Prince Joe

Chương 2



Joe nằm trên boong chiếc tàu thuê, gối tay sau đầu, nhìn ngắm những đám mây. Những mảng bông trắng trong một khối pha lê xanh của bầu trời California, chúng đang chuyển động liên tục, luôn thay đổi và không bao giờ giống hệt nhau.

Anh thích thế.

Chúng nhắc nhở anh về cuộc đời của mình, hỗn độn và đầy những bất ngờ. Anh không bao giờ biết được khi một đám mây màu kem có thể bất ngờ biến thành một con rồng hung dữ.

Nhưng Joe thích nó theo cách đó. Anh thích không bao giờ biết được điều gì chờ mình đằng sau cánh cửa – một người phụ nữ hay một con hổ. Và chắc chắn, kể từ khi trở thành một SEAL, anh đã thấy cả hai.

Nhưng hôm nay không có phụ nữ cũng không có hổ. Hôm nay anh được nghỉ phép – một kỳ nghỉ ngắn, nó được gọi như vậy trong hải quân. Thú vui là anh sẽ dành một ngày của kỳ nghỉ trong tháng này tránh xa đất liền, trên một chiếc thuyền đánh cá.

Không phải gần đây anh chưa dành đủ thời gian trên biển. Thực tế là, trong vài tháng qua, anh đã ở trên một chiếc tàu hải quân chính xác trong chín mươi sáu giờ. Và để tập huấn. Một số giờ ở đó anh là một giảng viên. Nhưng một số thời gian còn lại anh là sinh viên. Tất cả những điều đó là một phần của Hải quân SEAL. Bất kể bạn có kinh nghiệm hoặc cấp bậc ra sao, bạn luôn luôn phải học hỏi, tiếp tục tập luyện, luôn đi đầu trong công nghệ và các phương thức mới.

Joe là chuyên gia trong chín lĩnh vực khác nhau, nhưng những lĩnh vực đó cũng luôn thay đổi. Giống như những đám mây trôi nổi trên đầu. Chính là điều khiến anh thích thú.

Trên boong tàu, mặc những bộ đồ cuối tuần thoải mái, một chiếc quần rách đi cùng chiếc áo phông, Harvard và Blue đang tranh cãi xem ai là người đã nhận được sự thất vọng lớn nhất trong email hàng tuần.

Bản thân Joe đã không nhận được bất cứ thứ gì ngoài hóa đơn, vậy đấy. Nếu muốn nói về sự thất vọng.

Joe nhắm mắt, để cho cuộc tranh cãi trôi lơ lửng trên đầu. Anh đã biết Blue được 8 năm, Harvard 6 năm. Giọng nói của họ – Blue nói giọng khàn, giọng nói kéo dài của người miền Nam Mason Dixon Line, và Harvard nói giọng mũi, thứ giọng của tầng lớp thượng lưu Boston – điều đã quen thuộc với anh như hơi thở. Nó vẫn đôi khi khiến anh bật cười rằng trong bảy người đàn ông của đội SEAL, người mà Blue thân nhất, sau Joe, là Daryl Becker, biệt danh Harvard.

Carter “Blue” McCoy và Daryl “Harvard” Becker. Họ “lỗ mãng” châm chọc và nằm trong liên đoàn những tay Yankee “xấu tính”. Cả hai SEALs, cả hai người họ còn hơn cả tốt nhất trong toàn đội. Và cả hai đều biết rằng không để chuyện cá nhân xen vào những quyết định của Hải quân SEAL.

Ra đến vịnh, nước xanh màu lá lấp lánh và nhảy múa trong ánh nắng mặt trời tươi sáng. Joe hít sâu, lấp đầy phổi với không khí mằn mặn đậm mùi của biển.

“Ôi Chúa ơi” Blue nói, lật sang trang thứ hai của bức thư.

Joe quay về phía bạn mình “Gì vậy?”

“Gerry sắp kết hôn” Blue cho biết, vò rối mái tóc vàng của anh dưới ánh nắng mặt trời khiến chúng trông như thể bạch kim “với JennyLee Beaumont.”

Jenny Lee là bạn gái Blue hồi trung học. Cô là người phụ nữ duy nhất Blue nhắc tới – người duy nhất đặc biệt đủ để được đề cập tới.

Joe trao đổi với Harvard một cái nhìn thấu hiểu.

“Jenny Lee Beaumont, phải không?” Joe hỏi.

“Phải rồi” Blue gật đầu, khuôn mặt cẩn thận không để lộ cảm xúc. “Gerry sẽ cưới cô ấy. Tháng bảy tới. Cậu ta muốn tôi làm phù rể”

Joe khẽ chửi thề.

“Cậu thắng” Harvard thừa nhận “Thư của cậu tuyệt vọng hơn của mình”

Joe lúc lắc đầu, biết ơn rằng bản thân không hề vướng bận vào phụ nữ. Chắc chắn, anh từng có bạn gái nhiều năm trước, nhưng chưa bao giờ gặp ai để có thể tiến xa hơn.

Không phải anh không thích phụ nữ, dĩ nhiên anh có. Chắc chắn có. Và anh thường hẹn hò với những người phụ nữ thông minh, hài hước, và nhanh chóng tránh xa ràng buộc như anh. Thi thoảng anh sẽ thấy mình có bạn gái mới trước khi kế thúc một tuần, và đôi khi vào các buổi tối anh ở trong một thị trấn và tự do.

Nhưng không bao giờ, không bao giờ anh hôn chúc ngủ ngon một phụ nữ hoặc chào buổi sáng – như cách cư xử thông thường, và không bao giờ ngồi ngẩn ngơ nghĩ lại, mơ mộng về cô ta theo cách mà Bob và Wesley ngồi “nhỏ dãi” về những cô gái ở đại học hoặc những cô gái họ gặp ở San Diego. Hoặc như cái cách mà Harvard thở dài khi nghĩ về nhà sinh vật biển Hawaii họ đã gặp trên đảo Guam. Tên cô ta là gì nhỉ? Rachel. Harvard vẫn còn cái nhìn ngơ ngẩn trong cặp mắt nâu của anh bất cứ khi nào tên cô ta được nhắc đến.

Sự thật là, Joe đã rất may mắn, anh không bao giờ rơi vào tình yêu. Và anh hy vọng vận may của mình vẫn cứ sẽ tiếp diễn. Sẽ thật tốt nếu anh trải qua hết quãng đời của mình mà không có những kinh nghiệm đặc biệt đến vậy, rất cảm ơn.

Joe đẩy nắp chiếc thùng đá ra bằng ngón chân trần, thò tay vào nước đá rút ra một chai bia mát lạnh.

Anh đứng thẳng, căng tai nghe, đôi mắt quét khắp đường chân trời phía đông.

Và anh nghe thấy nó một lần nữa.

Âm thanh của một chiếc trực thăng phía xa. Anh che mắt, nhìn về phía bờ biển California, nơi mà âm thanh phát ra.

Lặng lẽ, Harvard và Blue đứng dậy, di chuyển đến đứng cạnh anh. Vẫn lặng lẽ, Harvard đưa Joe ống nhòm đã từng được gấp gọn trong một tủ thiết bị.

Anh quét nhanh ống nhòm một lượt và tập trung sự chú ý vào một điểm.

Chiếc trực thăng vẫn chỉ là một chấm nhỏ màu đen, nhưng nó đang lớn dần hơn qua mỗi giây. Không thể phủ nhận được là nó đang tiến thẳng về phía họ.

“Hai người có đang mang theo máy nhắn tin không?” Joe hỏi, phá vỡ sự im lặng. Anh đã bỏ lại cái của mình sau khi nó – và cả anh – đã được tắm với một thùng đầy mồi và nước biển.

Harvard gật đầu “Có, thưa sếp” Anh nhìn xuống cái máy nhắn tin đang gắn ở thắt lưng “Nhưng cái của tôi vẫn tốt”

“Cái của tôi cũng không hề tắt, Cat” Blue nói.

Trong ống nhòm, cái chấm đen đang dần rõ nét. Nó là một chiếc máy bay quân sự, một chiếc Black Hawk UH-60A. Tốc độ bay của nó đang khoảng 170 dặm/h. Nó đang nhanh chóng hướng về phía họ “Một trong hai cậu có bất kỳ rắc rối nào mà tôi nên biết không?” Joe hỏi.

“Không, thưa sếp” Harvard đáp

“Không hề” Blue liếc nhìn Joe “Thế còn cậu thì sao, Trung úy?”

Joe lắc đầu, vẫn đang theo dõi chiếc trực thăng qua ống nhòm.

“Lạ thật” Harvard nói “Có vẻ như họ đang rất vội, họ không thể làm phiền chúng ta và bắt chúng ta quay lại cảng đúng không?”

“Một sự vội vàng chết tiệt” Joe nói. Chúa tôi, chiếc Black Hawk đang thực sự di chuyển. Anh kéo ốm nhòm ra khi chiếc trực thăng tiếp tục lớn dần.

“Giờ đâu phải thế chiến thứ ba” Blue bình luận, rắc rối của anh với Jenny Lee tạm thời bị quên lãng. Anh cất cao giọng để có thể nghe được khi chiếc trực thăng tiếp tục tiến gần hơn.

“Nếu đúng là thế chiến thứ ba, họ sẽ không lãng phí một chiếc Hawk cho ba gã SEALs tệ hại”

Trực thăng lượn vòng và sau đó đỗ thẳng ngay trên họ. Âm thanh chói tai của cánh quạt và lực cản của gió khiến cho chiếc thuyền nhỏ nghiêng ngả. Cả ba người đàn ông phải nắm lấy lan can để đứng vững.

Một chiếc thang dây được ném qua cánh cửa mở của cabin máy bay, cũng bị ảnh hưởng của gió cánh quạt, đập thẳng vào ngực Joe.

“Trung úy Joseph P. Catalanotto” một giọng nói bị bóp nghẹt thông báo trên loa “Kỳ nghỉ ngắn của ngài đã kết thúc”

***

Veronica St. John đi đi lại lại trong phòng khách sạn của mình, sau đó dựa lưng mệt mỏi vào cánh cửa đóng kín.

Mới chỉ 9 giờ sáng – quá sớm theo tiêu chuẩn ngoại giao. Thực tế là, nếu mọi thứ đã được sắp xếp theo lịch trình hôm nay, cô vẫn sẽ đang có buổi tiếp kiến hoàng tử Tedric tại đại sứ quán Ustanzian. Nhưng mọi thứ đã rất khác so với lịch trình, khởi đầu với âm mưu ám sát tại sân bay.

Cô đã nhận được một cuộc gọi từ tổng thống của Hoa Kỳ, chính thức cảm ơn cô, thay mặt nhân dân Mỹ, cứu mạng hoàng tử Tedric. Quá tệ. Nếu cô biết trước về cuộc gọi từ một người trong Nhà Trắng, cô có thể có sự chuẩn bị sẵn sàng để mong chờ sự giúp đỡ của ông trong việc tìm hiểu hồ sơ nhân sự của anh chàng trung úy hải quân bí ẩn trông cực kỳ giống Hoàng tử Ustanzia.

Không một ai, nhắc lại là không một ai cô đã nói chuyện có thể giúp cô tìm thấy những tệp tin cô muốn. Bộ Quốc phòng đã gửi cô cho Hải quân. Đại diện Hải quân nói với cô rằng tất cả hồ sơ của SEAL là trong bộ phận đặc biệt. Thư ký của Lực lượng đặc nhiệm cũng bí ẩn và vô ích y như trợ lý riêng của James Bond. Người phụ nữ đó thậm chí còn không xác nhận là Joseph Catalanotto có tồn tại, và dù có thì thông tin cá nhân của người đàn ông đó cũng vẫn sẽ giữ nguyên như cũ trong Lực lượng đặc nhiệm Mỹ tại văn phòng.

Thất vọng, Veronica quay lại với thượng nghị sĩ McKinley, hy vọng rằng ông có thể sử dụng sự ảnh hưởng của mình để có được thông tin của Catalanotto. Nhưng ngay cả thượng nghị sĩ cũng quả quyết rằng, vì lý do an ninh, hồ sơ cá nhân của Hải quân SEAL sẽ không bao giờ, nhắc lại là không bao giờ, được gửi qua fax. Đã là cả một thành công lớn khi nhận được một bức ảnh của Trung úy. Nếu McKinley muốn xem hồ sơ cá nhân của Joseph P. Catalanotto, ông sẽ cần một văn bản chính thức. Sau khi gửi yêu cầu, sẽ mất ít nhất là ba ngày để các tập tin được kiểm duyệt trước khi đến tay ông và cô St. John.

Ba ngày.

Veronica không mong tìm hiểu kỹ về những bí mật quân sự đen tối nhất của Trung úy Catalanotto. Tất cả những gì cô muốn biết là người đàn ông đó đến từ đâu – anh ta đã lớn lên ở đâu. Cô muốn biết lý lịch gia đình anh ta, trình độ học vấn, chỉ số IQ và kết quả kiểm tra tính cách và tâm lý được kiểm duyệt trong quân đội.

Cô muốn biết, một cách chắc chắn, sẽ khó khăn thế nào với người lính Hải quân SEAL này để có thể hoàn thành công việc.

Cho đến giờ, cô chỉ biết được tên anh ta, rằng anh ta trông mạnh mẽ hơn, hoang dã hơn phiên bản của hoàng tử Tedric Cortere, bờ vai rộng mang khẩu súng máy M60 như thể nó chỉ là một ổ bánh mỳ lớn, và anh ta có một nụ cười thật đẹp.

Cô không có một manh mối nào để biết được liệu cô có thể lừa được công chúng Mỹ tin rằng anh ta là một hoàng tử châu Âu. Cho đến khi cô được gặp người đàn ông này, cô thậm chí không thể đoán được anh ta đã bị kéo ra khỏi những nhiệm vụ gì. Tốt nhất là không nên cố gắng nghĩ về nó.

Nhưng nếu cô không nghĩ về cái công việc đang lù lù ngay sau mình, cô sẽ kết thúc những suy nghĩ về cô bé ở bệnh viện Saint Mary’s, cô gái nhỏ có tên Cindy, người mà đã gử cho hoàng tử một bức thư gần 4 tháng trước – một bức thư mà Veronica đã nhặt được trong thùng rác của Tedric. Trong thư Cindy – chỉ vừa mới 10 tuổi – đã nói với Hoàng tử Tedric rằng cô đã nghe anh ta lập kế hoạch cho chuyến công u đến Mỹ. Cô đã hỏi anh, nếu anh ta đến Washington, D.C, liệu anh ta có thể làm ơn đến thăm cô bé nếu cô không thể

đến thăm anh ta.

Veronica đã sắp xếp lịch cho hoang tử, gửi đến vua Derrick và đã được phê duyệt chuyến viếng thăm đến Saint Mary’s trong chuyến công du chính thức.

Nhưng giờ thì sao?

Toàn bộ chuyến thăm viếng sẽ phải được sắp xếp và lên kế hoạch lại, và Saint Mary’s cùng Cindy bé nhỏ có khả năng sẽ thất bại, bị hủy, giữa những sự sắp xếp.

Veronica mím môi cười. Sẽ không nếu như cô có tiếng nói trong chuyện đó. Với một tiếng thở dài, cô đá đôi giày của mình.

Lạy Chúa, chân cô đau nhói.

Giải quyết những vấn đề trong hoàn tộc có thể thực sự bào mòn cả nhân tính, cô nghĩ, cho phép bản thân nở một nụ cười rầu rĩ. Sau vụ mưu sát, adrenaline đã chạy rần rật trong cô suốt 6 tiếng đồng hồ. Sau khi nó tan dần, cô đã thúc đẩy bản thân bằng cafe nóng, đen và đặc.

Ngay bây giờ những gì cô cần là tắm vòi sen và một giấc ngủ ngắn 2 tiếng.

Cô kéo áo ngủ và áo choàng trong vali mà cô vẫn chưa có thời gian lấy ra và ném chúng lên giường khi cô loạng choạng bước vào phòng tắm. Đóng cửa lại và bật vòi sen khi cô lột bỏ bộ vest cùng chiếc áo cánh màu kem phù hợp cô mặc bên dưới.

Cô kéo đôi tất dài ra và ném thẳng vào sọt rác. Thật là một ngày đẹp đẽ cho những đôi tất ống. Đôi đầu tiên cô đã mặc tại sân bay và nó đã hoàn toàn bị phá hủy.

Veronica nhanh chóng tắm rửa, biết rằng mỗi phút cô dành trong phòng tắm là mất đi một phút cô có thể ngủ. Và với Trung úy Joseph P. Catalanotto có thể đến bất cứ lúc nào sau nửa đêm, cô sẽ cần từng giây để ngủ.

Tuy nhiên, nó không thể ngăn cô hát khi đang cố gắng gột sạch sự nhức nhối và mệt mỏi từ lưng xuống vai. Hát trong phòng tắm là một thói quen từ thời thơ ấu. Sau này, cũng như bây giờ, những khoảnh khắc cô dành trong phòng tắm là một trong những khoảng thời gian ngắn ngủi cô thực sự thư giãn và thoải mái. Cô đã thử nghiệm độ vang trong phòng tắm đặc biệt này với một đoạn cao trào trong bản hit mới nhất của Mary’s Chapin Carpenter.

Cô tắt nước, vẫn hát và với khăn tắm lau người.

Áo choàng của cô được treo phía sau cánh cửa nhà tắm và cô với lấy nó. Ngừng lại và chú ý.

Cô đã để chiếc áo choàng trong phòng ngủ, trên giường. Cô không hề treo nó lên cửa.

“Không…cô đúng đấy. Cô không ở đây một mình” một giọng nam trầm phát ra từ phía bên kia cánh cửa nhà tắm.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.