Lọt thỏm trong lòng chảo xanh tươi, ấm áp của khuôn viên trường Đại học, Damien Karras một mình chạy lúp xúp quanh một đường chạy hình thuẫn đầy đất mùn, chiếc quần soóc kaki và áo thun bằng vải cô-tông ướt đẫm thứ mồ hôi dính dáp lành mạnh. Phía trước mặt trên một ngọn đồi nhỏ, mái vòm trắng xoá của đài thiên văn nhịp rộn ràng theo sải chân của ông, sau lưng ông, trường y khoa khuất dạng sau lớp bụi và niềm ưu tư đang bị quấy động mịt mù.
Từ khi được giải nhiệm khỏi chức vụ cũ, ông đến đây hằng ngày, chạy mấy dặm đường theo vòng chảo và săn đuổi giấc ngủ. Ông suýt bắt được nó, sắp lơi lỏng được khỏi móng vuốt của những nỗi muộn phiền đã xoắn chặt lấy tâm hồn ông như một vết xâm mình sâu đậm. Nỗi phiền muộn bấy giờ đã vương vấn ông nhẹ nhàng hơn.
Hai mươi vòng…
Dễ chịu hơn nhiều.
Nữa! Hai vòng nữa.
Càng dễ chịu hơn…
Các bắp thịt chân mạnh mẽ, căng máu và đau nhói, khẽ lay động với nét uyển chuyển thon thả của loài sư tử, Karras đang chạy thình thịch qua một khúc quanh, thì ông chợt nhận thấy có ai đó đang ngồi trên chiếc ghế đá, phía ông để khăn lau và quần dài: một người đàn ông trung niên trong chiếc áo khoác lụng thụng, đội chiếc mũ ni bèo nhèo như nùi giẻ . Hình như người đó đang nhìn ông. Đúng không? Đúng quá rồi… đầu ông ta quay lại lúc Karras chạy ngang.
Vị linh mục tăng tốc, sải chân của ông nện xuống thình thịch làm vang động cả mặt đất ở vòng chạy cuối cùng, rồi ông giảm tốc độ xuống thành nhịp đi bộ, vừa thở hào hển vừa đi ngang qua ghế đá không buồn nhìn lại, hai tay ép khẽ xuống hai bên hông. Bộ ngực đầy ăm ắp những bắp thịt rắn chắc như đá tảng cùng triền vai của ông khẽ nhô lên làm căng cứng chiếc áo thun, làm biến dạng mấy chữ CÁC TRIẾT GIA in ngay trước ngực áo, các chữ cái trước đây đen tuyền nay đã phai hẳn màu, qua bao nhiêu lần giặt giũ.
Người đàn ông mặc áo khoác đứng dậy, bắt đầu tiến đến gần vị linh mục.
“Cha Karras ?” Trung uý Kingdman gọi, giọng khản đặc.
Vị linh mục quay lại, khẽ gật đầu, mắt nheo lại vì nắng loá, đợi Kingdman bắt kịp mình rồi ra dấu cho ông ta đi theo lúc ông bắt đầu di chuyển trở lại. ” Ông không phiền chứ ? Tôi sắp cóng người đây,” vị linh mục hổn hển.
” Có chứ, dĩ nhiên là phiền rồi,” nhà thám tử trả lời, vừa gật đầu với vẻ co rúm thiếu nhiệt thành vừa thọc hai tay vào túi. Màn đi bộ từ bãi đậu xe đến đây đã làm ông ta mệt đừ.
” Ta, ta đã gặp nhau chưa nhỉ ?” vị linh mục Dòng Tên hỏi.
” Chưa đâu, cha. Chưa, nhưng người ta bảo trông cha như một võ sĩ quyền Anh, một linh mục nào đó ở khu cư xá, tôi quên mất tên.” Ông đang mãi rút ví ra. ” Tôi rất dở ba cái vụ tên tuổi này.”
” Còn tên ông ?”
” Willie Kingdman, thưa cha.” Ông nhá chứng minh thư. “Ban Điều Tra Án Mạng.”
” Thật sao ?”
Karras nhìn kỹ phù hiệu và thẻ chứng minh thư với vẻ chăm chú sốt sắng như một cậu bé. ” Chuyện này nghĩa là sao ?”
” Này, chắc cha cũng biết đôi điều đấy chứ, thưa cha?” Kingdman đáp, vừa quun sát nét mặt phong trần của vị linh mục Dòng Tên. ” Đúng thật, cha giống y như một võ sĩ quyền Anh. Xin cha tha lỗi, cái vết sẹo đó – cha biết – cạnh mắt đó,” ông ta chỉ trỏ. “Gống Brando trong phim Watfront quá, đúng là giống hệt Marlon Brando. Người ta cũng tạo cho nàng một vết sẹo.” Ông ta minh hoạ bằng cách kéo khóe mắt mình ra. ” Khiến cho mắt anh ta trông hơi hí một chút xíu thôi, khiến anh ta lúc nào trông cũng có vẻ mơ màng, lúc nào cũng buồn thảm. Đó, đúng là cha đó… ” Ông ta nói, chỉ trỏ: ” Cha là Brando. Thiên hạ nói về cha như vậy, phải không cha ?”
” Không, họ không hề.”
” Có bao giờ cha đấu quyền Anh chưa ?”
” Ồ, chút đỉnh.”
” Cha người ở đây. Quận này ?”
” New York.”
” Golden Gloves, đúng không ?”
” Ông xứng đáng lên đại uý lắm.” Karras mỉm cười. ” Nào, bây giờ tôi giúp gì được cho ông đây ?”
” Làm ơn đi chậm hơn một chút. Bị bệnh khí thủng mà !” Nhà thám tử phác cử chỉ vào cổ họng mình.
” Ồ, tôi xin lỗi.” Karras lơi bước.
” Không hề gì. Cha có hút thuốc không ?”
” Có.”
” Không nên hút.”
” Thôi, có chuyện gì thì kể cho tôi nghe đi.”
” Đã hẳn. Tôi đang lạc đề rồi. À này, cha bận à ?” Nhà thám tử hỏi dò. ” Tôi không quấy rầy đấy chứ ?”
” Quấy rầy cái gì ?” Karras hỏi, vẻ sửng sốt.
” Hừ, thì việc cầu nguyện thầm, chắc vậy ?”
” Chắc phải phong ông lên đại uý,” Karras mỉm cười bí hiểm.
” Xin lỗi, tôi có sơ sót điều gì chăng ?”
Karras lắc đầu, nhưng nụ cười vẫn còn vương vấn. ” Tôi không tin là ông để sót điều gì hết.” Linh mục nhận xét, cái liếc xéo của ông về phía Kingdman đầy ranh mãnh và nhấp nháy một cách nhiệt tình.
Kingdman dừng lại, hết sức cố gắng trong vô vọng mong tạo được một vẻ mặt ngơ ngác, nhưng nhìn đôi mắt đầy nếp nhăn của người tu sĩ, ông cúi đầu rầu rĩ. ” À phải. Dĩ nhiên… dĩ nhiên vậy rồi… một nhà tâm thần học mà. Tôi đâu có giỡn mặt được.” Ông ta nhún vai. “Cha thấy, điều đó đã thành thói quen đối với tôi, thưa cha. Bỏ lỗi cho tôi. Cái trò tình cảm ủy mị, đó là phương pháp Kingdman: thuần tuý là tình cảm ướt át. Được rồi, tôi sẽ thôi quanh co và nói thẳng với cha là việc gì.”
” Mấy vụ phạm thánh,” Karras nói, gật gù.
” Vậy là cái trò vặt tình cảm ủy mị của tôi hoá ra công cốc,” nhà thám tử nói khẽ.
” Rất tiếc.”
” Không hề gì, thưa cha, thế cho đáng đời tôi. Vâng, những vụ xảy ra trong nhà thờ ấy.” Ông xác nhận. “Đúng thế! Có lẽ chỉ có một điều khác nữa ngoài lề, một điều nghiêm trọng.”
” Giết người ?”
” Phải, cha lại đá tôi một phát nữa, tôi khoái lắm.”
” Chà, thì ban Điều Tra Án Mạng mà.” Vị tu sĩ Dòng Tên nhún vai.
” Không sao, không sao, thưa tài tử Marlon Brando, không sao cả. Thiên hạ bảo là xét như một linh mục thì cha khá là ranh mãnh.”
” Lỗi tại tôi mọi đàng,” Karras thầm thì. Dù lúc đó ông vẫn mỉm cười nhưng ông lấy làm hối hận vì có lẽ ông đã vô tình làm tổn thương tự ái của viên thám tử. Thực tâm ông không cố ý làm thế. Lúc này ông cảm thấy sung sướng có dịp bày tỏ một sự bối rối chân thành. ” Dù vậy, tôi không hiểu được ý ông.” Ông nói thêm, không quên cau mày một phát. “Hai điều đó có liên quan gì không ?”
” Này thưa cha, ta có thể giữ kín điều này chỉ hai chúng ta biết được không ? Giữ mật ? Xem như một vấn đề xưng tội, có thể nói như vậy ?”
” Dĩ nhiên là được.” Vị linh mục sốt sắng nhìn nhà thám tử. ” Chuyện gì vậy ?”
” Cha biết nhà đạo diễn đã từng làm phim ở đây không, thưa cha ? Burke Dennings ấy ?”
” Ồ, tôi có gặp ông ta rồi.”
” Cha đã gặp ông ta rồi.” Nhà thám tử gật đầu. ” Cha cũng đã rành chuyện ông ta chết như thế nào rồi chứ ?”
” Thì, báo chí… ” Karras lại nhún vai.
” Báo chí chỉ nói phần nào thôi.”
” Thế nữa ?”
” Chỉ phần nào thôi. Chỉ một phần không hơn. Này cha, cha biết gì về đề tài phù thủy ?”
” Cái gì ?”
” Nghe đây, cứ kiên nhẫn, tôi đang muốn phăng đến một điều nào đó. Bây giờ thì làm ơn nói về vụ phù thủy đi. Cha có rảnh không ?”
” Chút đỉnh.”
” Trên phương diện hoạt động của bọn phù thủy, chứ không phải về việc săn bắt họ đâu.”
” Ồ, tôi đã có lần viết sách khảo cứu về đề tài ấy,” Karras cười, ” trên khía cạnh tâm thần học.”
” Ồ, thật sao ? Tuyệt quá! Cừ quá đi thôi! Đúng là một phần thưởng cho tôi. Một điểm A cộng. Cha có thể giúp ích tôi rất nhiều, rất nhiều hơn chỗ tôi tưởng. Nào, cha, nói về thuật phù thủy… ”
Ông với tay nắm chặt lấy cánh tay vị linh mục Dòng Tên lúc họ đi quanh một khúc rẽ và đến gần chiếc ghế đá. ” Như tôi đây, một kẻ tầm thường, và nói trắng ra, không được học hành nhiều cho mấy, xét về mặt giáo dục trường lớp, khoa bảng. Không thật. Nhưng tôi chịu đọc. Vâng, tôi biết người ta thường nói thế nào về những kẻ tự lập, người ta hay bảo rằng họ là những thí dụ điển hình đến khiếp về sự lao động không kỹ năng. Tôi không xấu hổ. Không hề. Tôi..” Chợt ông chận ngang trớn nói, nhìn xuống và lắc đầu. “Lại tình cảm ủy mị nữa rồi. Đúng là thói quen mà. Tôi không cách gì chữa được cái trò tình cảm ủy mị này được. Chà, xin bỏ lỗi cho, cha đang bận rộn quá.”
” Vâng, tôi đang cầu nguyện.”
Câu nói nhỏ nhẹ củu vị tu sĩ khô khốc và vô hồn. Kingdman dừng lại chốc lát mà ngó ông. ” Cha nói thật đấy chứ ?” ” Không ?”
Nhà thám tử lại nhìn ra trước và họ tiếp tục đi. ” Đây, tôi xin nói vào đề, những vụ phạm thánh. Chúng có nhắc cho cha nhớ tới điều gì liên quan đến thuật phù thủy không ?”
” Có lẽ. Một vài nghi thức đã được sử dụng trong Lễ Đen.”
” Một điểm A cộng nữa. Bây giờ tới Dennings. Cha đã đọc báo thấy ông ta chết ra sao rồi chứ ?”
” Vì một cái ngã.”
” Đây, tôi nói cha nghe, và xin giữ mật đấy nhé ?”
” Dĩ nhiên.”
Nhà thám tử có vẻ đau khổ vì ông nhận ra là Karras không hề có ý muốn dừng ở ghế đá. ” Cha có phiền không ?” Ông hỏi, vẻ mong ngóng.
” Gì cơ ?”
” Ta dừng lại được không ? Có lẽ ngồi xuống ?”
” Ồ, được chứ.” Họ bắt đầu vòng lại chiếc ghế đá.
” Cha sẽ không bị cóng chứ ?”
” Không đâu, bây giờ tôi khỏe rồi.”
” Cha chắc chứ ?”
” Tôi khỏe mà.”
” Được rồi, được rồi, nếu ý cha đã quyết.”
” Lúc nãy ông đang nói gì nhỉ ?”
” Xin chờ cho một giây, một giây thôi mà.”
Kingdman đặt tấm thân mỏi nhừ của ông lên ghế đá với một tiếng thở dài mãn nguyện. ” Chà, khá hơn rồi, có khá hơn rồi.” Ông nói lúc vị linh mục Dòng Tên nhặt chiếc khăn lên lau khuôn mặt đẫm mồ hôi của mình. “Đang độ trung niên thật là một cuộc đời !”
” Burke Dennings hả ?”
” Burke Dennings, Burke Dennings, Burke Dennings… ” nhà thám tử gật đầu, ngó xuống giày. Rồi ông ngẩng lên nhìn Karras, vị linh mục đang lau gáy. ” Thưa cha nhân lành, Burke Dennings đã được tìm thấy ở chân dãy bậc cấp dài dằng dặc ấy đúng bảy giờ năm phút, đầu vặn tréo ngoe ra đằng sau.”
Những tiếng la hét loáng thoáng vẳng ra từ sân dã cầu, nơi đội bóng Đại học tập dượt. Karras ngừng lau, chịu đựng tia nhìn đăm đăm của viên trung uý. ” Điều đó đã không xảy ra trong khi ngã chứ ?” Rốt cuộc ông lên tiếng.
” Cái chắc là có thể xảy ra trong lúc ngã lắm chứ.” Kindman nhún vai. “Nhưng mà…”
” Không có lẽ nào.” Karras suy nghĩ.
” Vậy cha nghĩ sao về điều đó, trong nội dung của thuật phù thủy ?”
Vị linh mục chậm rãi ngồi xuống, lộ vẻ đăm chiêu. ” Chà,” cuối cùng ông nói, ” cứ giả thiết như là bọn quỷ dữ đã vặt gãy cổ các phù thủy theo cách đó. Chí ít thì thần thoại cũng đã kể lại như vậy.”
” Một thần thoại ư ?”
” Ồ, phần lớn là vậy.” Vị linh mục quay sang Kinderman. ” Mặc dù con người ta quả đã có kẻ chết y như cách đó thật, tôi nghĩ vậy, có thể lắm, đó là những hội viên của một ổ phù thủy đào thoát hoặc đã tiết lộ bí mật của tổ chức. Đó chỉ là một sự phỏng đoán thôi. Nhưng tôi biết rõ đó chính là dấu ấn của bọn sát nhân thờ quỷ dữ.”
Kindman gật đầu. ” Chính xác. Chính xác lắm. Tôi nhớ lại một vụ giết người tương tự đã xảy ra ở London. Xảy ra vào thời đại bây giờ. Tôi muốn nói là mới dạo gần đây, mới bốn, năm năm trước đây thôi, thưa cha. Tôi nhớ là tôi đã đọc thấy việc đó trên báo chí.”
” Vâng, tôi cũng có đọc, nhưng thiết tưởng chuyện đó hoá ra chỉ là trò đùa dai mà thôi. Tôi có lầm không ạ ?”
” Không đâu, đúng như thế, cha ạ, hoàn toàn đúng như cha nghĩ. Nhưng còn trong trường hợp này thì chí ít, người ta cũng thấy được đôi chỗ tương quan, có lẽ thế, giữa vụ đó và những việc xảy ra trong nhà thờ. Có lẽ một kẻ nào đó điên rồ, thưa cha, một kẻ nào đó đem lòng thù oán giáo hội. Một cuộc nổi loạn từ tiềm thức, có lẽ thế.”
” Một linh mục bệnh hoạn,” Karras thì thầm. ” Hẳn thế ?”
” Này cha, cha là một nhà tâm thần học, cha hãy nói cho tôi nghe đi.”
” Dĩ nhiên thôi, các hành vi xúc phạm thần thánh rõ ràng là có tính cách bệnh lý.” Karras trầm ngâm nói, vừa mặc vội chiếc áo len vào. ” Và nếu quả thật là Dennings đã bị giết chết thì, tôi đoán rằng kẻ sát nhân cũng là một kẻ bệnh hoạn mà thôi.”
” Và có lẽ y có chút kiến thức về thuật phù thủy.”
” Có thể.”
” Có thể,” nhà thám tử lầu bầu. ” Vậy thì ai đó hội đủ tiêu chuẩn, chắc cũng chỉ sống nội trong vùng này thôi, và đã lẻn vào nhà thờ trong đêm hôm đó ?”
” Một linh mục bệnh hoạn” Karras nói, rầu rĩ với tay lấy chiếc quần kaki đã bạc phếch ra vì nắng gió.
” Xin cha hãy nghe đây, tôi nói điều này hẳn sẽ rất khó chịu đối với cha, tôi hiểu lắm. Nhưng đối với các linh mục đang sống trong khuôn viên trường Đại học này, cha là một bác sĩ tâm thần, một vị cố vấn về các vấn đề tâm linh, thưa cha, hẳn là cha… ”
” Không, tôi đã thay đổi nhiệm sở rồi.”
” Ủa, thật sao ? Ngay giữa năm như thế này à ?”
” Đó là lệnh Bề Trên.” Karras nhún vai lúc ông xỏ quần vào.
” Dù vậy, cha hẳn biết vào thời điểm đó những ai là kẻ bệnh hoạn và những ai không chứ, đúng không? Tôi muốn nói là cái loại bệnh đó. Cha đã biết rồi.”
” Không, không nhất thiết đâu, thưa Trung uý. Tuyệt không. Sự thật là nếu quả tôi có biết đi nữa thì cũng chỉ là chuyện tình cờ. Ông thấy đó, tôi không phải là nhà phân tâm học. Tất cả công việc tôi làm là giúp ý kiến . Vả lại,” ông vừa bình luận vừa cài cúc quần, ” tôi thật sự không biết người nào khớp với điều mô tả trên cả.”
” À phải, nguyên tắc đạo đức của người bác sĩ. Nếu cha có biết, chắc cha cũng chẳng nói.”
” Đúng thế, có thể lắm là tôi không nói.”
” Nhân tiện – Và tôi cũng xin đề cập đến để nghe chơi thôi – Cái nguyên tắc đạo đức này dạo gần đây đã được xem là bất hợp pháp rồi. Không dám quấy rầy cha vì những chuyện vụn vặt, nhưng xin thưa với cha rằng mới đây một bác sĩ tâm thần ở California ngập nắng, đúng thế đó, đã bị tống giam vì không chịu khai báo với cảnh sát những điều ông ta biết về một bệnh nhân.”
” Một lời đe doạ chăng ?”
” Đừng có nói chuyện điên. Tôi chỉ đề cập đến nghe chơi vậy thôi.”
” Lúc nào tôi cũng có thể trình bày với quan toà rằng đó là một bí mật của toà giải tội được.” Vị linh mục Dòng Tên nói, vừa cười gượng gạo lúc ông đứng lên bỏ áo vào quần. ” Thẳng thắng mà nói là như vậy,” ông nói thêm.
Nhà thám tử ngước nhìn ông, có phần ảm đạm. ” Thưa cha, cha muốn ta bàn chuyện nghiêm chỉnh chứ ?” Ông ta hỏi. Rồi ông nhìn chỗ khác, vẻ buồn nản. ” Cha… Cha gì nhỉ ?” Ông hỏi như đánh đu với chữ nghĩa. ” Cha là một người Do Thái, mói gặp cha là tôi biết ngay.”
Vị linh mục cười khan.
” Ừ, cười đi.” Kindman bảo. ” Cứ cười đi.” Nhưng sau đó ông ta mỉm cười, có vẻ hài lòng với chính mình một cách ranh mãnh. Ông quay lại với ánh mắt rạng rỡ. ” Điều này làm tôi nhớ lại kỳ thi tuyển vào ngành cảnh sát, thưa cha, lúc tôi thi có một câu hỏi đại để như thế này: ” rabies là gì và các anh sẽ làm gì với chúng ?” Cha có biết một tên đầu bò hạ bút trả lời như thế nào không ? Anh chàng này tên là Emis thì phải ? ” Rabies” anh ta viết, “là các tu sĩ Do Thái giáo, và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ họ”, tôi nói thật đó !” Ông ta giơ một tay lên thề.
Karas cười. ” Nào, tôi đưa ông ra xe đây, xe ông đậu ngoài bãi phải không ?”
Nhà thám tử ngước nhìn vị linh mục, miễn cưỡng không muốn đi. ” Vậy là ta kết thúc sao ?”
Vị linh mục gác một chân lên ghế đá, nghiêng người tới trước, một tay tựa hẳn lên đầu gối. ” Thực lòng tôi không dấu diếm gì đâu.” Ông nói. ” Thật đó. Giá tôi biết một linh mục nào giống như kẻ ông đang tìm kiếm, chí ít tôi cũng có thể nói cho ông rằng có một người như thế..như thế… , mà không tiết lộ tên ông ta. Rồi kế đó, tôi sẽ phúc trình việc ấy lên Giám Tinh. Nhưng tôi không biết có ai thậm chí hơi giống như vậy.”
” À, vâng,” nhà thám tử thở dài. “Trước hết, tôi chưa hề nghĩ đó là một linh mục. Thực sự là không.” Ông gật đầu về hướng bãi đậu xe. ” Vâng, xe tôi ngoài đó.”
Hai người cất bước.
” Điều mà tôi thực tâm nghi ngờ,” nhà thám tử tiếp tục. ” Nếu tôi nói ra chắc cha sẽ bảo là tôi điên. Tôi không biết. Tôi không biết.” Ông ta lắc đầu quầy quậy. “Ôi chao, bao nhiêu kiểu hội kín thế này, những giáo phái kiểu này, nơi họ giết người một cách vô cớ. Nó khiến cho ta bắt đầu suy nghĩ đến những điều kỳ quặc. Để theo kịp thời đại, vào những thời buổi như thế này, ta còn phải điên một chút mới được.”
Karras gật đầu.
” Cái gì trên áo thun của cha vậy ?” nhà thám tử hỏi vị linh mục, vừa hất đầu về phía ngực áo ông.
” Cái gì đâu ?”
” Trên ngực áo thun đó,” nhà thám tử nói rõ. ” Hàng chữ ấy, Các Triết Gia.”
” À, có một năm tôi đã dạy vài khoá,” Karras nói, ” ở chủng viện Woodstock, bang Maryland. Tôi chơi trong đội dã cầu lớp dưới. Các cầu thủ được gọi là Các Triết Gia.”
” À, còn đội lớp trên ?”
” Các Nhà Thần Học.”
Kinderman mỉm cười và lắc đầu. ” Các Nhà Thần Học ba, Các Triết Gia hai,” ông ngẫm nghĩ.
” Các Triết Gia ba, Các Nhà Thần Học hai.”
” Dĩ nhiên.”
” Dĩ nhiên.”
” Những chuyện lạ lùng.” Nhà thám tử trầm ngâm. ” Lạ lùng thật. Này, thưa cha..” Ông bắt đầu một chiến thuật dè dặt. ” Này, bác sĩ ơi, … tôi có điên không, hay là có thể có một ổ phù thủy tại Quận này ngay lúc này đây ? Ngay hôm nay đây ?”
” Ôi, nào.” Karras nói.
” Thế là có thể có rồi.”
” Tôi không hiểu ý ông.”
” Bây giờ tôi sẽ đóng vai bác sĩ đây,” nhà thám tử tuyên bố với linh mục, ngón tay trỏ của ông ta vung vẩy trong không khí. ” Cha không nói là không, mà lại tỏ ra tinh ranh một lần nữa. Thế là cha thủ thế rồi, thưa cha nhân lành, đúng là cha thủ rồi. Cha sợ rằng cha sẽ trông ra vẻ cả thộn, dễ tin, có lẽ vậy, ra vẻ một ông cha mê tín trước mặt Kinderman nhà trí tuệ bậc thầy, nhà duy lý,” ông vỗ vỗ ngón tay lên trán. ” Bậc thiên tài bên cạnh cha đây. Thời đại của lý trí biết đi đây. Đúng không ? Tôi nói có đúng không ?”
Vị linh mục Dòng Tên nhìn chăm chăm nhà thám tử với vẻ ức đoán và sự nể vì càng lúc càng tăng. ” Chà, thật là hết sức sắc sảo, khôn ngoan,” ông nhận xét.
” Được rồi,” Kinderman lầu bầu. ” Thế thì tôi xin hỏi cha một lần nữa, có thể có những hang ổ của bọn phù thủy ngay tại quận này không ?”
” Chà, điều này thì quả thật tôi không biết,” Karras trầm ngâm đáp, hai tay ông khoanh trước ngực. ” Nhưng tại nhiều khu vực ở châu Âu, người ta vẫn cử hành Lễ Đen.”
” Ngày nay à ?”
” Ngày nay.”
” Có phải cha muốn nói là cũng y như thuở xưa vậy, hở cha ? Này, tình cờ tôi có được đọc về mấy chuyện đó, nào là chuyện tình dục, chuyện tượng thánh, và cơ man những điều chẳng ai biết đâu mà lần. Tôi không làm cha ghê tởm, nhưng tiện thể xin hỏi cha là họ quả có làm tất cả những điều ấy không ? Thật không ?”
” Tôi không biết.”
” Vậy thì ý kiến của cha ra sao, thưa cha Phòng Thủ.”
Vị linh mục Dòng Tên bật cười. ” Thôi được rồi, tôi nghĩ là điều đó có thật đấy. Hay chí ít tôi cũng nghĩ là như vậy. Nhưng hầu hết các luận điểm của tôi đều căn cứ trên bệnh lý học. Chắc chắn như vậy, cái vụ Lễ Đen đó. Bất cứ kẻ nào làm những hành động đó đều là một con người hết sức rối loạn, và rối loạn hết sức đặc biệt. Thật vậy, thuật ngữ y học, có một cái tên gọi loại chứng rối loạn kiểu đó được mệnh danh là hội chứng quỷ xa-tăng – Satanism – hay là sự sùng bái xa-tăng, ý muốn nói những kẻ không thể nào đạt được khoái lạc nhục dục mà không kèm theo một hành động báng bổ thần thánh nào đó. Vâng, điều đó không phải là bất thường lắm đâu ngay cả trong thời đại ngày nay, và Lễ Đen được sử dụng đến chỉ như một cách biện minh đó thôi.”
” Một lần nữa, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng còn những hành vi dâm loạn người ta thực hiện trên tượng Chúa Giê-su và trinh nữ Marie thì sao ?”
” Những hành động ấy ra sao cơ ?”
” Mà chúng có thật không ?”
” Vâng, tôi nghĩ là điều này có lẽ khiến ông quan tâm với tư cách là một viên chức cảnh sát.” Máu học giả của vị linh mục lại được kích thích sôi sục lên, cử chỉ của Karrsas trở nên hùng hồn một cách lặng lẽ. ” Tàng thư văn khố của Sở Cảnh sát Paris vẫn còn lưu trữ hồ sơ vụ hai tu sĩ thuộc một tu viện lân cận, để xem nào… ” ông gãi đầu như cố gắng nhớ lại. ” À, phải rồi, tu viện ở Crépy, tôi tin như thế. Hay bất cứ tu viện nào,” ông nhún vai, ” ở vùng gần đó. Hai tu sĩ này bước vào một lữ quán, hung hăng đòi một chiếc giường ba người nằm. À, nhân vật thứ ba thì họ vác trên vai : một tượng Đức Mẹ lớn cỡ bằng người thật.”
” Trời đất, kinh khủng quá,” nhà thám tử thở hào hển. ” Kinh khủng quá !”
” Nhưng sự thực đúng như vậy, và đó là một chỉ dẫn khá rõ ràng những điều ông đọc đã được căn cứ trên thực tế.”
” Chà, chuyện tình dục, có lẽ vậy rồi, có lẽ như vậy. Tôi có thể hiểu được. Đó lại là một chuyện hoàn toàn khác. Không hề gì. Nhưng đàng này, xét đến những vụ giết người theo nghi lễ thì sao đây, thưa cha ? Có thật không ? Cha nói đi ! Cái vụ lấy máu trẻ sơ sinh ấy ?” Nhà thám tử đang ám chỉ đến một điều khác ông đã được đọc trong sách biên khảo về thuật phù thủy, chương mô tả thế nào trong cuộc Lễ Đen, thầy tế lễ không mặc áo dòng kia lắm lúc thường rạch cườm tay một trẻ sơ sinh làm cho máu nó chảy vào một chén thánh, sau đó chén máu được hiến tế và dùng trong nghi thức thông công. ” Điều đó giống hệt những chuyện người ta hay kể về người Do Thái,” nhà thám tử nói tiếp, ” thế nào họ bắt cóc những hài nhi Thiên Chúa giáo rồi uống máu chúng. Chà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng chính dân tộc cha đã kể các câu chuyện đó.”
” Nếu họ đã làm điều đó, thì xin hãy tha thứ cho tôi.”
” Cha đã được giải tội, cha đã được giải tội rồi mà.”
Một cái gì đen tối, một cái gì đó buồn thảm, lướt qua mắt vị linh mục, giống như cái bóng của một niềm đau được hồi tưởng lại trong chốc lát. Ông vội chú tia mắt mình vào lối đi ngay trước mặt.
” Thực sự tôi không biết gì về chuyện giết người theo nghi lễ.” Karras nói. ” Tôi không biết thật. Nhưng có dạo, một bà mụ ở Thụy Sĩ đã thú nhận đã giết ba mươi hoặc bốn mươi trẻ sơ sinh để sử dụng tại Lễ Đen. Ồ, thì có lẽ bà ta đã bị tra khảo,” ông nói thêm. ” Ai mà biết được. Nhưng rõ ràng bà ta đã kể một câu chuyện hết sức thuyết phục, rất đáng tin cậy. Bà kể rằng bà thường dấu một chiếc kim dài, nhỏ, trong tay áo, để mỗi khi đỡ một hài nhi ra khỏi lòng mẹ, bà lại kéo cái kim ra, đâm suốt vào đỉnh đầu đứa bé, sau đó lại giấu cái kim vào chỗ cũ. Không hề có dấu vết.” Ông nói, mắt nhìn Kinderman. ” Đứa bé trông như đã chết trong bụng mẹ. Ông hẳn đã được nghe nói về thành kiến trước đây của giáo hội Công giáo Âu châu đối với các bà mụ rồi chứ ? Vâng, thành kiến đó bắt đầu từ sự kiện đó.”
” Thật hãi hùng.”
” Thế kỷ này đã không chặn đứng được thói điên loạn. Dù sao thì… ”
” Này, xin cha chờ cho một chút, chờ đã, xin cha thứ lỗi, mấy câu chuyện này, chúng được kể bởi những người đã bị tra tấn, đúng không ? Do đó, tự căn bản, chúng không có gì đáng tin cậy cho lắm. Họ ký trước những bản cung khai rồi sau đó, những kẻ hỏi cung điền vào chỗ trống theo ý muốn. Tôi muốn nói là, làm gì có những đạo luật như là luật habae corpus đâu, làm như có những trát toà kiểu như là ” Hãy Để Cho Dân Tôi Đi” đâu có thể nói như vậy. Tôi nói có đúng không ? Tôi nói đúng đấy chứ ?”
” Vâng, ông nói đúng, nhưng cũng xin thưa với ông rằng, nhiều bản cung khai đã mang tính chất tự nguyện.”
” Vậy thì kẻ nào lại tự nguyện đối với những điều kinh khiếp như thế ?”
” Chà, có thể là những kẻ rối loạn tâm thần.”
” A ha, lại thêm một nguồn tin đáng tin cậy nữa đây.”
” Vâng, đã hẳn là ông hoàn toàn đúng, thưa Trung uý. Tôi chỉ đóng vai trò luật sư của quỷ đấy thôi. Nhưng có một điều, đôi khi chúng ta có khuynh hướng hay quên, đó là những kẻ đủ điên loạn để khai ra những điều như thế thì có thể cũng điên loạn để làm những điều đó, ta có thể quan niệm như thế lắm chứ. Ví dụ như những huyền thoại về ma sói. Vâng, đúng như vậy, những điều đó thực đáng nực cười, phi lý quá, có ai lại biến mình thành chó sói được đâu. Nhưng nếu có một kẻ tâm thần rối loạn cho đến nỗi chẳng những y nghĩ mình là một con ma sói, mà lại còn hành động giống như loài lang sói thì sao đây ?”
” Kinh khủng thật, thưa cha. Điều này nghĩa lý ra làm sao ? Lý thuyết chăng hay là sự thật ?”
” Vâng, có một kẻ tên là William Stumpf, tôi xin nêu một ví dụ. Hay tên Peter gì đó. Tôi không nhớ rõ tên. Y là một người Đức sống vào thế kỷ thứ XVI, tự cho mình là một con ma sói. Y đã giết có lẽ phải đến hai mươi hoặc ba mươi em nhỏ.”
” Cha muốn nói là y đã khai ra điều đó chứ ?”
” Đúng vậy, nhưng tôi nghĩ là lời cung khai ấy có giá trị.”
” Làm sao biết được như thế ?”
” Thì khi người ta bắt y, y đang ăn óc hai người con dâu trẻ tuổi của y.”
Từ sân tập dã cầu, trong ánh nắng tháng Tư trong trẻo nhẹ nhàng, vọng lại âm thanh dòn dã của những tiếng chuyện trò, tiếng bóng dội lại từ chày quất.
Hai người đã ra đến bãi đậu xe, vị linh mục và nhà thám tử. Lúc này họ bước đi trong yên lặng.
Lúc họ đến bên xe tuần cảnh, Kinderman thẩn thờ với tay ra phía tay nắm cửa xe. Ông dừng lại một lúc, sau đó ngước lên nhìn Karras với ánh mắt ủ dột.
” Vậy là tôi phải đi tìm ai đây, thưa cha ?” Ông hỏi vị linh mục.
” Một người điên,” Damien Karras nhỏ nhẹ nói. ” Có lẽ một kẻ nghiện ma tuý.”
Nhà thám tử nghĩ kỹ điều đó, rồi lẳng lặng gật đầu. Ông quay sang vị linh mục. ” Cha muốn đi một cuốc xe không ?” Ông hỏi, vừa mở cánh cửa xe tuần cảnh.
” Ồ, cảm ơn, có một quảng đường ngắn thôi ấy mà.”
” Hề gì, cứ thưởng thức,” Kinderman phác cử chỉ nóng nảy, vừa ra hiệu cho Karras leo lên xe. ” Cha sẽ có dịp kháo với bạn bè là cha vừa lả lướt trên xe cảnh sát chứ sao.”
Vị linh mục Dòng Tên cười toét miệng rồi lách vào băng sau.
” Tốt lắm, tốt lắm,” nhà thám tử lầm thầm, giọng khản đặc, rồi lúng túng len người ngồi cạnh vị linh mục, xong đóng cửa lại. ” Không có một chặng đường nào là ngắn cả.” Ông ta bình luận. ” Không hề.”
Với sự chỉ dẫn của Karras, họ cho xe chạy xuống khu cư xá hiện đại của Dòng Tên toạ lạc trên phố Prospect, nơi vị linh mục vừa dọn vào chỗ ở mới. Ông cảm thấy nếu ông cứ lưu lại túp nhà nhỏ kia, ông sẽ không thể nào tránh được những kẻ ông đã từng khuyên bảo còn tiếp tục đến tìm sự giúp đỡ chuyên môn của ông nữa.
” Cha thích điện ảnh chứ, thưa cha Karras ?”
” Rất thích.”
” Cha đã xem phim Lear chưa ?”
” Không đủ khả năng.”
” Tôi xem rồi.Tôi có thẻ vào cửa.”
” Thế thì tuyệt quá.”
” Tôi có thẻ vào cửa để xem những phim hay nhất. Thế mà bà K. nhà tôi lại cứ mệt hoài, chả bao giờ thích đi xem.”
” Thật đáng tiếc.”
” Đáng tiếc thật ấy chứ, đúng thế đấy, tôi chúa ghét đi xem phim một mình. Cha biết đấy, tôi thích nói chuyện phim ảnh, thảo luận, phê bình.” Ông ta nhìn đăm đăm qua cửa sổ, tia mắt ngoảnh đi không ngó vị linh mục.
Karras lẳng lặng gật đầu, mắt nhìn xuống đôi bàn tay to lớn và thật mạnh mẽ của mình. Hai bàn tay chắp trên đùi. Một khoảnh khắc trôi qua. Sau đó Kinderman lưỡng lự quay lại với vẻ mong ngóng. ” Lúc nào có dịp mời cha đi xem phim với tôi, cha nhé ! Xem miễn phí… Tôi có thẻ vào cửa mà.” Ông vội nói thêm.
Vị linh mục nhìn ông, cười toét miệng. ” Giống như cách Elwood P. Dowd hay nói trong phim Harvey, thưa Trung uý, khi nào ?”
” Ồ, tôi sẽ gọi điện thoại cho cha mà, tôi sẽ gọi mà.” Nhà thám tử mặt mày rạng rỡ, xởi lởi.
Họ đã đến khu cư xá và đỗ xe lại. Karras đặt tay trên cửa xe, khẽ mở đánh “kịch” một tiếng. ” Xin ông cứ gọi cho tôi. Thật tôi rất lấy làm tiếc đã không giúp gì được cho ông mấy.”
” Hề gì đâu, cha đã giúp ích rất nhiều.” Kinderman vẫy tay, vẻ ỉu xìu. Karras bước xuống xe. ” Nói thật mà nghe, nếu xét như một người Do Thái đang cố vượt qua cuộc thi, thì cha là một người rất dễ mến.”
Karras quay lại, đóng cửa, nghiêng người xuống cửa sổ xe với một nụ cười nhiệt thành phảng phất. ” Thiên hạ có bao giờ bảo ông là ông trông giống tài tử Paul Newman không ?”
” Bảo hoài ấy chứ. Và cha cứ tin tôi đi, bên trong cái thân xác này, chàng Newman không ngừng phấn đấu để thoát ra ngoài, chứ ở trong đó chật chội quá,” ông bảo. ” Còn có cả Clark Gable nữa chứ.”
Karras tươi cười vẫy tay rồi bước đi.
” Này cha, hượm đã!”
Karras quay lại, nhà thám tử đang chen người ra khỏi xe.
” Này thưa cha, tôi quên khuấy đi mất,” ông ta thở hào hển, vừa tiến lại gần vị linh mục. ” Thật trí óc cứ mụ mẩm cả. Cha biết đấy chứ, cái tấm thẻ có viết những chữ nghĩa dơ dái ấy ? Cái tấm người ta tìm thấy trong nhà thờ ấy ?”
” Ông muốn nói đến tấm thẻ trên bàn thờ phải không ?”
” Bất cứ. Nó vẫn còn quanh quẩn ở đâu đây đấy chứ ?”
” Vâng, tôi vẫn còn giữ nó trong phòng. Tôi đang thẩm định văn thể La tinh trên đó. Ông muốn xem chứ ?”
” Vâng, có lẽ nó sẽ tiết lộ đôi điều. Có lẽ vậy.”
” Đợi một giây, tôi đi lấy ngay.”
Trong lúc Kinderman đợi bên ngoài cạnh xe tuần cảnh, vị linh mục Dòng Tên đi đến phòng riêng của ông ở tầng trệt, nhìn ra phố Prospect, tìm thấy tấm thẻ kia. Ông vòng trở ra, trao thẻ cho Kinderman.
” Có lẽ còn vài vết dấu tay,” Kinderman nói, giọng khò khè, lúc ông xem xét tấm thẻ. Thế rồi, ” không, hượm đã, cha đã cầm tới cầm lui tấm thẻ này rồi,” có vẻ như ông đã nhanh chóng nhận ra điều ấy. ” Suy luận khá đấy chứ, hở cha ?” Ông đang lúng túng, bận bịu với lớp nhựa plastic bọc ngoài tấm thẻ. ” Ồ, không được, hượm đã, được rồi, nó bong ra rồi, ra rồi.”
Rồi ông ngước nhìn Karras với nỗi thất vọng chớm nở. ” Mà cha cũng đã cầm vào cả bên trong luôn rồi, phải không Kirk Douglas ?”
Karras cười tóet miệng, vẻ trầm ngâm, gật đầu.
” Không sao, có lẽ ta vẫn còn tìm được một điều gì khác không chừng. À mà, cha đã nghiên cứu nó chưa ?”
” Rồi, tôi đã.”
” Kết luận ra sao ?”
Karras nhún vai. ” Không có vẻ gì là công trình của một kẻ đùa dai cả. Thoạt tiên, tôi nghĩ có lẽ là một sinh viên. Nhưng tôi nghi lắm. Bất cứ ai đã làm điều này phải là kẻ tâm thần bị rối loạn khá sâu sắc.”
” Như cha đã nói rồi.”
” Còn thứ tiếng La tinh đó… ” Karras trầm tư. ” Chẳng những nó không chút khuyết điểm, thưa Trung uý, mà nó – chà – nó còn có một văn phong rõ rệt hết sức độc đáo. Có vẻ những kẻ viết ra nó đã quen suy nghĩ bằng tiếng La tinh vậy.”
” Các linh mục có vậy không ?”
” Thôi nào.”
” Xin trả lời thẳng vào câu hỏi cho, thưa đức Cha Hoang Tưởng ?”
” Được rồi, ở một thời điểm trong quá trình huấn luyện các linh mục, quả là họ có như vậy thật. Ít nhất là trong trường hợp các Cha Dòng Tên và một số các Dòng khác. Tại Chủng viện Woodstock, một số khoá triết học được giảng dạy bằng tiếng La tinh.”
” Sao vậy ?”
” Để cho tư tưởng được chính xác. Giống như trong luật học vậy.”
” À, tôi hiểu.”
Karras chợt có vẻ hăng say, nghiêm túc hẳn. ” Này, trung uý, tôi có thể bảo cho ông biết là tôi thật sự nghĩ ai là thủ phạm của vụ này không ?”
Nhà thám tử nghiêng sát người lại. ” Không, ai vậy ?”
” Bọn Dominicains đấy. Đi mà lùng sục họ đi.”
Karras mỉm cười vẫy, tay chào rồi bước đi.
” Hồi nãy tôi nói dối đó,” nhà thám tử gọi với theo ông, sưng sỉa mặt mày. ” Cha giống hệt như Sal Mineo cơ !”
Kinderman nhìn lúc vị linh mục đưa tay vẫy chào một lần nữa và bước vào khu cư xá, rồi ông quay lại, leo lên xe tuần cảnh. Ông thở khò khè, ngồi bất động, nhìn xuống sàn xe. ” Ông ta cứ lúng ba lúng búng, lúng ba lúng búng,” ông thì thầm. ” Giống y như một âm thoa chìm dưới nước.” Thêm một lúc nữa, ông cứ đăm đăm trong dáng vẻ đó. Rồi ông quay lại bảo tài xế. ” Được rồi, ta về sở đi. Nhanh lên, bất chấp luật lệ.”
Chiếc xe lao vút đi.
° ° °
Căn phòng mới của Karras đồ đạc rất đơn sơ, một giường chiếc, một ghế dựa, một bàn làm việc và kệ sách xây chìm vào tường. Trên bàn giấy là một bức ảnh cũ của mẹ ông, và như một lời thống trách câm lặng treo trên tường ở đầu giường là một chiếc thập tự giá bằng kim loại.
Căn phòng chật hẹp đó đối với ông đã đủ là một thế giới. Ông không màng tới của cải riêng tư, có điều những thứ ông có đều sạch sẽ tinh khiết.
Ông tắm vòi sen, kỳ cọ qua quít, mặc vội chiếc quần kaki và chiếc áo thun, rồi thong thả đi dùng bữa tối ở nhà ăn của các linh mục. Ở nhà ăn ông nhận ra cha Dyer, với đôi má hồng đang ngồi một mình ở một chiếc bàn trong góc. Ông đến với ông ta.
” Chào, Damien,” Dyer lên tiếng. Vị linh mục trẻ vận một chiếc áo thun thể thao dài tay.
Karras cúi đầu đứng bên một chiếc ghế, lầm thầm đọc kinh rõ nhanh. Sau đó, ông làm dấu thánh giá, ngồi xuống chào bạn.
” Thế nào chàng lang thang ?” Dyer hỏi lúc Karras trải chiếc khăn ăn lên lòng.
” Ai lang thang ? Tôi đang làm việc đấy nhé.”
” Mỗi tuần có một buổi diễn giảng thôi ấy à ?”
” Quý hồ tinh bất quý hồ đa, đáng kể là vấn đề chất lượng.” Karras nói. ” Sao, bữa ăn có gì đây ?”
” Cha không ngửi thấy à ?”
” À, cứt thật, lại một ngày của chó chăng ?” Có mùi xúc xích và dưa bắp cải.
” Đáng kể là vấn đề số lượng chứ.” Dyer ung dung đáp.
Karras lắc đầu, đưa tay với lấy bình sữa bằng nhôm.
” Tôi không uống thứ đó đâu.” Dyer lẩm bẩm, mặt không một nét cảm xúc, vừa phết bơ lên lát bánh mì làm toàn bằng bột mì. ” Có thấy sủi dầy bọt đấy không ? Tiêu thạch đấy ?”
” Tôi lại cần chất ấy,” Karras bảo. Lúc ông lật ngửa chiếc ly ra để rót sữa vào, ông nghe có tiếng người đến gần bàn họ.
” Chà, rốt cuộc tôi đã đọc xong cuốn sách ấy rồi,” người mới đến nói, mặt tươi hơn hớn.
Karras ngước lên nhìn và cảm thấy thất vọng ê chề, cảm thấy một sức nặng êm ái đè bẹp ngấu nghiến khi ông nhận ra vị linh mục dạo gần đây mới đến với ông để xin lời khuyên, vị linh mục không có khả năng kết bạn đó.
” Ồ, thế cha có ý kiến ra sao ?” Karras hỏi. Ông đặt bình sữa xuống, cứ như thể nó là một tập cẩm nang trong một tuần kinh nguyện dang dở.
Vị linh mục trẻ chuyện trò, và nữa giờ sau đó, Dyer phá lên cười run cả bàn, làm nhộn cả phòng ăn. Karras xem đồng hồ. ” Có muốn khoắng một chiếc áo vét không ?” Ông hỏi người linh mục trẻ. ” Ta có thể băng qua đường ngắm cảnh hoàng hôn.”
Chẳng mấy chốc, họ đã tựa người lên tay vịn ở đầu bậc cấp dẫn xuống dãy phố M. Ngày đã tàn. Nhưng tia sáng mượt mà của mặt trời lặn bùng cháy huy hoàng trên các tầng mây ở chân trời phía tây rồi vỡ thành những đốm đỏ thẩm lăn tăn trên mặt nước sông đang dần tối. Có dạo Karras đã gặp Chúa trong cảnh tượng này. Xa xưa lắm rồi. Giống như một người bị tình phụ, ông vẫn y hẹn.
” Thật là một cảnh tượng !” Vị linh mục trẻ thốt lên.
” Phải, đúng như vậy,” Karras biểu đồng tình. ” Đêm nào tôi cũng cố gắng ra ngoài này.” Chuông đồng hồ Viện Đại học đang dõng dạc gõ giờ. Đúng 7 giờ tối.
Vào; đi bộ ba dãy phố về hướng Nam đến một trạm xe buýt, đứng đợi một mình trong một phút đồng hồ, mặt đờ đẫn, sau đó quỵ người xuống, khóc nức nở bên một trụ đèn.
Cũng vào lúc đó, Trung uý Kinderman đang ở trong rạp chiếu bóng.