Sự kiện giữa đêm đuổi trộm đã trôi qua được một tuần. Mọi thứ trong bệnh viện vẫn như cũ, nề nếp trật tự. Trong khoảng thời gian này, Đào Ngang luôn đặc biệt lưu tâm tới nhất cử nhất động của cậu đồng nghiệp Tiểu Khương. Thế nhưng, lại chẳng phát hiện được bất cứ đầu mối nào mà anh đang tìm kiếm.
Đào Ngang che giấu rất kỹ mục đích thật sự của việc mình tới bệnh viện làm việc, và quyết tâm mang theo cái bí mật ấy xuống mộ, giữ kín suốt đời. Kỳ thực, cho dù anh có nói ra, cũng chẳng ai chịu tin.
Đào Ngang cười gượng, nâng tách cà phê lên nhấp một ngụm.
Thứ duy nhất khiến anh cảm thấy vui vẻ, chính là cô bé Lưu Vũ kia, mà có lẽ không nên gọi là cô bé nữa, cô gái ấy nhờ sự quan tâm của Đào Ngang, dần dần đã có được nụ cười.
Thế nhưng, mỗi lần đối diện với đôi mắt tuyệt đẹp với sắc xanh thăm thẳm như mặt biển kia, Đào Ngang lại không thể nào kìm nén được nỗi thương xót trong lòng… và cả sự ăn năn.
Nếu không phải vì lần sơ suất ấy, Lưu Vũ lẽ ra đã có một bầu trời tự do, chứ không phải giống như bây giờ, là một bệnh nhân tội nghiệp, suốt ngày bị giam chân trong phòng bệnh kín bưng.
Anh dựa người lên lưng ghế mềm mại, liếc ngang lên ngô đồng xanh bên ngoài cửa sổ, cùng những cụm hoa phấn nằm không xa dưới gốc cây, dần dần, mí mắt anh trĩu xuống…
Trên đỉnh núi hoang vu, một con dao nhỏ sáng loáng hình thập tự giá quăng dưới đất, đơn độc tỏa sáng lấp lánh trong đống bùn đen.
– Nhặt lên! – Một giọng nói nghiêm khắc nổ bùng trong bầu không khí loãng.
– Con không muốn! – Một đứa bé kiên quyết từ chối bằng giọng nói non nớt – Con không muốn giống như bố! Con ghét bố! Ghét bố!
– Con nhất định phải nhặt nó lên! Nếu không, con chắc chắn sẽ trở thành một thằng hèn! – Giọng nói trầm nặng thêm mấy phần.
– Con thà làm một thằng hèn cũng không muốn giống như bố!
Trong ánh sáng nhạt nhòa, khuôn mặt của đứa bé không ngừng run rẩy trong nước mắt và sự bi phẫn.
Một tiếng thở dài thườn thượt, giống như trút ra toàn bộ những tiếc nuối và bất lực trong suốt cuộc đời. Bầu không khí bao trùm quanh núi, màu sắc mỗi lúc càng thêm tối tăm, tối tăm như một vũng mực đặc quánh, lại giống như sự u ám nguy hiểm tỏa ra từ một vực sâu không thấy đáy cùng, chia cắt toàn bộ thế giới thành vô số mảnh vụn, rồi nuốt chửng từng mảnh một…
Đào Ngang mở choàng mắt trong đầm đìa mồ hôi lanh.
Quệt những giọt mồ hôi trên trán, dốc thẳng tách cà phê đã nguội tanh vào cổ họng, Đào Ngang thở hắt ra một hơi, dần dần lấy lại trạng thái bình thường.
Lúc này, Tiểu Khương đẩy cửa bước vào, vừa nhìn thấy Đào Ngang liền nói:
– Vừa rồi tình cờ gặp người trong văn phòng bệnh viện, bảo tôi thông báo cho cậu, hai giờ chiều tới phòng viện trưởng, viện trưởng có việc tìm cậu.
– Viện trưởng tìm tôi? – Đào Ngang gãi gãi đầu, hỏi – Cậu có biết là việc gì không?
– Làm sao tôi biết được! – Tiểu Khương ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói – Chẳng phải tuần sau toàn bộ các cơ quan y tế trong tỉnh sẽ tổ chức một buổi diễn thuyết quy mô lớn hay sao, bệnh viện chúng ta cũng cử người tham gia. Tôi nghĩ, viện trưởng tám phần là muốn cử cậu đi đấy!
– Cử tôi đi? – Đào Ngang cười nhăn nhó, nhớ lại hồi đi học, đừng nói tới việc diễn thuyết trước đám đông, ngay cả trong giờ học cũng chưa từng giơ tay phát biểu. Cử mình đi tham gia diễn thuyết, chẳng phải là chuyện đại nực cười hay sao?
Buổi chiều, ngồi trong văn phòng rộng rãi tiện nghi của viện trưởng, Đào Ngang ngần ngừ nhìn xấp bản thảo diễn thuyết trên tay, nói:
– Viện trưởng, bệnh viện chúng ta nhân tài đông đảo, nhất định phải cử cháu đi à?
Vẻ mặt nhăn nhó của anh khiến viện trưởng phá lên cười lớn, nói:
– Chủ đề của buổi diễn thuyết lần này chính là sáng tạo, nên tôi mới dự định cử một nhân viên mới như cậu đại diện cho bệnh viện Vĩnh Phục chúng ta. Đây cũng là một cơ hội rèn luyện quý báu.
– Nhưng… – Đào Ngang chỉ tay vào tập bản thảo – Phát biểu trước bao nhiêu người như vậy, cháu sợ rằng mình sẽ không thể ứng phó nổi.
– Không sao đâu! – Viện trưởng trấn an – Bản thân tôi đã giúp cậu chỉnh sửa xong xuôi, chỉ cần cậu đọc cho thuộc, lúc lên sân khấu cứ tỏ ra tự nhiên đĩnh đạc, đừng căng thẳng, nói ra những nội dung này giống như trò chuyện là được. Cuộc diễn thuyết này có tác dụng nhất định trong việc nâng cao hình tượng của bệnh viện ta. Giao nhiệm vụ này cho cậu, tôi tin vào con mắt nhìn người của mình.
Đào Ngang cầm tập bản thảo, đưa mắt liếc xuống trang giấy dày đặc những chữ. Nội dung không nằm ngoài những thứ như “Bệnh viện chúng tôi những năm gần đây đã áp dụng kỹ thuật mới này, đưa thiết bị mới nọ”; “Là một lương y, đối với bệnh nhân không chỉ cần có một trái tim yêu thương như từ mẫu, mà càng phải cần đến những tri thức mới, kỹ thuật mới để chắp thêm đôi cánh cho chúng ta, để chúng ta có thể bay cao hơn, xa hơn trong hành trình dài nhằm đánh bại bệnh tật”.
Nhìn những câu văn kiểu công thức như thế này, Đào Ngang chỉ cảm thấy đau đầu.
– À, buổi diễn thuyết này có giới hạn về thời gian, mỗi người chỉ được phép phát biểu trong năm phút. – Viện trưởng bỗng sực nhớ ra điều này, bèn nói – Thế này đi, bây giờ tôi đang rảnh, cậu hãy đọc bản thảo một lượt, tôi sẽ giúp cậu bấm giờ, tiện thể xem xem giọng nói của cậu có đủ diễn cảm hay không.
– Hả? Đào Ngang thảng thốt nhìn vị viện trưởng nhiệt tình – Phải đọc thật ạ?
– Mắc sai lầm bây giờ dù sao cũng tốt hơn là mắc sai lầm trên bục diễn thuyết. – Viện trưởng gật đầu nói.
Đào Ngang không còn cách nào khác, đành phải hắng giọng, miễn cưỡng đọc từng con chữ trong bản thảo.
Chật vật đến hơn nửa tiếng đồng hồ, Đào Ngang mới được phép rời khỏi phòng viện trưởng. Nhìn những chỗ được viện trưởng dùng bút đỏ khoanh lại biểu thị cần phải lên giọng nhấn mạnh, anh chỉ muốn khóc.
Ba ngày sau, tiếp theo sự kiện bệnh viện có trộm, trong phòng của Đào Ngang lại diễn ra một màn hài kịch khác.
Cô người yêu đi công tác ngoại tỉnh của Tiểu Khương chẳng hiểu nguyên cớ gì mà đột nhiên đi suốt đêm lộn trở về, kéo theo cả vali hành lý tới bệnh viện, tìm Tiểu Khương cãi vã khóc lóc ầm ĩ. Nghe cả nửa ngày trời, mọi người mới vỡ lẽ, thì ra gã Tiểu Khương kia nhân lúc người yêu đi vắng, đã lén lút hẹn hò với cô bạn gái quen trên mạng, trong lúc nấu bữa tối tình yêu cho cô nàng, chẳng may bị bỏng tay. Người yêu cậu ta không biết moi được thông tin từ đâu, lập tức quay về tìm cậu ta tính sổ. Hai người cãi cọ náo loạn cả văn phòng, cho tới khi bảo vệ cưỡng chế mời họ tới phòng bảo vệ, thì toàn thể khoa Huyết học số 2 mới được yên bình trở lại.
– Hê hê, tôi cứ băn khoăn cái tay Tiểu Khương kia tại sao tối hôm đó tự dưng lại đổi ca trực với cậu, hóa ra là đi ăn vụng. – Đám đồng nghiệp xì xầm hỉ hả trước tai họa của Tiểu Khương – Đáng đời! Người yêu cậu ta nổi tiếng là ghê gớm. Phen này thì cậu ta lãnh đủ!
Đào Ngang cười cười, im lặng thu dọn đám đồ đạc ngổn ngang trên bàn làm việc. Về chuyện tình cảm của người khác, anh không có hứng thú. Anh chỉ hiểu ra một điều duy nhất, đó là Tiểu Khương mà anh vẫn nghi ngờ, từ giờ trở đi đã không còn giá trị nghi vấn nữa. Manh mối lại bị đứt.
Buổi chiều, Đào Ngang trong lòng nặng trĩu, lại đi kiểm tra một vòng khu nhà điều trị như thường lệ. Vừa xuống tới sảnh lớn của tòa nhà chính còn chưa kịp bước chân ra khỏi thang máy, một giọng nói oang oang đã vọng tới trước mặt.
– Cái gì? Anh bảo anh Ngưu nằm ở phòng nào? Nghe không rõ! Bệnh viện này có hai tòa nhà, tôi không biết là ở tòa nào? – Một người đàn ông trung niên ăn mặc có vẻ quê mùa, cầm một chiếc điện thoại cục gạch, tay trái xách một chiếc túi du lịch cáu bẩn, đang nhìn ngang ngó dọc trong sảnh.
Cô gái chịu trách nhiệm hướng dẫn trong sảnh thấy vậy, vội vàng chạy tới nhắc nhở ông ta nói nhỏ một chút, và hỏi xem ông ta có cần giúp gì không.
– Tôi muốn tìm người! Cố Tam Ngưu! Hôm qua bảo là bị viêm phổi, đưa tới bệnh viện này! – Người đàn ông vội vàng cúp điện thoại, khoa chân múa tay nói với cô gái.
Đào Ngang lắc đầu, cất bước tiến ra bên ngoài. Lúc này, cánh cửa của một chiếc thang máy khác kính coong mở ra. Đào Ngang còn chưa kịp bước được hai bước, sau lưng lại vọng đến cái giọng ông ổng của người đàn ông trung niên kia:
– Ồ! Đây chẳng phải là bác sĩ Trịnh Trực đấy ư?
Đào Ngang dừng bước, tò mò quay đầu lại nhìn, người vừa được người đàn ông kia gọi là bác sĩ Trịnh Trực chính là viện trưởng vừa bước ra khỏi thang máy. Ai cũng biết viện trưởng họ Vương, người đàn ông kia chắc hẳn đã nhận nhầm người.
Viện trưởng liếc nhìn người đàn ông sắc mặt đầy vẻ kích động, khẽ đẩy gọng kính lên, nét mặt chuyển từ bình thản sang ngỡ ngàng:
– Xin lỗi, tôi không phải họ Trịnh. Có lẽ anh nhận nhầm người rồi!
– Nhận nhầm người? – Người đàn ông trợn trừng mắt, săm soi viện trưởng từ trên xuống dưới, rồi quả quyết nói – Không thể nhầm được! Cặp mắt của tôi nổi tiếng là cú vọ đấy! Rõ ràng là anh chính là bác sĩ Trịnh Trực mà! Hai mươi năm trước, anh làm bác sĩ ở trạm xá thôn Tiểu Hà huyện Vụ, con trai tôi bệnh nặng gần chết, chính anh đã cứu sống nó, làm sao tôi có thể nhận nhầm được!
Viện trưởng khó xử nhìn người đàn ông, nói:
– Xin lỗi, đúng là anh đã nhận nhầm người rồi. Tôi không phải họ Trịnh, cũng chưa bao giờ tới huyện Vụ. Tôi còn có việc gấp, tôi đi trước đây!
Nói xong, viện trưởng vòng qua người đàn ông, bước nhanh ra bên ngoài. Nhìn thấy Đào Ngang đứng ở phía trước, thì lịch sự gật đầu với anh, không quên căn dặn:
– Cuối tuần là phải diễn thuyết rồi đấy, cậu hãy cố gắng chuẩn bị cho chu đáo!
– Vâng, cháu biết rồi! – Đào Ngang vội đáp.
Người đàn ông nhìn theo bóng viện trưởng xa dần, băn khoăn dụi dụi mắt, lẩm bẩm:
– Quái nhỉ, lẽ nào mình nhận nhầm người thật à? Không thể nào, ngoài việc có già đi một chút, ông ta trông chẳng khác gì hai mươi năm về trước, vẫn đẹp trai như vậy… – Nói rồi, ông ta vừa gãi đầu, vừa theo cô nhân viên đi về phía tòa nhà khu điều trị.
Những lời này, Đào Ngang nghe không sót một chữ. Nhìn nét mặt của người đàn ông đầy vẻ oan uổng, còn vừa đi vừa không ngừng phân trần với cô nhân viên là mình tuyệt đối không nhìn nhầm người!
Huyện Vụ, thôn Tiểu Hà. Đào Ngang lẩm bẩm hai địa danh này, khuôn mặt bỗng nhiên biến sắc.
Đào Ngang xin nghỉ phép hai ngày, nói rằng nhận được điện thoại của họ hàng, phải quay về thành phố xử lý chút việc gấp.
Chập tối ngày hôm sau, nơi Đào Ngang có mặt, không phải là đại lộ náo nhiệt trong thành phố, mà là con đường nhỏ mù mịt bụi đất ở thôn quê. Những chiếc máy kéo lấm lem dầu mỡ khói đen sì rề rà chạy qua trước mặt, những người nông dân gánh theo rau dưa hoa quả qua lại trên đường, oang oang kể chuyện cười với nhau, thi thoảng còn có một hai con chó có lông vàng lông trắng sủa ông ổng chạy qua. Hoàn toàn là một bức tranh phong cảnh nông thôn rất thuần túy.
Đào Ngang không quay về thành phố, mà từ sáng sớm đã nhảy xe khách đường dài tới huyện Vụ cách thành phố bảy giờ xe chạy.
Theo sự chỉ dẫn của người bản địa, Đào Ngang đi thẳng theo con đường này đến dưới gốc hai cây ngân hạnh cao lớn, sau đó rẽ trái đi thêm chừng mấy trăm mét nữa, leo lên một triền dốc, lập tức thấy ngay trước mặt là một tấm bia đá đặt xiêu vẹo trong bùn lầy dưới cây cột điện, trên bia khắc ba chữ “Thôn Tiểu Hà”.
Anh thở phào, móc điện thoại ra bấm số:
– Cậu khẳng định ở thôn Tiểu Hà huyện Vụ hai mươi năm về trước đích xác có một bác sĩ tên là Trịnh Trực chứ?
– Này ông bạn học ơi, tớ chính là công an hộ tịch cự phách đấy, cậu bảo tớ điều tra giúp, tớ dám không tra cứu cẩn thận được à? Còn nữa, theo ghi chép trong tài liệu, hai mươi năm trước, ông Trịnh Trực này dẫn theo vợ và con gái tới làm bác sĩ ở trạm xá thôn Tiểu Hà, nhưng hai năm sau, Trịnh Trực đã ly hôn với vợ. Dì ba tôi từng sống ở ngay thôn bên cạnh kể rằng, bà vợ chê ông ta làm bác sĩ chẳng kiếm được mấy tiền, đã bỏ đi theo một con buôn giàu có. Đứa con gái luôn sống cùng ông ta. Nhưng mười lăm năm trước, Trịnh Trực và con gái đã rời khỏi thôn Tiểu Hà, không ai biết họ đi đâu.
– Cậu đã tìm ra địa chỉ ngôi nhà cũ của Trịnh Trực cho tớ chưa?
– Đương nhiên là tìm ra rồi, nhưng khu đất đấy đã bị quy hoạch thành đất lâm nghiệp, nhà cửa trên đấy sắp bị phá dỡ hết, cư dân đều đã di dời tới nơi khác, cậu muốn tìm thì phải mau lên.
Rất nhanh, Đào Ngang gác máy, đi vào thôn Tiểu Hà theo địa chỉ cậu bạn cung cấp, bước thẳng về phía tây thôn.
Quả nhiên, đúng như cậu bạn học cũ đã nói, trên bức tường bao cũ nát của thôn Tiểu Hà đã viết đầy những chữ “giải tỏa” to tướng bằng vôi trắng. Những ngôi nhà xây gạch lợp ngói kiểu dáng na ná nhau nằm lộn xộn, có căn cửa chính cửa sổ mở toang hoác, thoạt nhìn đã biết rất lâu rồi không có người ở.
Một vài người phụ nữ nhặt phế liệu cõng trên lưng những sọt tre to tướng đi qua trước mặt Đào Ngang, đua nhau liếc nhìn vị khách lạ mặt quần áo chỉn chu này, ghé tai thì thầm với nhau. Một người trong số đó nhìn chằm chằm hồi lâu vào chai nước khoáng còn hơn nửa đang cầm trong tay anh.
Thấy vậy, Đào Ngang bèn chìa chai nước cho chị ta, nói:
– Cầm lấy đi! – Rồi anh lại nhìn về phía trước, hỏi – Có phải trong thôn Tiểu Hà có một rừng trúc không?
Người đàn bà mừng rỡ đặt vội chai nước vào trong sọt, rồi thuận tay chỉ sang phía bên phải trước mặt, đáp lời – Chính là ở đó, cứ đi thẳng sẽ tới! – Nói xong, chị ta lại trợn mắt nhìn Đào Ngang, kinh ngạc hỏi – Cậu muốn tới đó à?
– Đúng vậy, có vấn đề gì không? – Đào Ngang nhìn sắc mặt khác thường của chị ta, vội hỏi. Cậu bạn học cũ bảo anh rằng, nơi Trịnh Trực từng sống nằm ở tận cùng thôn Tiểu Hà, liền kề với một rừng trúc.
– Rừng trúc đó không được sạch sẽ! Nghe nói ở đó có một con yêu rắn. Mười mấy năm trước, gia súc của các hộ trong thôn bị chết, xác tự dưng biến mất một cách khó hiểu. Nhưng chỉ mấy ngày sau, mọi người lại thấy những con vật đã chết ấy sống lại trong rừng trúc, thật đáng sợ! – Chị ta kể lại với một biểu cảm sinh động.
– Có chuyện như vậy à? – Đào Ngang không hề tỏ ra sợ hãi, còn cười mà nói – Chết rồi lại sống dậy, mọi người không coi đó là chuyện tốt đẹp ư? Tại sao lại nói là đáng sợ?
– Cậu không biết đấy thôi, những con vật sống lại ấy, không đầy bảy ngày sau, đều lần lượt chết hết, hơn nữa bộ dạng lúc chết vô cùng khủng khiếp, con nào con nấy mắt trợn trừng thô lố, toàn thân cứng đờ như đá tảng! Phỉ phui, xui xẻo! – Người đàn bà nhổ mấy bãi nước bọt xuống đất, vừa đi tiếp vừa ngoái đầu lại cảnh cáo Đào Ngang – Dù sao, nếu cậu muốn tới đó, tôi khuyên cậu nên cẩn thận. Người già trong thôn đều nói, những con vật này đã bị con yêu rắn hút mất linh hồn, sau đó thả chúng trở lại để hại người!
Đào Ngang cười, gật gật đầu, không nói gì.
Đi theo hướng người đàn bà vừa chỉ, Đào Ngang dễ dàng tìm ra được một khu nhà nhỏ tường trắng ngói xám. Bên ngoài căn nhà, từng khóm trúc đung đưa nghiêng ngả trong gió chiều, cành lá lào xào không ngớt. Cách căn nhà mấy chục mét, một rừng trúc rậm rạp đến ánh sáng cũng không thể lọt qua, thình lình hiện ra trước mắt.
Đào Ngang đẩy khẽ cánh cổng, ổ khóa sắt trên cổng lập tức rơi xuống theo tay nắm cửa gãy rời. Anh bước vào sân nhà. Một bầy chim sẻ đang tìm thức ăn trên mảnh sân trống trải lập tức vỗ cánh bay tan tác. Sau khi những tiếng đập cánh phành phạch biến mất, thì ngoài tiếng gió thổi và tiếng lá trúc xào xạc bên ngoài, trong sân nhà không còn nghe thấy một âm thanh nào khác.
Đào Ngang đứng giữa sân, nhìn hai gian nhà lợp ngói nằm song song nhau, trầm ngâm một thoáng, rồi đẩy cửa gian nhà trông lớn hơn chút ít.
Cảnh tượng nhìn thấy trước mắt không khác mấy so với dự đoán của anh. Trong nhà chỉ có đồ đạc cũ kỹ phủ đầy bụi bặm và mạng nhện, tấm gương đặt trên mặt tủ đã bị bụi phủ lấp vẻ sáng bóng ban đầu, bộ ấm chén màu trắng bày ngay ngắn trên mặt bàn đã biến thành màu xám, bờ tường loang lổ bong tróc, chỗ nào cũng đầy vết lở lói do hơi ẩm ăn mòn.
Dường như chẳng có ai thèm nhân lúc nhà vắng chủ mà tiện tay nhặt nhạnh. Lẽ nào bởi vì nơi này liền kề với khu rừng trúc bị đồn đại là có yêu quái rắn, khiến cho những người kia chỉ nghe đã sợ? Đào Ngang nhìn quanh tứ phía, phán đoán sơ bộ như vậy.
Đào Ngang lần lượt mở từng cái tủ, tìm kiếm kỹ lưỡng tất cả ngóc ngách trong nhà. Ngoài một vài bộ quần áo cũ và mấy thứ đồ linh tinh vô dụng, không phát hiện thấy bất cứ vật nào có giá trị đối với anh. Anh đóng cửa tủ quần áo lại, rồi bước tới trước chiếc giường gỗ vẫn trải chăn đệm. Đôi gối đặt trên giường vẫn hiện rõ hình thêu một đôi uyên ương bằng chỉ đỏ. Anh lật chăn, vừa phẩy phẩy lớp bụi bay lên, vừa cúi xuống ấn bàn tay xuống mặt giường, dịch chuyển từng chút một xuống dưới. Rất nhanh, tay anh dừng lại phía đuôi giường sát với bờ tường – bàn tay đã chạm vào một vật lồi lên rõ rệt.
Đào Ngang vội vàng lật ga giường và lớp rơm trải bên dưới lên, cùng với thứ mùi ẩm mốc xộc lên, anh lôi ra được một khung ảnh bằng kính viền gỗ kích thước khoảng 9×12.
Mang chúng ra chỗ sáng nhìn, trong khung là bức ảnh đen trắng chụp một gia đình ba người trông có vẻ rất hạnh phúc. Người phụ nữ ở bên trái trẻ trung xinh đẹp, tươi cười bế đứa con gái chừng sáu, bảy tuổi. Người đàn ông trẻ tuổi khuôn mặt sáng sủa điển trai, dịu dàng ôm lấy vai vợ. Cô bé ngồi giữa họ buộc hai bím tóc nhỏ xíu, bên dưới lớp tóc mái cắt ngang lông mày, đôi mắt to tròn long lanh ánh lên vẻ thông minh hoạt bát khác thường.
Ánh mắt có phần kinh ngạc của Đào Ngang nhìn xuống góc phải bên dưới bức ảnh. Một dòng chữ nhỏ viết bằng bút mực – Vợ yêu Tiểu Ngô, con gái yêu Ninh Nhi, bình an mạnh khỏe, gia đình hòa thuận muôn năm. Chữ ký chỉ là một chữ “Trịnh”.
Người phụ nữ trong bức ảnh, Đào Ngang không quen biết, nhưng người đàn ông, rõ ràng chính là phiên bản trẻ tuổi của viện trưởng, mắt mũi mồm miệng đều giống y chang. Và cô bé ở giữa họ, ngoài kiểu tóc không giống ra, diện mạo như đúc ra cùng một khuôn với Lưu Vũ.
Con gái yêu Ninh Nhi… Bệnh nhi Lưu Vũ… Hai con người lẽ ra phải tồn tại ở hai thời điểm khác nhau, với hai thân phận khác nhau, lúc này lại dần dần trùng khít lên nhau.
Vị bác sĩ nông thôn Trịnh Trực hai mươi năm trước, viện trưởng của bệnh viện Vĩnh Phục hai mươi năm sau, người đàn ông này không ngờ lại giấu mình kỹ lưỡng tới vậy, báo hại mình pHải Âuổng công đi không biết bao nhiêu đường vòng!
Đào Ngang lấy tấm ảnh ra, cất vào trong ví, quay người đi ra ngoài. Có được chứng cứ này, anh đã biết rõ bước tiếp theo mình sẽ phải làm gì.
Bước ra khỏi cửa, anh đưa mắt nhìn gian nhà nhỏ hơn một chút ở bên cạnh. Bước lại gần, Đào Ngang phát hiện ra cửa sổ của gian nhà này toàn bộ đã được bịt kín mít bằng thứ vải dầu rất dày và không thấm nước, từ bên ngoài không thể thấy được bên trong. Hơn nữa, trên tay nắm cửa đều được gia cố bằng dây thép, còn lủng lẳng một ổ khóa đồng cực lớn.
Đào Ngang phải tốn mất mấy phút mới mở được ổ khóa này bằng chìa khóa vạn năng. Vừa đẩy cửa ra, một mùi thối rữa và mốc meo ập thẳng tới trước mặt, nồng nặc đến phát buồn nôn.
Anh bịt mũi, bước vào trong, đưa mắt nhìn. Trong gian nhà chỉ có một chiếc giường nhỏ bằng gỗ, và hai giá sách được đóng thủ công đặt dựa vào tường, nhưng đồ bày trên giá lại không phải là sách vở, mà là một dãy chậu hoa cũ kỹ, sứt mẻ. Đất trong chậu đã khô cứng thành từng cục, hoa cỏ trồng trong chậu chỉ còn vài sợi rễ khô quắt ló ra ngoài. Bên dưới giá sách còn lại có ba cái rương quần áo bằng gỗ long não kiểu dáng cũ kỹ xếp san sát nhau. Tất cả đều bị khóa.
Đào Ngang ngồi thụp xuống phía trước ba chiếc rương, mùi thối rữa lúc này lại càng nồng nặc hơn vừa nãy. Anh đoán rằng, nguồn gốc của mùi hôi thối trong toàn bộ gian nhà chính là mấy chiếc rương.
Anh gắng gượng chịu đựng cái mùi ghê tởm khiến anh tức thở, dùng chìa khóa vạn năng cẩn thận mở ổ khóa sắt trên một chiếc rương, sau đó, mở nắp ra.
Một đống xương trắng sắp xếp ngay ngắn theo trật tự hiện ra trước mắt Đào Ngang.
Anh bóp chặt lấy mũi, dùng chìa khóa cẩn thận khều lật những khúc xương. Rất nhanh, anh xác định được rằng đây không phải xương người, mà là của một loài động vật họ mèo. Sau đó, anh lại lần lượt mở hai chiếc rương còn lại ra, bên trong cũng đựng đầy xương động vật, có chim, có chó.
Tuy chỉ là xương động vật, nhưng hơi hướng chết chóc phả ra từ đó còn khiến người ta ghê sợ hơn cả mùi thối rữa của bản thân chúng.
Những lời nói của người đàn bà nhặt rác vừa nãy đột nhiên lại văng vẳng bên tai – những con vật chết rồi sống lại, rồi lại thình lình chết thảm và còn cả những cự phú danh nhân đã tới bệnh viện Vĩnh Phục chữa trị bệnh nan y, cuối cùng lại lần lượt chết vì tai nạn; những bài báo đưa tin chết chóc được cất giữ, toàn bộ chen chúc trong trí não Đào Ngang. Anh cố gắng sắp xếp lại những manh mối hỗn loạn, dần dần, anh chợt ngộ ra một điều gì đó.
Đào Ngang lùi ra khỏi gian phòng, bước khỏi khu nhà phủ kín mây mù nghi vấn.