Trên đời này, thực trừ con người, chim bay, thú chạy, cá tôm, cây cỏ,… ra, có lẽ cũng chẳng còn gì. Nhưng cũng có thể, như người đời hay nói, trên đời này, còn có những sinh mạng khác, những sinh mạng vượt qua cả sự hiểu biết của con người.
Cứ như các loại sách cổ truyền lại, thì từ trong vô vi hỗn độn, sản sinh ra Thái Cực. Mà từ bản thân Thái Cực, khai sinh ra 3 dạng tồn tại: sự sống đầu tiên là Bàn Cổ, năng lượng đầu tiên là Nguyên Khí, nguyên lý đầu tiên là Nguyên Thủy, tuy ba mà một. Bàn Cổ một thân một mình, ngày ngày tay phải cầm búa, tay trái cầm dùi, ra sức mở mang cõi trần. Nguyên Khí một thân một mình, cô đọng tạo thành chim bay, thú chạy, cỏ cây, hoa lá,… Nguyên Thủy một thân một mình tạo ra nguyên lý sơ khai sáng thì sáng, tối thì tối… Tất cả hết rất, rất, rất lâu. Đây là câu chuyện ai ai cũng biết.
Từ thời xa xưa, con người đối với thế giới quanh mình, thảy những sự kỳ dị, chớp loè sấm động, gió dữ mưa to, tuyệt không phải những thứ mà tự sức con người có thể gây ra, rồi tự sức con người có thể chống cự, bèn cho rằng trên chín tầng trời có thần tiên, dưới chín tầng đất có diêm la địa phủ, cũng không có gì là lạ.
Vì vậy truyền thuyết thần tiên lưu lại hậu thế. Chẳng biết bao nhiêu con người thành tâm hướng về những thần tiên do trí tưởng tượng của mình mà lễ lạt cúng bái, hương khói suốt ngày cầu xin hạnh phúc, giàu sang. Nhưng cũng có những con người ưu tú hơn, những triết gia, thầy pháp, học giả,… vượt lên trên số đông, nhìn nhận ra được những tinh túy có trong những câu chuyện thần tiên vẫn kể cho trẻ con. Nếu như tất cả sinh linh tạo hóa, cả con tôm con cá, rồi đến con người, và cả thần tiên trên thiên giới cũng đều từ Thái Cực mà ra, thì người, há lại không thể thành tiên sao.
So với những loài khác, con người thể chất kém nhất, nhưng cuối cùng lại thống lĩnh vạn vật. Với động lực săn đuổi ước mơ thành thần tiên, hết đời này sang đời khác, nhiều thể loại người, điên có tỉnh có, kém có giỏi có, tiếng tăm lẫy lừng có mà vô danh tiểu tốt cũng có, người trước nằm xuống người sau đứng lên, có người đổ hết cả tài sản sức lực, vẫn cặm cụi đi tìm…
Cho mãi đến nay, tuy vẫn chưa thể gọi là hoàn mỹ, nhưng có một số người ưu việt hơn hẳn số đông, mỗi người một kiểu, lấy thân phận, trí tuệ của người phàm mà ngộ ra biết bao chân lý của vũ trụ. Mỗi người đều có những giáo lý khác nhau, nhưng tựu trung đều đã nhấc bản thân mình lên khỏi địa vị thấp bé của con người mà bước lên một thứ bậc cao hơn. Họ được gọi chung là Tu Chân Giả
Nhiều vị tiền bối đắc đạo cao thâm, truyền thuyết kể người thì đã sống lâu hàng ngàn năm không chết, người lại có trí tuệ uyên thâm vô hạn, không gì không biết, người lại có thể nhấc núi ngăn sông, hô phong hoán vũ. Người đời cho rằng vậy là đắc đạo thành tiên, nên càng ngày càng có thêm nhiều người lao vào con đường Tu Chân.
Nhưng đời này, người ăn không hết, kẻ làm chẳng ra. Biết bao nhiêu người mong ước như vậy, có lẽ đến lúc xuống mồ vẫn không được thỏa ước nguyện. Vậy mà hắn, cả đời chưa từng mong gì hơn là được một bữa cơm ấm canh ngon, thì bỗng dưng lại ngồi đây, trong một căn phòng.
Mà căn phòng này, nằm trong một căn nhà.
Mà căn nhà, lại nằm trong một sơn trang.
Mà sơn trang này là một trong Ngọc Tiết Cung, một Tu Chân Phái quy tụ tuy chỉ tầm hơn sáu trăm tu chân giả, nhưng địa vị chí ít cũng xếp hạng thập bát danh phái đương thời.
– Chậc, vậy là cũng đã được một năm rồi nhỉ.
A Tư Mạc, tên hắn là A Tư Mạc, nhảy ra khỏi giường, rửa mặt chải tóc, duỗi vai vặn lưng cho huyết quản lưu thông, rồi bắt đầu gập chăn gấp màn. Tất cả đều rất nhanh nhẹn, quy củ. Xong, hắn nhìn quanh lại để kiểm tra hết mọi việc, rồi bước ra khỏi cửa, lại bắt đầu một ngày mới làm một Tu Chân Giả…học việc.
A Tư Mạc, cũng như hầu hết các đệ tử khác của Ngọc Tiết Cung, là cô nhi từ nhỏ. Song khác với các đồng môn còn lại, hắn không phải là người Trung Thổ, mà là người Cận Mạc, hơn nữa còn là một người Cận Mạc rất điển hình: làn da hắn ngăm đen, rám nắng và trơn nhẵn trong khi mái tóc đen óng. Đôi lông mày hắn cong, mỏng, còn đôi mắt hắn to, đen và sáng như hai vũng dầu than.
Cha mẹ hắn là ai, trông như thế nào, A Tư Mạc chỉ có thể hồi tưởng được mang máng, bởi từ bé, hắn đã được một vị bá bá trong họ nhận nuôi. Vị bá bá đó kể rằng năm hắn ba tuổi, mẹ hắn bị ốm nặng mà mất. Bốn năm sau, cha hắn gửi gắm hắn cho vị bá bá này xong thì cũng nhắm mắt xuôi tay.
Hắn sống với gia đình bá bá được bốn năm thì đột nhiên một ngày nọ phát sinh biến cố. Có kẻ dùng mưu cưỡng đoạt thị phần của bá bá hắn, khiến bá bá chỉ trong một đêm gần như mất hết sạch kế sinh nhai. Cùng đường, bá bá hắn quyết định bán hết tất cả của cải, bỏ hết vốn liếng tích cóp ra làm một chuyến buôn bán lớn, được ăn cả ngã về không. Cũng trên chuyến hành trình ấy mà hắn làm quen với một người vị tiểu huynh đệ kém hắn ba tuổi, tên là Tự Nhiên Long, là con trai một thương nhân Trung Thổ đồng hành cùng với bá bá hắn. Song trời tính không bằng người tính, chuyến hàng đó đi vào địa phận Trung Thổ không được bao lâu, liền bị lũ thổ phỉ lao tới chém giết hầu như không chừa một ai, chỉ còn hai đứa bé là hắn cùng Tự Nhiên Long. Bọn hắn vì bảo vệ thi hài của người thân mà bị lũ cướp chém một nhát dọc theo lưng, máu chảy hòa lại làm một…
Nhớ tới chuyện đau thương cũ cùng người bằng hữu lúc sinh tử, A Tư Mạc không khỏi thở dài một tiếng. Nếu không phải bọn hắn số mệnh chưa tuyệt, đúng lúc đó có một vị trưởng lão của Ngọc Tiết Cung đi qua thương lòng cứu giúp, giết sạch đám thổ phỉ, không biết chừng lúc này bọn hắn đã là cô hồn dã quỷ. Vị trưởng lão đó chữa chạy cứu khỏi hắn cùng Tự Nhiên Long, rồi đưa về Ngọc Tiết Cung gửi gắm. Thời gian thầm thoát thoi đưa, đã hơn bảy tháng trôi qua, dần dần A Tư Mạc cũng đã vượt qua được chuyện cũ, cũng như quen với cuộc sống mới.
Mở cửa ra, một cơn gió lạnh nhẹ nhàng quét qua, khiến A Tư Mạc không khỏi rùng mình dù đã mặc áo bông rất ấm. Dòng máu Cận Mạc chảy trong huyết quản của hắn khiến hắn gần như miễn nhiễm với cái nắng nóng gay gắt của sa mạc, chứ không phải là những cơn gió tuyết lạnh lẽo trên núi cao. Đặt tay lên chuôi dao cạnh hông, A Tư Mạc hít vào một hơi thật sâu, từ lòng bàn tay truyền đến một cảm giác ấm áp đuổi đi khí lạnh đang bám vào tận xương cốt hắn.
Con dao này là bảo vật truyền thừa của gia tộc hắn, bá bá vẫn hay kể lại như vậy. Từ mũi dao đến cuối chuôi dao dài đúng chín tấc (36 cm), với lưỡi dao dài sáu tấc (24 cm), sống dao thẳng tắp. Bá bá hắn chính là dùng lưỡi dao này mà chống lại bọn thổ phỉ, sau này bá bá bị tên cầm đầu bọn cướp chém lén một nhát sau lưng, trước khi chết vẫn kịp chém mù mất một mắt của hắn. A Tư Mạc cùng Tự Nhiên Long vốn áp lưng vào nhau, hai thằng nhóc chỉ biết bắt chước người lớn cầm lấy thứ gì đó lên phòng thân, đương nhiên là không có tác dụng gì. Lúc bọn hắn được vị trưởng lão kia cứu cho tỉnh lại, A Tư Mạc mới biết hắn vẫn còn giữ theo con dao này. Cũng từ đấy, hắn luôn giữ con dao bên mình, coi như là một món kỉ vật vậy.
Trước đây, mỗi đêm khi hắn bị những cơn ác mộng ám ảnh, A Tư Mạc vẫn ra trước cửa phòng, dùng lưỡi dao sáng loáng để phản chiếu ánh trăng sao để giải sầu. Có thể vì lưỡi dao đã truyền qua biết bao thế hệ gia đình hắn, hoặc cũng có thể vì nó là mối liên kết duy nhất mà hắn còn với gia đình xưa, nên mỗi khi nắm chặt nó trong tay, A Tư Mạc đều cảm thấy tinh thần thoải mái hơn hẳn, sự cô đơn cùng sợ hãi trong lòng đều vơi đi không ít.
– Được rồi, bắt đầu thôi.
Tâm tính đã bình ổn trở lại, A Tư Mạc liền vươn vai thêm vài cái, rồi lại bắt đầu luyện tập theo giáo trình hàng ngày mà Thương Hùng sư huynh đã chỉ cho hắn bảy tháng trước.
A Tư Mạc là đệ tử của Dược Đường Chủ Chu Ngọc Yên, một trong sáu vị trưởng lão của Ngọc Tiết Cung. Đệ tử Dược Đường hàng ngày mỗi buổi sáng sớm rời giường đều leo lên đỉnh Mộc Bảo phong chặt củi, lâu lâu lại đến bờ bắc Thiên Tinh hà gánh nước, cứ như thế lặp đi lặp lại cho đến giữa trưa. Ăn cơm trưa xong thì đến Tĩnh Linh đường tĩnh tọa hấp thu thiên địa linh khí cho đến buổi tối. Ăn cơm tối xong là thời gian rảnh của mỗi người, song đại khái cũng lại là tu luyện.
Nhớ hôm đầu tiên hắn bắt đầu tu tập, Thương Hùng huynh vào hẳn phòng hắn để lay hắn dậy, hắn dụi dụi mắt nhìn ra ngoài trời, vẫn còn rất sớm. Khi đó hắn có hỏi Thương Hùng sư huynh, huynh ấy trả lời một cách rất đơn giản:
“Đương nhiên rồi, tu chân không thể lười nhác được. Đệ nhanh rời giường, cùng ta đi luyện công.”
Lần đầu tiên hắn leo lên đỉnh núi, mới đi được một đoạn liền phát hiện ra độ dốc càng lúc càng lớn, lộ trình so với tưởng tượng của mình còn dài hơn rất nhiều. Bất quá, hắn nhìn sang Thương Hùng sư huynh ở bên cạnh vẫn như cũ đi tới vô cùng thoải mái, bước bộ nhanh nhẹn cực kỳ, liền cắn răng tiếp tục đi theo. Bất quá nửa canh giờ sau, A Tư Mạc đã mệt đến nỗi há miệng thở dốc, hai chân tê cứng, mệt mỏi không chịu nổi.
Thương Hùng sư huynh khi đó ở phía trước, nhìn thấy bộ dáng của hắn như vậy, liền khẽ cười, cũng dừng cước bộ chờ hắn. A Tư Mạc khi đó cũng không để ý nhiều, chỉ có thể ngồi bệt xuống đất, liều mạng hít thở.
Đại sư huynh khi đó cười nói với hắn:”Tiểu sư đệ, đệ nên biết rằng người tu chân, thân thể là quan trọng nhất, nếu như thân thể không tốt, cho dù có vô thượng diệu pháp cũng không thể tu luyện được. Ngọc Tiết cung chúng ta bắt nguồn từ đạo giáo, rất coi trọng đạo dưỡng sinh cường kiện thân thể, đạo pháp tu luyện càng tinh thâm thì thân thể lại càng trọng yếu, đệ đã hiểu rõ chưa?”
Bảy tháng trước là như vậy, giờ đây hắn cũng đã quen, tuy vẫn phải gắng sức, song từ sơn trang theo đường mòn lên đến bên bìa rừng hắn không còn phải hơi tý là nghỉ nữa, chỉ dừng lại có một hai bận gì đó tùy vào sức khỏe. Đương nhiên là đến nơi hắn vẫn rơi vào cảnh đến hít thở cũng khó khăn, chỉ có thể dựa vào cây mà đấm bóp hai chân một lúc thì mới có thể đứng thẳng dậy được. Song như vậy cũng đã là có tiến bộ rồi.
Rút ra một thanh đao chặt củi mà hắn đã mài sắc từ trước, A Tư Mạc đi lại một cây thông bé con con chỉ cao hơn hắn một chút ở trước mặt, đánh giá trên dưới một lượt. Để lưỡi dao nằm ở vị trí mà hắn thấy thoải mái, A Tư Mạc liền liếm môi vài lần, rồi hít vào một hơi, vung đao chém xuống. Chỉ nghe một tiếng kêu giòn vang lên, đao như chém vào đá cứng, khiến cho bàn tay Phương Tử Vũ tê rần, đánh rơi cả lưỡi đao. Mà cây thông này còn nhỏ, thân cây khá dẻo, bị hắn chặt một nhát liền hơi đổ về sau. A Tư Mạc không giữ được lưỡi đao, thân cây không có thứ gì giữ, liền bắn ngược trở lại, vút đi trong gió nghe như một ngọn roi.
– Còn lâu mới… Á.
A Tư Mạc vừa mới mở miệng đắc thắng chưa được một câu thì đột nhiên một quả thông rơi trúng đầu hắn, đau điếng vô cùng. Hơn nữa lúc đó A Tư Mạc lại không chuẩn bị, trúng mất đòn “phục kích” bất ngờ này liền loạng choạng ngã bệt xuống đất, chỉ còn biết vừa ôm đầu vừa ôm mông mà rên đau.
Khi trước hắn không biết, khi chặt xuống thân cây, chuyện này xảy ra, hắn né không kịp, mu bàn tay bị cây thông bé hung hăng giáng cho một đòn, đau nhức vô cùng. Lần này tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, quả thông trên cành bị hắn chặt mà bị đứt xuống, lại rơi trúng đầu hắn, đau quá a.
– A Tư Mạc, tên tiểu tử ngươi đang làm cái trò gì vậy hả?
Ngoái cổ sang bên, A Tư Mạc không khỏi rủa thầm bản thân. Không phải hôm nay hắn bước nhầm chân ra khỏi cửa chứ, tại sao lại gặp sư tỷ ở đây vậy.
Ngọc Tiết Cung do sáu chi phái nhỏ lập thành, gọi là Lục Đường, gồm: Chính Đường, Quản Đường, Kim Đường, Dược Đường, Khí Đường, Thư Đường. Sáu vị đường chủ cũng là sáu vị trưởng lão tọa trấn Ngọc Tiết Cung, mỗi người đều có các đệ tử nhất mạch riêng, như Tự Nhiên Long là bái Quản Đường Chủ Tân Ngạn. Dược Đường Chủ Chu Ngọc Yên là sư phó của hắn, đệ tử Dược Đường trừ hắn còn hai người, là đại sư huynh Thường Thắng và nhị sư tỷ Chu Đường Mộng, là cháu gái của sư phó.
Chu tỷ thua hắn một tuổi song bái môn trước, nên theo quy tắc vẫn là sư tỷ. Cũng vì chưa biết sự tình như thế, nên ngay sau hôm hắn bái Chu Ngọc Yên hai tiếng sư phó, gặp tỷ ấy lại ngỡ một cô bé đi lạc (Cũng không hiểu lúc đó hắn ăn phải bả gì mà nghĩ như thế nữa), nên thành ra cảnh thế này :
Hắn đặt tay lên đầu tỷ ấy, xoa nhẹ :
– Tiểu muội à, muội làm gì ở đây thế. Muội đi lạc à ?
– Muội… Huynh…huynh là ai ?
– Ta hả? Ta tên là A Tư Mạc.
-A Tư Mạc? Muôi…muội không biết ai tên là A Tư Mạc cả.
– Ừm… hình như giờ ta là, nói thế nào nhỉ,… là tam đệ tử của Chu sư phó, ta nghĩ thế.
– À, nếu thế thì…
Hắn lại xoa đầu tỷ ấy lần nữa :
– À, thế muội tên là gì ?
– Đường Mộng, nhưng mà…
Hắn lại xoa đầu tỷ ấy lần thứ ba, thậm chí lần này còn làm rối tung hết cả tóc tỷ ấy lên nữa :
– Đường Mộng hả, tên muội sao hay vậy! Thế muội đi lạc à ?
– Không, không phải… nhưng đợi đã…
– Muội không phải lo đâu ? Hồi bằng tuổi muội ta cũng hay trốn đi chơi lắm…
– Chậc.
Đột nhiên, từ cô gái nhỏ bé xinh xắn trước mặt hắn liền phát ra một cỗ sát khí thần ma phải hãi, A Tư Mạc sợ hãi lùi lại tức tốc đến mức ngã bổ chửng ra đất. Lúc này hắn vẫn còn chưa có nhiều kinh nghiệm khi nói chuyện với tỷ ấy, nên phạm ngay vào điều cấm kỵ:
– Muội…muội đừng khóc, hồi còn bé ta cũng hay đi lạc lắm…
Sau đó thì, chẹp,… nói chung là hắn bị liệt ngay vào sổ tử của Chu tỷ. Tỷ ấy có “thâm thù đại hận” với hắn như vậy, nên cứ một chút là căn vặn, khiến hắn mười phần thì chín phần phải sợ tỷ ấy.
– Đồ ngốc, đã bảy tháng rồi mà ngươi vẫn không thể chặt được một cây thông sao?
– Chu tỷ, tên cây thông này là gì?
Chu tỷ vừa nghe hắn nói thế, liền ngớ người, nhìn hắn như nhìn một tên ngốc vậy (ờ thì bình thường trong mắt tỷ ấy, hắn luôn là một tên ngốc, nhưng mà cái này thì khác):
– Đừng bảo rằng ngươi bị quả thông rơi vào đầu nên mất trí rồi nhé?
– Cứ trả lời đệ đi.
Chu tỷ lại liếc nhìn hắn thêm một cái nữa, rồi nhún vai:
– Nó gọi là Hắc Kim Tùng?
– Tại sao nó lại gọi là Hắc Kim Tùng?
– Này, ngươi không mất trí thật chứ? Cái này Thường huynh đã giải thích cho ngươi từ hôm đầu tiên rồi mà.
– Cứ trả lời đệ đi.
A Tư Mạc lần nữa nhắc lại. Nếu như có một điểm gì mà hắn cảm thấy Chu tỷ giống một cô gái mười tuổi nhất, thì đó là tỷ ấy rất hiếu kì.
– Hừ. Đó là vì thiên địa linh khí trên Mộc Bảo Sơn rất dồi dào, cây cỏ ở đây biết bao đời hấp thu thiên địa linh khí, sớm đã thoát thai hoán cốt, chỉ như cái cây kia, tuổi nó chắc đại khái cũng bằng tuổi ngươi, song người thường đều không dễ chặt, nên gọi là Hắc Kim Tùng.
– Đệ hiện tại tu vi…
– Luyện Khí kỳ sơ tầng.
Lần này hắn chưa nói xong, Chu tỷ rất nhanh liền ngắt lời hắn, hai tay khoanh trước ngực, rõ ràng là vô cùng sốt ruột. Song A Tư Mạc không dễ gì bỏ qua cơ hội có thể trêu ngươi được tỷ ấy như vậy, liền ung dung đứng dậy, phủi phủi quần, rồi dang hai tay nói:
– Đệ tu vi vẫn là Luyện Khí kỳ sơ tầng, chẳng khác gì người bình thường, tất nhiên sẽ không thể chặt được Hắc Kim Tùng, bằng không chính là làm ô danh cái tên của nó vậy. Tỷ là thiên kiêu chi nữ, mới mười tuổi đã đạt đến Trúc Cơ kỳ sơ tầng, thiên hạ người sánh được với tỷ chỉ đếm trên đầu ngón tay, nếu đệ cũng có thể như tỷ dễ dàng chặt cái cây này xuống, vậy chẳng nhẽ đệ cũng bằng tỷ sao. Việc đó là không thể nào.
Câu trả lời này, bốn phần là lý sự cùn, sáu phần là tâng bốc, bất quá Chu tỷ mới mười tuổi, chắc hẳn cũng chưa nhìn ra được, tự nhiên sẽ thấy vừa nghe.
– Ngươi nói cũng đúng…
A Tư Mạc đang thầm dương dương tự đắc trong lòng, bỗng nhiên liền nghe thấy Chu tỷ tiếp tục lên tiếng, những câu sau từng từ từng chữ như sét đánh bên tai:
– Vậy hôm nay phạt ngươi nấu cả cơm trưa lẫn cơm tối.
– Hả? Tại sao lại phạt đệ chứ? Đệ làm gì sai nào?
– Ta đột phá Luyện Khí kỳ sơ tầng, hết bao lâu?
A Tư Mạc hơi cứng họng. Chu tỷ, người định khiến ta gậy ông đập lưng ông ư? Song bất quá giờ hắn không thể không trả lời.
– Ba tháng.
– Đại sư huynh đột phá Luyện Khí kỳ sơ tầng, hết bao lâu?
– Bảy… bảy tháng.
– Bảy tháng. Ngươi đến đây đã hơn bảy tháng, cũng chưa có dấu hiệu gì là sẽ đột phá tầng một, vậy vấn đề là tại đâu? Là Thương Hùng huynh dạy dỗ ngươi kém sao? Ta có thể đi bẩm báo với sư phụ, để người thay ta kèm ngươi.
– Không, sư huynh rất quan tâm chỉ dạy cho đệ, không hề sao nhãng gì cả, huynh ấy chỉ dẫn đệ rất chi tiết cẩn thận.
Để tỷ dạy đệ, những ngày tháng tương lai thật đen tối a.
– Vậy thì chỉ có thể là do ngươi lười biếng. Người ta bảo học gì cũng phải học một biết mười, ngươi học từ Thương Hùng sư huynh, vậy mà kém hơn huynh ấy. Nếu đệ tử Ngọc Tiết cung ai cũng như ngươi, vậy Ngọc Tiết cung liệu hương hỏa có thể truyền thừa đến lâu như thế này không?
– Không, nhưng mà…
Hắn chưa kịp nghĩ cách xoay chuyển tình thế, Chu tỷ lại ung dung lật ngửa con bài cuối:
– Môn quy số sáu: “Sư huynh, sư tỷ nào thấy sư đệ, sư muội cùng một môn đường lười biếng không chịu tu luyện, liền tùy ý có thể làm nghiêm để dạy bảo. Hình phạt trao cho chỉ được là các công việc nội trợ bình thường, hình phạt nặng hơn phải được sự chấp thuận của sư phó hoặc bên Quản Đường”. Ta nay lấy cương vị sư tỷ, ra hình phạt bắt ngươi nấu cơm hôm nay, hoàn toàn không vượt quá môn quy. Sao, ngươi có gì không phục?
Không phục, ta kháo, chắc chắn là không phục. Đây là giận cá chém thớt, cường từ đoạt lý, công tư bất phân. A Tư Mạc vừa định mở miệng phản đối, Chu tỷ liền hóa thành một đoàn hư ảnh, trong sát na đã áp sát hắn, khiến hắn không hỏi giật mình, lần nữa ngã ngửa ra sau, đáp đất bằng mông.
– Ta hỏi lại, ngươi có gì không phục?
Hỏng rồi. Hắn một lần nữa phạm vào một chuyện đại kỵ của Đường Mộng tỷ tỷ: Tỷ ấy giờ mới 11 tuổi, song tu vi vượt xa những bậc đồng trang lứa, trong môn phái đã liệt vào hàng tuổi trẻ tài cao. Nhưng cũng bởi thế mà tính cách của tỷ ấy hiếu thắng vô cùng, nhất nhất không chịu nín nhịn bao giờ.
Ta nhẫn.
– Đệ… đệ không có gì không phục.
Hắn đành gắng chịu đau mà nói. Hức hức, cớ sao số ta khổ thế này cơ chứ. Song đúng lúc này, Chu tỷ lại vươn tay về phía hắn, khiến hắn không khỏi ngửa ra sau.
– Tỷ… tỷ làm gì thế? Đệ đầu hàng rồi mà.
– Hừ, trật tự đi, để ta xem vừa lúc nãy ngươi bị đau ở đâu nào.
Tỷ tỷ ấy đứng hơi cúi người xuống, đôi tay nhỏ bé hơi mân mê mái tóc hắn, giọng nói rất nhẹ nhàng.
– Bị quả thông rơi trúng đầu cũng có thể có vấn đề đấy, ngươi mà đi đời nhà ma như vậy, thì quả thực là một cái chết thật lãng xẹt đi. Để ta xem hộ xem cái đầu rỗng của ngươi có sao không nào.
A Tư Mạc hơi bất ngờ vì cử chỉ dịu dàng này của Chu tỷ. Mà càng bất ngờ là, hắn chợt cảm thấy sự ấm áp không tên hiện lên trong lòng. Bất quá hắn chỉ mỉm cười, cũng không chú ý đến việc đó lắm, liền nói:
– Ồ, nếu là đầu rỗng thì đâu có thể bị sao được chứ.
– Ồ, là ta nhầm. Phải là cái đầu dốt đặc mới đúng. Bổn cô nương cần tập trung, ngươi yên lặng đi.
Hắn khẽ cười. Chu tỷ tuy tính tính nóng nảy cứng đầu, song thực chất cũng biết quan tâm đến người khác đấy chứ. Nhớ lại có một hôm, hắn bị tỷ ấy phát hiện ra đang khóc trong phòng, tỷ ấy liền đá cửa xông vào, cả đêm đều ở bên cạnh hắn nhỏ nhẹ không ngừng mắng nhiếc hắn “ngu ngốc”, “dốt nát”, “đã muốn khóc tại sao phải giấu mọi người”, song cũng suốt cả đêm hôm ấy đều không ngừng lúc nào rời hắn đi.
Chu tỷ chợt nói:
– Mẹ ta thường bảo, khi ngươi đau ở đâu, chỉ cần có người thổi nhẹ vào đó một phát, ngươi sẽ hết đau ngay.
Nói xong, tỷ ấy liền thổi nhẹ lên đầu hắn. Khí trên núi lành lạnh, Chu tỷ thổi lên đầu hắn, A Tư Mạc chỉ thấy hơi buồn buồn, song đúng là cái đau có giảm đi.
– Thế nào, ngươi đỡ chưa?
Những gì hắn nói sau đó, chính hắn cũng không hiểu mình nói gì lắm.
– A.
– Chết, ta làm đau ngươi sao?
– Tỷ làm sai, đệ đương nhiên đau rồi.
– Ta làm gì sai?
– Cha đệ bảo, không phải thổi, mà là tỷ đau ở đâu, phải có người khác hôn tỷ ở đó cơ.
– Ngươi…ngươi nói cái gì?
– A…đau đầu quá… đau đầu chết mất… như có ai bổ búa vào đầu vậy…
– Dù đau nhưng cũng đâu cần phải h…hô…như thế chứ?
– AAAAAAA…
– Được… được rồi, ngươi… ngươi yên nào.
Chỉ thấy lúc đó Đường Mộng tỷ tỷ mặt đỏ như gấc, đến nỗi hay khóe mắt chảy cả nước mắt. Nhưng rồi tỷ ấy rồi cũng run run nắm lấy hai vai hắn, kéo hắn gần lại. Đôi môi tỷ ấy đầu tiên còn mím chặt, sau rồi hơi chụm lại, và rồi…
– Đồ chết dẫm.
Uỳnh. Thiết Đầu Công của Đường Mộng tỷ tỷ công lực thật thâm hậu, khiến hắn lãnh một chưởng là nằm quay ra đất luôn, tệ thật. Tỷ ấy theo đó liền quay lưng hầm hầm bỏ đi, chỉ vứt lại một câu:
– Ngươi tự mình đi chết đi, ta không quan tâm nữa.
Tuy nói vậy, song lúc A Tư Mạc hơi nghiêng đầu sang nhìn tấm thân nhỏ nhắn của Chu tỷ dời đi, vành tai tỷ ấy vẫn còn đỏ chót.
– Ai da, đâu nhất thiết phải mạnh tay thế a.
Và thế là cả hôm đó, hắn cứ thế nằm đấy, ngửa mặt lên trời cười như một tên ngốc cho tới khi Thương sư huynh đến gọi hắn.
À, và hắn vẫn cứ phải nấu cơm trưa và cơm tối cho ngày hôm đấy luôn. Hà.