một tín hiệu để rơi xuống hàng người như đôi cánh một thiên thần vút bay. Họ sẽ đứng như thế, đợi hiệu lệnh để giương cung, có thể là hết giờ này đến giờ khác nếu cần thiết, với hy vọng nhỏ nhoi rằng một tia sáng sẽ nằm trên kẻ thù phía xa. Truyền thống đòi hỏi những cung thủ của Công tước, năm mươi người, phải tham dự cùng anh trong trận chiến, nhưng tôi phải nghe lời càu nhàu cay đắng rằng họ không được ở cùng đồng đội tại những bức tường ngoài kia, nơi cung tên họ có thể làm vài thứ tốt hơn.
Giữ đầu cúi xuống, tôi di chuyển khỏi đầu bậc thang và dọc theo thành lũy hẹp. Từ đây, tôi có thể thấy tình trạng hỗn độn rối loạn bên dưới những con đường, đã bị che khuất bởi lớp sương mờ của hơi nóng và bụi bẩn trên thành phố. Từ cung điện đến bức tường pháo đài vĩ đại là cơn sóng trào và tiếng thét gào với nỗi đau, nhưng từ một nơi quá cao phía trên, sự di chuyển điên cuồng của đám đông trông như vô mục đích và sự náo loạn trở thành một tiếng gầm không thể diễn tả bằng lời.
Rồi những kỵ sĩ thúc ngựa tới, ra khỏi ánh cổng lâu đài. Tôi thấy họ cưỡi ngựa giữa dân chúng hoảng sợ, bắt người dân nằm xuống với những cây gậy và đầu ngọn thương để dọn con đường, lùa người dân lại nhà và cửa hàng của họ. Bất chợt tôi nghĩ, tôi lẽ ra nên ở dưới đó bây giờ, chứ không phải là săm soi nhìn họ từ cổng hoàng gia như thể tôi là ai đó to lớn hơn họ.
Dứt mắt ra khỏi đám đông khổ sở, tôi tìm kiếm quanh những bức tường thành phố – và thấy, chất thành đống như một cánh đồng ngũ cốc lay động theo gió, người và ngựa trải ra trên từng centimet của đồng bằng đến từng chỗ khuất gió của những tường thành. Và đối diện họ, cột lên trong dây xích cùng cụm dọc bức tường châu mai ngoài cùng, những tốp lính trong trang phục đen của Fidena.
Ngay cả khi ấy tôi cũng không cảm thấy sợ hãi – nguy hiểm là quá lớn, quá mức hình dung, như cơn ác mộng đã lần đầu tóm chặt khi tôi biết mình là tù nhân Công tước. Tôi quay lưng khỏi quân đội Tây Ban Nha và tìm Domenico.
Phải mất nhiều phút trước khi tôi thấy anh. Anh đã rời khỏi cánh cổng và đi dọc thành lũy đến góc phía tây, nơi những bức tường thành phố và cung điện hòa chung, và đống đá xám xịt hỗn độn đang rơi thẳng đứng xuống chân hẻm núi phía trên khu vịnh tiếp giáp giữa hai nơi cùng một lúc.
Phía nam bức tường phồng ra vây quanh những con đường thành phố, và quân đội với hàng ngũ siết chặt có thể được trông thấy khá rõ ràng. Phía bắc và tây bắc là con sông cắt qua hẻm núi khắc nghiệt, và bờ đối diện là nhiều người hơn nữa đang tụ tập; xếp hàng theo đường sông đến dòng nước tỏa sáng phi lý của vịnh, tụ lại dày đặc trước những ngọn tháp canh giữ cây cầu.
Domenico đứng với Ippolito, bên cạnh là một trong những khẩu đại bác ngoác miệng ở phía bên kia, giờ đây bị bỏ mặc, vì từng người lính đã đi củng cố phía nam. Bộ tứ đợi gần đó, và những người chỉ huy đang nôn nóng đợi lệnh. Nhưng anh đứng như thể đang ở một mình, dõi theo kẻ thù bên ngoài những bức tường.
Con tim tôi dường như ngừng đập vì tình yêu, và chỉ bởi nỗ lực phi thường mà tôi không chạy tới. Cải trang sẽ có ích gì nếu tôi để lộ ra chính mình vào khoảnh khắc tôi thấy anh, và bị yêu cầu rời đi lần nữa? Tôi cúi đầu và trượt qua nhóm người nơi một cặp tiểu đồng khác lởn vởn không mục đích, tên thái giám nhỏ bé của Domenico và cháu trai trẻ tuổi của Ippolito. Thậm chí không ai liếc xung quanh; họ đang quan sát Công tước
Từ nơi hiện tại tôi đứng, tôi có thể thấy tia sáng rực rỡ trong đôi mắt anh để lộ ra chiếc mặt nạ xinh đẹp. Đó là một sự hờn giận đơn thuần trẻ con, một cơn điên tiết ấu trĩ với bất cứ quân đội nào có thể xâm lăng lãnh địa Công tước của anh. Nó giữ lấy anh, làm anh run rẩy, trong sự nhại lại của cơn tĩnh mịch, và thổi bùng cơn cáu giận trong tâm trí anh thành một cơn nóng nảy trắng bệch liều lĩnh.
Trên những con đường, người dân đã đóng cửa, và Fidena chìm trong im lặng khó chịu. Trên vùng đồng bằng, quân đội Tây Ban Nha chờ trong thinh lặng. Không một từ nào, không cả một hơi thở, xáo trộn vẻ lặng câm bất ngờ, và da tôi bắt đầu cảm giác như bị kim châm khi từng phút từng phút trườn đi.
Tôi bắt đầu điên rồ ước rằng quân Tây Ban Nha sẽ tấn công – làm bất cứ gì đó để phá vỡ sự tĩnh lặng kinh khủng này – và biết đây là cách họ chơi đùa trên nỗi lo âu của chúng tôi, căng ra với từng giây khi ngày càng trở nên nóng bức. Những quần thần bắt đầu đổ mồ hôi, nhưng không ai dịch chuyển. Cả cảnh tượng có thể trở thành bức tranh một trận chiến trong biên niên sử tu hành nào đó, sự chết lặng vỡ ra chỉ bởi do một con ngựa đôi khi bồn chồn.
Tôi căng mắt. Không có máy móc, không cả những tòa tháp bao vây hay phiến gỗ phá thành; có lẽ họ đã sẵn sàng nơi nào đó ở trong biển lính kẻ thù, và cuộc hành quân sẽ là tín hiệu cho đợt tấn công. Răng tôi va vào nhau lập cập bất chấp mặt trời nóng rực. Tôi cảm nhận được sự kinh hãi tỉnh táo từ vẻ cải trang lố bịch của mình, cảm nhận được cả cơn giận dữ Domenico có sẽ tồi tệ đến mức nào khi anh biết tôi đã không vâng lời anh. Bộ tứ đang thì thầm giữa họ; Baldassare đang cố làm Guido im lặng, gã đang vỡ vụn trong hoang mang.
“… tao nói với mày chúng ta phải bỏ trốn khỏi thành phố – chúng ta sẽ thoát ngay bây giờ hay đạt đến những điều khoản với tướng lĩnh của chúng! Vua Tây Ban Nha chỉ yêu cầu lời tuyên thệ về lòng trung thành, và triều đại Công tước vẫn an toàn và giữ cả mạng sống cho ngài ấy và chúng ta…”
“Im lặng đi!” Chất kiên quyết bất thường rung lên trong lời thầm thì của Baldassare. “Dự định của mày là tội phản quốc, và nếu ngài ấy nghe thấy…”
“Ngài ấy đã nghe.” Domenico không quay đầu lại, và đôi mắt vẫn dán chặt trên những bức tường phía xa. “Taà một thằng hèn nhát, Vassari, nhưng ta không nghĩ ngươi ngu xuẩn đến nỗi không quan tâm đến giọng lưỡi ngươi.”
Guido đông cứng, gương mặt tô chải siết chặt và xám ngoét dưới lớp trang điểm tối qua. Gã bắt đầu lắp bắp gì đó, nhưng Domenico sắc sảo quay đầu lại, và ngọn lửa trong đôi mắt đen của anh làm lời bào chữa cứng ngắc trên môi gã.
“Giữ lấy phần hèn nhát nếu ngươi muốn. Nhưng đừng bao giờ để ta thấy mặt ngươi lần nữa.”
Một sự dừng lại lâu, căng thẳng, và rồi Guido quay người, bỏ đi mà không nói một lời. Bước chân gã ầm ỹ trong thinh lặng, và khi chạm đến cầu thang dẫn xuống ngọn tháp, tôi nghe tiếng bước chân ấy chuyển thành tiếng chạy. Sự lặng im dường như không chịu nổi khi tiếng ồn chết dần đi, và bàn tay đeo găng đen của Domenico siết chặt. Những người khác đang trao đổi những cái liếc ngấm ngầm, và tôi biết giờ đây kẻ hèn nhát thực sự giữa họ sẽ do dự để lên tiếng về ý kiến ngừng bắn hay chiến đấu.
Đột ngột, là sự chuyển động. Quân Tây Ban Nha tại bức tường phía nam đang thay đổi vị trí, tràn ra sau và quay người, những mũi thương chĩa xuống như đổ xô dồn lên trong một sự trải căng ra có dạng hình quạt xung quanh một nơi đặc biệt. Ngay tức khắc, mọi người bước tới để thấy chuyện gì đang xảy ra. Tôi thấy chính mình bị quẳng ra sau và không thể thấy gì; rồi Santi khẽ chửi thề, và Ippolito hét lên trong một giọng ngờ vực. “Chúng đã mở cổng!”
Domenico đứng như biến thành đá, và xung quanh anh mọi người đang gào thét.
“Trong thành phố có kẻ phản bội!”
“Chúng ta không thể hy vọng ngăn chúng bây giờ!”
“Ai đã làm chuyện này?”
Tôi cảm thấy phát ốm. Những người chỉ huy đang giận điên lên; bên dưới, quân đội kẻ thù đang đổ vào thành phố nơi tôi đã sinh ra. Nhưng tôi chỉ để mắt đến vẻ bất động khiếp sợ của Domenico. Rồi sắc mặt anh thay đổi, cơn rúng động dữ dội giữ lấy anh, và những lời nguyền rủa bắt đầu tràn ra khỏi anh trong một dòng xoay thô tục. Tôi đã nghe thứ ngôn ngữ tồi tệ đủ nhiều trong quán rượu, nhưng lời nguyền rủa của anhngười xung quanh tái nhợt đi. Tôi nghĩ họ không thể làm anh bình tĩnh nếu bầu trời không bất ngờ tối lại, và những đám mây cung tên cắt qua đầu từ bên ngoài những bức tường phía nam. Khi bước chân những người lính và binh sĩ dùng giáo dồn qua cánh cổng, cung thủ Tây Ban Nha đã nới lỏng mũi tên từ nơi đứng, đang cố gắng lần lượt bắn gục từng người lính ở tường thành. Những đám mưa tên kinh khủng đang rít lên, khiến tất cả hổn hển và quay lại lần nữa để nhìn xuống những con đường thành phố.
Vài cư dân đã ra khỏi nhà và chống cự, và người lính Cabria đang chiến đấu với sự đau đớn tuyệt vọng; nhưng quân Tây Ban Nha đông hơn họ đến năm lần, và cuộc chiến rõ ràng là vô vọng. Những biểu ngữ đen đang bị thay thế trước những con báo vàng của Naples, và cứ lặp đi lặp lại, cuộc chiến dần đến bức tường cung điện. Một trong những cậu tiểu đồng khóc, “Xem kìa, chúng đang thiêu rụi những ngôi nhà.” và khi cậu lên tiếng, tôi thấy những tia lửa bắt đầu tuôn ra từ những căn hộ làm bằng gỗ dựa vào bức tường ngoài cùng. Đó có thể là nơi chốn cũ, tôi lặng người nghĩ; nơi tôi đã sống với mẹ và người cha dượng trước khi Antonio kết hôn.
Tôi không biết mình cúi người trên lan can bao lâu, bức tượng đá xù xì làm đau đầu gối, chăm chú nhìn xuống cuộc chiến. Hai cậu bé còn lại vẫn còn chưa đủ tuổi, nên lúc đầu chỉ thấy nó như một trò chơi của người lính – chính lúc cuộc chiến đến gần hơn, chúng mới thấy sự tàn phá theo sau nặng nề đến mức nào, và lời xì xào hứng thú của chúng đang lặng im. Cuộc tranh luận được nối lại đang vỡ ra giữa những quý ngài. Giờ đây, ánh sáng mặt trời bị tẩy sạch bởi màn sương và bụi, không khi dày đặc với thuốc súng, mùi tanh hôi sặc máu của da thịt, tro tàn đang bay theo gió. Những mũi tên đã gần như ngừng bay, vì bước chân những người lính giục giã đã xa dần thành phố và chúng đã ép kẻ thù ra khỏi tầm xa cửa mũi tên.
Cậu bé của Ippolito, nghe rõ hơn tôi, quay người bạn mình lại với một gương mặt xanh xao kinh khủng.
“Họ đang nói chúng ta nên chạy trốn khỏi thành phố.”
Thận trọng nhích lại gần hơn, cố để bắt được chiều hướng của sự tranh cãi. Chẳng dễ dàng gì. Tất cả đám đàn ông đang la hét cùng lúc; Domenico đứng giữa họ như một con báo bị mắc bẫy, sự sỉ nhục bị đâm xuyên và điên tiết với những kẻ tay sai đã chẳng bao giờ dám chống lại anh trước đó. Chúng vang lên trong anh như những tên thợ săn, đang dìm chết giọng anh với sự sản sinh năng l
“Thưa Đức ngài, đây không phải hèn nhát mà là sáng suốt!”
“Ở lại đây sẽ là ngu ngốc! Thành phố đang bốc cháy!”
Giọng Domenico nghẹn lại trong cổ họng, một tiếng gầm gừ nhỏ mắc nghẹn. “Chúng không thể thiêu rụi đá.”
“Ngài có muốn bị thiêu sống trên chính vị trí đứng đầu của mình không? Vì Chúa, thưa Đức ngài…”
“Ngài có thể lên núi và tìm kiếm sự giúp đỡ từ đó.”
“Tìm kiếm giúp đỡ? Ta sao?” Đôi mắt đen lóe sáng thành màu bạc một cách khủng khiếp.
“Vậy thì sống trong lưu đày nếu ngài thích như vậy hơn.” Viên đội trưởng lính gác cũng giận dữ, và không lựa chọn từ ngữ. “Chỉ cần biến đi trước khi việc chúng san bằng lâu đài đến tai ngài, và làm nhanh lên khi ngài còn có thể nhận thức rõ ràng.”
Riccardo D’Esti vội vã làm dịu lời lên tiếng ấy lại, nụ cười thường trực là một thứ kinh khiếp để nhìn thấy. “Đức ngài, nếu ngài thoát được, chúng ta chỉ mất thành phố. Nhưng nếu ngài bị bắt, chúng ta sẽ mất tất cả mọi thứ! Mạng sống của chúng ta,…”
Giọng nói đột ngột dừng lại. Trong một thoáng, tôi nghĩ giọng anh ấy bị dìm chết trong tiếng rít và xôn xao trút xuống quanh chúng tôi. Rồi, với một vẻ ngạc nhiên trên gương mặt, anh ấy chậm rãi lảo đảo, khụy gối và ngã xuống với một mũi tên cắm sâu vào lưng.
“Chúa tôi[22],” Santi gầm lên, “là bọn chó ở phía bên kia hẻm núi. Giờ bọn chúng đang bắn.”
Ngay tức khắc, những người khác quay về phía Công tước với năng lượng gấp đôi. Anh phải đi, họ nói, vì lợi ích của đất nước và chính anh – mang theo vài người và cưỡi ngựa lên núi tới Diurno, vì mạng sống của anh. Ở đó anh có thể bàn bạc với tổng giám mục, với khđồng minh để đẩy lùi quân Tây Ban Nha. “Tại sao không phải là với Savoy?” Một người trong số họ đề nghị. “Người cha vĩ đại của cô dâu Đức ngài?” Tôi thấy cái lườm sát khí Domenico trao anh ta, và cũng giật mình hệt anh ấy. Nhưng có lẽ Công tước xứ Savoy sẽ không để con gái mình kết hôn với một người không có đất đai, và thậm chí Domenico căm ghét khi gợi lại việc ấy một cách không chủ tâm. Anh không trả lời câu gợi ý, chỉ cộc lốc lắc đầu. Một đợt mưa tên thứ hai ào ào rơi qua bức tường châu mai, và đột ngột Santi, người đã đang quan sát trận chiến qua làn khói, len vào giữa vòng tròn những người đàn ông. “Đức ngài Công tước của tôi, ngài sẽ phải đi xuống từ phía tòa tháp này, hay sẽ bị mắc bẫy ở đây. Kẻ thù ở ngay những cánh cổng bên dưới.” Lời nói thẳng thừng thô lỗ, vẻ bất ngờ nghiêm túc trên gương mặt hung ác của người đàn ông, đang gây ra sự quyết phục một cách đáng ngờ. “Tôi biết nơi vài tên thương nhân giữ ngựa trong chuồng ở những hang động trong hẻm núi – họ sử dụng ngựa để vận chuyển ngũ cốc từ tàu thuyền vào nhà xưởng – tôi có thể đi xuống tìm ngựa, rồi dẫn chúng đến bụi cây tại chân những bức tường ở đó. Quân Tây Ban Nha chết tiệt hiện tại gần như đã ở khắp nơi trong thành phố, nên chúng ta rõ ràng nên chạy dọc bờ biển càng xa càng tốt như đến Pinzi, rồi quay về phía tây và đi lên núi. Như thế sẽ có thể tránh xa chúng. Tất cả những gì chúng ta cần là vài sợi dây thừng, để giúp ta xuống những bức tường – bọn chúng sẽ có người để bắn gục bất cứ ai dán mũi ra khỏi cửa bắc.”
Mưu kế tiếp theo này không là gì cả trong sự im lặng của toàn nhóm hội họp. Cơ thể Riccardo nằm bị bỏ quên trên sàn lát đá khi những tên quý tộc giật mình bất ngờ trước Santi. Gã không chú ý đến họ, chỉ đang nhìn chăm chăm thẳng vào mắt Domenico, cơ thể nặng nề mong đợi, vẻ âu lo khắc khoải.
“Đức ngài, tên đàn ông này điên rồi!” Một trong những người quý tộc rít lên nghe chói tai với sự sỉ nhục. “Chỉ có một tên bình dân mới hy vọng Đức ngài treo người trên dây thừng như một mục tiêu cho đám quỷ dữ đang bắn vào chúng ta.”
Ippolito chạm vào cánh tay Santi. “Ngài ấy không phải là một kẻ ngốc, Giovanni. Còn những cung thủ thì sao?”
“Chúng ta phải mạo hiểm thôi. Nhanh lên, Đức ngài!”
Domenico giữ cái nhìn chăm chăm lâu hơn, và rồi quay đi. “Lấy dây thừng.” là tất cả những gì anh nói.
Những gã đàn ông không cần đến lời chỉ bảo thứ hai. Chỉ một lời, thế là vài người trong số họ đang chạy đua đến bậc thang, gào lên yêu cầu với những người hầu mang dây thừng lại, tất cả họ có thể tìm, và yên tâm được tham gia cùng vì mạng sống của họ.
Domenico ngay lập tức đi đến phía bắc ngọn tháp, chằm chằm nhìn xuống trong một lúc bằng một biểu cảm không dò được trên gương mặt. Rồi anh gọi Santi.
“Nếu ngươi đi xuống hết bề mặt của ngọn tháp này, ngươi sẽ bị dính chặt như một con chó được trao giải thưởng. Mắc dây thừng từ thành lũy thấp hơn ở đó – thế sẽ tiết kiệm được chiều dài hơn, và ngươi có thể leo xuống trong sự ẩn giấu của ngọn tháp. Hầu hết mũi tên sẽ trượt qua nó, có lẽ thế.”
Santi nhìn và gật đầu. “Phải.”
Gã đã quên mất mình đang nói chuyện với ai; và trong thoáng chốc, gương mặt lạnh lẽo của Domenico bừng lên vẻ tự chế nhạo bản thân vì tước vị của anh bị quên mất trong khoảng thời gian thế này. Ánh nhìn đó lóe lên và biến mất như tia chớp mùa hè, nhưng tôi đứng như mọc rễ, quên mất mình đang ở đâu và đang giả vờ thành cái gì.
“Chúng ta sẽ theo ngươi.” Giọng anh, vẫn khàn, nhưng giờ vững chắc hơn, khiến tôi giật mình khỏi cơn mơ. “Có đủ ngựa cho tất cả chúng ta không?”
“Khoảng mười hai hay mười bốn. Đủ và dư thừa.”
“Đức ngài, tôi nên ở lại đây.” Đội trưởng lính canh gác cộc cằn nói. “Cứu lấy ngài, và ai đó có thẩm quyền sẽ trông nom sự rối loạn này và trong giới hạn sẽ cứu lấy lâu đài.”
“Phải.” Giọng Công tước nghe lạ lùng. “Cung điện không thể bị cướp phá.”
Tôi bắt gặp cái nhìn thất vọng của vị đội trưởng bắn cho những người chiến hữu của mình.
“Vậy tôi phải đầu hàng mà không chiến đấu sao, thưa Đức ngài?”
“Ta không quan tâm bằng cách nào. Chỉ cần bảo quản nó cho đến khi t có thể lấy lại thành phố lần nữa.”
Người đội trưởng thở ra một hơi mạnh và sau nỗ lực lớn lao thấy được, cúi đầu, bước lùi lại. Tôi nghe ông ấy lầm bầm với người cầm cờ của minh, “Đầu hàng đổi lấy sự an toàn.” và rồi hai người họ rút lui để bàn kế hoạch riêng của mình. Tôi nhận ra với một thứ gì đó như lòng ghen tị đâm vào mình, vì Sandro đã đúng; Domenico yêu Palazzo della Raffaelle nhiều hơn yêu bất cứ thứ gì.
Tôi tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Sandro. Tôi đã không thấy hắn từ ngày hôm trước – tôi thậm chí không chú ý tới hắn tại bữa yến tiệc. Nhưng rồi tôi quên mất hắn, vì những người hầu đang kéo lê những cuộn dây thừng vĩ đại vào thành lũy thấp hơn, và tôi vội vã theo sau những người khác khi họ bỏ ngọn tháp, để cùng Santi tham gia xuống bên dưới trong sự chở che của bóng tối.
Sau một cái nhìn về hướng Santi, đu người một cách nguy hiểm khi hạ thấp chính mình xuống từng sải[23] một của sợi dây thừng, tôi phải quay lưng lại bờ vực. Cần phải có một tầm nhìn điềm tĩnh hơn tôi để nhận rõ con đường đá lát đá phiến bao quanh hẻm núi; với cái nhìn thoáng qua kinh hãi của tôi, sẽ là phía bên lâu đài rơi thẳng đứng xuống dòng sông, và nó trông như thể một người đàn ông to lớn sẽ đi tiếp, và đi tiếp cho đến khi chạm mặt nước. Thực tế, dù tôi không nhìn đủ lâu để nhận ra, gã đã rõ ràng đi xuống được hơn phân nửa chiều dài.
Những cung thủ không thể thấy gã, vì những cơn mưa tên không còn đều đặn như trước, và những mũi tên đều nhắm lướt tới bức tường châu mai, không phải xuyên vào người đàn ông đang treo mình giữa trời và đất. Những người cúi mình bên cạnh lan can, đang đổ mồ hơi khi quan sát vòng móc dây thừng chà xát vào phiến đá với sự chuyển động của sức nặng Santi.
Một tiếng lầm bầm hân hoan dậy lên; sợi dây vẫn vững chắc, và không có giật xóc, không tiếng thét. Ippolito hăm hở nhìn Công tước. “Anh ta xuống rồi, Đức ngài. Ngài sẽ theo anh ta chứ?”
Domenico lắc đầu. “Hãy để những người này đi trước.” Anh ra hiệu về phía cả nhóm; cái liếc khẽ của anh gần như không đến chỗ chúng tôi. “Ta có việc khác quan trọng hơn.”
“K đâu, thưa Đức ngài.” Sự bực tức lóe lên, lướt qua gương mặt tử tế của Ippolito. “Hoàn cảnh của ngài nguy hiểm hơn bất kỳ ai so với chúng tôi – vì Chúa, hãy đi ngay!”
Gương mặt đẹp đẽ đanh lại. “Đừng ra lệnh cho ta, sirrah! Ta không giữ một người thư ký để ra lệnh ta phải làm gì.”
“Tôi không kiếm tìm điều đó, thưa Đức ngài, nhưng vì sự an toàn của chính ngài…” Cái liếc khẽ van xin của anh ấy là sự cầu xin giúp đỡ, và những người quý tộc tập trung quanh Domenico, đang khẩn nài và thuyết phục. Tôi có thể thấy mái đầu rực rỡ của anh cao nhất phía trên những mái đầu xung quanh; anh đang nhìn hết từ gương mặt này đến gương mặt khác, môi cong lên gần giống như hầu hết con thú gầm gừ, ánh sáng ngập trong mắt anh đủ để sát thương khi nhìn họ. Rồi đột ngột, anh cắt ngang xuyên qua tiếng náo loạn bằng một giọng hét rít lên nguy hiểm.
“Ta nói ta sẽ không đi!”
Họ ngã ra sau trước ngọn lửa từ cơn phẫn nộ của anh, lý do và lời lẽ của họ là vô dụng trong gương mặt tuyệt đối mù quáng của anh. Rồi bất ngờ, Ippolito bước tới gần anh, như một người kiếm sĩ đang bước trong sự bảo vệ kẻ thù, và nói gì đó bằng một giọng nhỏ. Tôi thấy Domenico bất động, và dần dần, vẻ ác ý màu bạc trong đôi mắt anh được thay thế bằng sự chú ý. Anh đăm đăm nhìn xuống Ippolito, nghi ngờ nhưng chăm chú.
“Ngươi có thề không?” Lời đó gần như quá khẽ để có thể nghe thấy, nhưng tôi bắt được sự chuyển động của môi anh.
Ippolito gật đầu, và vẻ căng thẳng nhẹ rời khỏi Domenico.
“Tốt Ippolito… Vậy thì, ta bị thuyết phục. Nhưng hãy làm đi, như hy vọng ngươi còn sống.”
Ippolito rạng rỡ, vỗ vào cuộn dây thừng với một tay duy nhất. “Chuyến vận chuyển của ngài đang đợi, thưa Đức ngài.”
Domenico quay lại, di chuyển qua đám quần thần túm tụm như thể họ không tồn tại, và cau mày nhìn xuống sợi dây thừng. Rồi, gần như trước khi tôi thấy anh di chuyển, anh đã ra khỏi lan can trong một cử động quá đỗi êm dịu và hết tốc lực đi xuống. Quan sát mái đầu anh tỏa sáng rực rỡ xa dần, xa dần, tôi cảm giác tựa hồ mình đang dõi theo Lucifer rơi xuống từ thiên đường. Tôi muốn thét lên, nhưng may mắn thay, nỗi sợ hãi cho anh giữ tôi câm lặng trong khi những ý nghĩ tôi có đổ dồn vào những lời cầu nguyện bối rối không nói thành lời. Ảo ảnh về cơ thể anh mềm oặt nằm vỡ ra dưới chân hẻm núi rõ ràng đến mức tôi gần như thấy nó thức tỉnh trước mắt mình. Trong sâu thẳm, tôi đang đợi tiếng thét sẽ nói với tôi rằng những người xung quanh tôi thực sự thấy nó. Dường như là cả giờ, cả thế kỷ, trước khi Ippolito thẳng lưng lên và gật đầu ra hiệu với Andrea Regnovi.
“Đi nào, quý ngài. Đức ngài đã xuống – giờ tôi phải đi và làm việc lặt vặt cho ngài ấy.”
Sự nhẹ nhõm lớn đến mức tôi lảo đảo và suýt ngã vào lan can. Không ai chú ý tới tôi; tôi dựa vào thứ công trình bằng đá, má tì vào khối đá thô ráp, và để nhận thức của mình trượt đi. Sàn nhà lát đá và bầu trời trộn lẫn vào nhau, màu xám giữa làn khói, và rồi cả thế giới dường như trượt ra khỏi tôi.
Ai đó lắc vai tôi, và với một chấn động mạnh, tôi trở lại thế giới thực, sụm vao lan can. Tôi chỉ có đủ nhận thức để giữ đầu mình cúi xuống.
“Đi nào, cậu bé.” Giọng Ippolito nói phía trên tôi. “Chúng ta sẽ để cậu lại đằng sau nếu cậu không can đảm lên. Đi đi và nói với Lorenzo, cháu trai ta, rằng ta bảo thằng bé chăm sóc cậu.”
Tôi lẩm bẩm lời cám ơn thẹn thùng, nhưng anh ấy đã vội vàng đi mất, tiếng bước chân sột soạt vang lên dưới những bậc thang bằng đá – việc Domenico giao cho anh hẳn phải khẩn cấp.
Những cậu bé và đàn ông đang túm tụm xung quanh dây thừng từng người từng người một, họ thả chính mình xuống vào nơi vô cùng tận tối xám đó. Những mũi tên đang bắt đầu sốt sắng bay xung quanh chúng tôi, khi các cung thủ Tây Ban Nha chú ý thấy hành động và khiến thành lũy thấp hơn là mục tiêu đặc biệt của họ. Tôi biết mình phải làm như những người khác và trèo xuống sợi dây thừng, nhưng cứ mỗi lúc tiến tới miệng vực, sợ hãi đè nặng trong tứ chi tôi như xiềng xích, và tôi đứng như mọc rễ ngay tại chỗ. Cổ họng khô khốc, lòng bàn tay đang đổ mồ hơi, và tôi cảm giác vô vọng như mình bị cầm tù, trong cái nắm chặt của cơn xúc động. Nếu Domenico ở trước tôi, ra lệnh cho tôi, tôi sẽ vâng lời anh mà không suy nghĩ; nhưng anh đã đi mất, không một chút nghĩ về tôi, không quan tâm tôi có đi cùng anh hay không. Nỗi sợ của sự lạnh lùng chào đón tôi cũng sắc bén như nỗi sợ rơi
Leo lên sợi dây thừng đó sẽ ném cuộc đời tôi đến mắc cạn với sợi dây treo cổ xoắn lại, để đu đưa không ai giúp đỡ trong không khí, cao hơn gấp bốn lần so với những con thuyền cao nhất. Bằng cách nào đó, tôi đứng giữ lấy gờ rìa bằng cả hai tay, trên thành lũy vắng ngắt: tất cả những người khác đã đi trong khi tôi ngần ngại. Trong hoảng loạn, tôi trượt gối xuống, khốn khổ núp mình sau bức tường thành khỏi cơn mưa tên dồn dập. Vì mạng sống của mình, tôi không dám di chuyển. Tôi có thể vẫn ở đấy nếu ai đó đã không tới.
Tiếng những bước chân đang chạy dọc sàn lát đá, và Ippolito đổ sầm khụy gối xuống cạnh tôi. Anh ngã bất ngờ và gần đến mức tôi có thể thấy gương mặt anh; giọng anh nghe không giống giọng chính bản thân mình, hết hơi và căng thẳng.
“Tất cả họ đã đi hết chưa?”
Tôi tìm thấy giọng mình. “Rồi, thưa ngài.”
“Vậy chúng ta cũng phải đi. Dù ta sẽ được thiết đãi khó khăn đến mức nào khi Công tước biết ta không hoàn thành công việc lặt vặt cho ngài ấy, ta không dám nghĩ – những mũi tên này của quân Tây Ban Nha chỉ là những cọng lông tơ thiên nga cho sức nặng của sự không hài lòng của ngài ấy. Nhưng đi nào.” Giọng anh ấy vững vàng khi lên tiếng. “Chúng ta phải làm gì đó để xoa dịu cơn kinh hoàng của cậu, Ngài Hèn Nhát. Mạnh mẽ lên nào!”
Bò trên chân mình, anh ấy nâng tôi lên: rồi tôi cảm giác cái nắm chặt của đôi tay anh siết lại trong ngạc nhiên, và anh ấy lắc tôi khẩn cấp đến mức đầu tôi choáng váng ra sau khi anh chằm chằm nhìn tôi không tin được.
“Quý cô!” Anh nghe hoàn toàn sửng sốt. “Cô đang làm gì ở đây, và trong bộ quần áo thế này?”
“Tôi không thể ở lại phòng trong khi nguy hiểm.” Tôi không thể nói nhiều hơn, nhưng dường như anh hiểu, vì vẻ trắc ẩn trên gương mặt anh.
“Và có nhiều nguy hiểm hơn cô dự tính.” Anh dịu dàng kết thúc. “Vậy thì, can đảm lên, vì nó sẽ chấm dứt sớm thôi, và sau đó bước đầu tiên tệ nhất sẽ qua.”
Thoáng chốc tôi nghe trong giọng anh ấy âm vang một giọng nói khác – giọng nói của Piero – cố ra sức thuyết phục tôi đến giường Công tước với những lời lẽ đó. Ký ức sắc bén đến mức tôi do dự trong giây lát, rồi ép nó ra khỏi suy nghĩ mình khi Ippolito đưa tay tôi lại gần xung quanh sợi dây thừng.
“Đi đi nào.” Anh ấy vẫn đang cười khi tôi lưỡng lự, nhưng có ý nói những gì đang nói ra. “Công tước sẽ đi được nửa đường tới Diurno mất nếu chúng ta không gấp gáp lên.”
Không có thời gian để phản đối rằng Công tước có thể không muốn tôi; nếu Ippolito nói tôi phải đi, sẽ không có sự lần lữa. Tôi bò ra ngoài lan can, nghe lời chỉ dẫn mềm mỏng của anh trong tai mình.
“Tất cả những gì cô phải làm là giữ chặt sợi dây, và tìm nơi để chân chắc chắn có thể khi trên đường xuống. Chỉ cần nhớ rằng đừng để mình trượt đi, hay cô sẽ đốt cháy da tay mình – và giữ gần bên sườn ngọn tháp.”
Tôi đã ra khỏi hẻm vực bây giờ, chân đang treo lơ lửng trong không khí, và trạng thái căng thẳng trên hai cánh tay là không thể chịu nổi. Tôi liếc xuống để tìm chỗ để chân, và ngay lập tức chết đứng. Mặt đất dường như xoắn ốc lại nhìn tôi, và chỉ bởi may mắn mà tay tôi nhớ ra để nắm chặt.
“Madam, đừng nhìn xuống!” Giọng Ippolito sắc bén, và tôi giật mạnh mắt mình ra khỏi khoảng không trống rỗng xoay tròn và hướng mắt lên. Gương mặt anh ấy lơ lửng trước tôi trong một hình cung của bầu trời vương đầy khói; anh đã quỳ xuống đầu lan can và đang nghiêng người xuống hét. Khi tôi nhìn lên, chân tôi tìm thấy những kẽ hở trong bức tường đổ nát gần như một cách bản năng, và vẻ lo lắng trên gương mặt anh được xóa sạch. “Tốt lắm! Giờ hãy đi tiếp đi!”
Tôi hít vào một hơi sâu để hét lên lời cảm ơn, nhưng tiếng rít của những đợt tên nhấn chìm giọng tôi. Khi nó ngưng lại, Ippolito vẫn quỳ ở đó, có lẽ hơi nghiêng người xuống thấp hơn so với anh ấy đã làm, nhưng không tránh những mũi tên đang bay; phải mất một lúc để nhận ra anh ấy đang chầm chậm sụp tới trước, và phải mất thêm giây lát nữa để kết nối nó với mũi tên bằng lông vũ nhô ra từ trán anh. Một tay nhẹ chuyển động, một cách vô ích, như thể để chạm vào mũi tên; rồi, với cơn ác mộng chậm dần, cơ thể anh chông chênh và ngã. Lúc đầu rơi nhanh gấp hai lần và lung lay, như một bao bột mì, nhưng khi rơi vào vùng không gian, cơ thể anh dang rộng như con đại bàng tung cánh, quay đi và rơi xuyên qua không khí, rơi vào sự quên lãng, vào hư không vô tận.