Papillon - Người Tù Khổ Sai

Chương 38: Georgetown



Buổi chiều, sau khi được chích nhiều thứ thuốc vắc- xin khác nhau, chúng tôi được chuyển sang đồn cảnh sát của thành phố, một thứ trụ sở lớn có hàng trăm cảnh binh tấp nập ra vào không ngớt. Giám đốc cảnh sát của thành phố George, người cầm quyền tối cao, chịu trách nhiệm về sự an toàn của hải cảng quan trọng này, tiếp ngay chúng tôi tại phòng làm việc của ông. Quanh ông là các sĩ quan Anh mặc đồ ka-ki, quần cộc, bít tất trắng, trông chừng chạc không chê vào đâu được.

Ông đại tá ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống trước mặt ông. Bằng tiếng Pháp chính cống, ông hỏi chúng tôi:

– Lúc người ta bắt gặp các anh trên biển, các anh từ đâu tới?

– Từ trại tù khổ sai ở Guyane thuộc Pháp.

– Các anh cho tôi biết những điểm chính xác mà từ đó các anh vượt ngục đi.

– Tôi ở đảo Quỷ. Các anh này ở một trại giam ở đất liền, một nửa là tù chính trị, tại Inini, gần Kourou trên đất Guyane thuộc Pháp.

– Anh bị kết án thế nào?

– Tù chung thân. Lý do: giết người.

– Còn bác người Tàu?

– Cũng giết người.

– Án ra sao?

– Chung thân.

– Nghề nghiệp?

– Thợ điện.

– Còn cái anh kia?

– Nấu bếp.

– Các anh theo Degaulle hay Pétain?

– Chúng tôi không biết gì. Chúng tôi chỉ là những tù nhân muốn tìm cách sống lương thiện trong tự do.

– Chúng tôi sẽ để các anh ở một xà-lim dược mở cửa suốt ngày đêm. Chúng tôi sẽ trả tự do cho các anh sau khi xét lời các anh đã khai. Nếu các anh nói thật, các anh không phải sợ. Các anh phải hiểu là chúng tôi đang có chiến tranh, nên chúng tôi buộc lòng phải thận trọng hơn thời bình nhiều.

Tám ngày sau, chúng tôi đã mau chóng được trả tự do. Chúng tôi lợi dụng tám ngày ở lại Đồn cảnh sát ấy để trang bị quần áo tươm tất. Chín giờ sáng mai anh Tàu và tôi đã ăn mặc chỉnh tề ra đường với giấy căn cước có dán ảnh. Các nhà trong cái thành phố 250.000 dân này hầu hết là bằng gỗ, kiến trúc kiểu Anh: tầng trệt bằng xi- măng, phần còn lại bằng gỗ. Đường xá và đại lộ chật ních những người thuộc đủ các chúng tộc: da trắng, da đen, Ấn Độ, có các phu phen, thủy thủ Anh, Mỹ, hoặc người phương Bắc. Chúng tôi hơi say sưa thấy mình được ở giữa đám đông sặc sỡ này. Một niềm vui mãnh liệt tràn ngập lòng chúng tôi, mạnh mẽ đến nỗi nó lộ rõ trên mặt chúng tôi, kể cả hai anh người Tàu, làm nhiều khách bộ hành nhìn chúng tôi và mỉm cười vui vẻ.

– Chúng ta đi đâu bây giờ? – Quých hỏi.

Tôi biết sơ sơ địa chỉ vài người. Một cảnh sát da đen đã cho tôi địa chỉ của hai người Pháp ở đường Penitence Rivers. Hỏi thăm kỹ thì đấy là một khu đặc biệt chỉ có người Ấn Độ cư ngụ.

Tôi đến gặp một cảnh sát viên ăn mặc đồ trắng, trông chững chạc, tôi đưa địa chỉ cho anh ta coi. Trước khi trả lời, anh hỏi giấy tờ của chúng tôi. Tôi hãnh điện lấy ra đưa cho anh. “Rất tốt, cám ơn”, và anh ta sốt sắng đưa chúng tôi đến một chiếc tàu điện và nói gì với người lái. Chúng tôi đi ra ngoài thành phố và hai mươi phút sau, người lái tàu bảo chúng tôi xuống. Chắc là đến nơi rồi. Chúng tôi hỏi đường. “Anh là người Pháp hả?” Một thanh niên ra hiệu cho chúng tôi đi theo anh ta. Anh ta đưa chúng tôi đến thẳng một căn nhà thấp. Tôi vừa tới nơi thì thấy có ba người đi ra, điệu bộ niềm nở:

– Sao lại thế này, Papi, anh ở đây à?

– Vô lý, người già nhất, tóc bạc trắng nói. – Vào đi! Đây là nhà tôi. Hai người Tàu này đi với anh đấy?

– Phải.

– Vào đi, mời các anh vào cả.

Người tù già này tên là Guitto Auguste, còn gọi là Le Guittou, dân Marseille chính cống. Chín năm trước, năm 1933, anh lên tàu La Martinière cùng một chuyến với tôi. Sau một chuyến vượt ngục thất bại, anh được tha tội chính và đã bỏ trốn đi, cách đây ba năm, theo như lời anh nói. Hai người kia, một là Louis Nhỏ, người ở Ardes, một người dân Toulouse tên là Julot. Cả hai cùng trốn đi sau khi mãn hạn tù, đáng lẽ họ phải ở lại Guyane thuộc Pháp một thời gian tương đương với thời gian họ bị giam, mười năm và mười lăm năm (gọi là thời gian quản thúc).

Căn nhà có bốn gian: hai phòng, một căn bếp, kiêm phòng ăn và một xưởng nhỏ. Họ đóng giày bằng balata, một thứ cao-su thiên nhiên kiếm ở trong rừng, cứ bỏ vào nước nóng là có thể nhào nặn thành đồ dùng rất dễ dàng. Nhược điểm của nó là đề lâu ngoài nắng thì bị chảy, vì đó là thứ cao su chưa được lưu hóa. Người ta khắc phục khuyết điểm đó bằng cách cho những lớp vải xen kẽ với các lớp balata. Chúng tôi được tiếp đón nồng hậu, với tấm lòng cao thượng của một người đã từng đau khổ, Guittou đã thu xếp cho ba chúng tôi một văn phòng và để chúng tôi ở nhà anh không hề do dự chút nào. Chỉ có một vấn đề là con heo của Quých-Quých, nhưng Quých bảo đảm là nó không làm dơ nhà và chắc chắn là nó biết ra ngoài một mình để đi đái. Guittou nói: “Được, rồi sẽ tính sau, bây giờ anh em cho nó ở với anh”.

Tạm thời chúng tôi lấy ba tấm chăn cũ của lính trải ra đất làm giường nằm. Sáu người chúng tôi ngồi trước cửa, hút vài điếu thuốc, tôi kể cho Guittou nghe những chuyện gian truân của tôi trong chín năm qua. Hai người bạn của anh và anh hết sức chăm chú lắng nghe và như cùng sống lại những biến cố đó và họ cũng qua những kinh nghiệm thực tế của bản thân để cảm thông được. Có hai người biết Sylvain, đã than vãn về cái chết của anh ta. Trước mặt chúng tôi, rất nhiều người thuộc đủ các chủng loại đi qua đi lại. Thỉnh thoảng có người vào mua một đôi dép hay một cây chổi, vì Guittou và các bạn anh còn làm cả chổi để kiếm sống. Qua họ tôi biết là trong số tù khổ sai và đi đày có chừng ba chục người vượt ngục đã đến ở thành phố George. Ban đêm, họ gặp nhau tại một quán rượu ở trung tâm thành phố để uống rượu rhum hay bia.

Julot nói với tôi là tất cả đều làm việc để sinh sống và đa số có thái dộ tốt. Trong khi chúng tôi ngồi hóng mát ở cửa có một người Tàu đi qua, Quých liền gọi anh ta lại. Rồi không nói gì với tôi, anh và anh cụt đi theo người nọ. Chắc họ không đi xa vì con heo cũng theo sau. Hai giờ sau, trên xe ba gác nhỏ, anh vênh vang như Artaban, ghìm con lừa dừng lại và nói với nó bằng tiếng Tàu. Con lừa có vẻ hiểu được thứ tiếng này. Trong xe, có ba cái giường sắt, ba tấm nệm, gối và ba chiếc va-li. Anh đưa cho tôi một chiếc va li đầy trong có áo sơ-mi, quần đùi, áo lót cùng hai đôi giày, v.v…

– Anh kiếm ra những thứ này ở đâu vậy, Quých?

– Các bạn đồng hương của tôi cho tôi đấy. Ngày mai chúng ta đến thăm họ nhé?

– Đồng ý.

Chúng tôi tưởng Quých lại dắt con lừa và chiếc ba gác đi, nhưng không. Anh tháo lừa ra, buộc nó ở trong sân.

– Họ tặng tôi cả con lừa và chiếc xe này. Họ nói, với những thứ ấy, tôi có thể kiếm sống dễ dàng. Sáng mai, một người cùng quê với tôi sẽ đến đây chỉ cho tôi.

Dân tàu, làm gì cũng mau thật. Guittou bằng lòng cho chiếc xe và con lừa được ở tạm trong sân.

Ngày tự do đầu tiên của chúng tôi trôi qua tốt đẹp. Buổi tối,sáu chúng tôi ngồi quanh bàn làm việc, ăn ngon lành món xúp rau, do Julot nấu, và một đĩa mì ống.

– Lần lượt, mỗi người thay phiên nhau dọn nhà và rửa bát chén- Guittou nói.

Bữa ăn chung này tượng trưng cho một tập thể nhỏ đầy nhiệt tình. Cảm giác biết mình được giúp đỡ trong bước đầu của cuộc đời tự do làm chúng tôi vững lòng. Quých, anh cụt và tôi thấy sung sướng thật sự và hoàn toàn. Chúng tôi có một mái nhà, một cái giường, những người bạn hào phóng, tuy nghèo nhưng cũng có tinh thần cao thượng đã giúp đỡ chúng tôi. Còn cần đòi hỏi gì hơn nữa?

– Đêm nay, cậu có muốn làm gì không. Papillon? – Guittou hỏi tôi. – Cậu muốn đến quán rượu ở trung tâm, nơi các tay tù vượt ngục đều tới không?

– Tôi thích ở nhà đêm nay hơn. Anh muốn đi thì cứ đi. Mặc tôi.

– Được, tôi sẽ đi vì tôi cần gặp một người.

– Tôi sẽ ở lại với Quých và anh cụt.

Louis nhỏ và Guittou ăn mặc chỉnh tề, thắt và vạt và đi về phía trung tâm. Chỉ có Julot ở lại để làm nốt vài đôi giày cho xong. Các bạn tôi và tôi đi một vòng quanh các đường phố lân cận cho biết. Tất cả dân ở đây đều là người Ấn Độ. Rất ít người da đen, hầu như không có dân da trắng, rải rác có vài tiệm ăn Tàu.

Penitence Rivers, tên khu phố này, là một góc nước Ấn Độ hay xứ Nam Dương. Các thiếu phụ và thiếu nữ đều rất đẹp, và các ông cụ đều mặc áo dài trắng. Nhiều người đi chân đất. Khu phố nghèo nhưng mọi người đều ăn mặc sạch sẽ. Đường phố thiếu đèn, những quán ăn, uống, đều đông nghẹt người, đâu đâu cũng nghe thấy âm nhạc Ấn Độ. Một người da đen bồ hóng mặc đồ trắng, thắt và vạt chặn tôi lại:

– Ông là người Pháp phải không, thưa ông?

– Phải.

– Được gặp người đồng hương, tôi mừng lắm. Mời ông muốn một ly với tôi.

– Cũng được, nhưng tôi còn hai người bạn.

– Không sao, họ có nói được tiếng Pháp không?

– Được.

Cả bốn chúng tôi vào ngồi một bàn kê bên lề đường, trước một quán rượu.

Anh chàng Martinique này nói một thứ tiếng Pháp còn chọn lọc hơn chúng tôi. Anh bảo chúng tôi phải đề phòng bọn da đen Anh, vì theo anh, họ đều nói dối. “Chúng nó không như người Pháp chúng ta đâu, chúng ta chỉ nói một lời, bọn chúng không như vậy”. Tôi cười thầm vì thấy anh chàng đa đen Tombouctou này tự xưng là người Pháp chúng ta, song tôi lại thực sự lúng túng. Đúng me xừ này là một người Pháp, chính cống hơn tôi, tôi nghĩ vậy, vì anh ta nhận quốc tịch mình một cách đầy nhiệt tình và tin tưởng. Anh ta có thể chết vì nước Pháp, còn tôi thì không. Do đó anh ta Pháp hơn tôi. Cho nên tôi cũng phụ họa theo anh.

– Được gặp đồng hương và nói tiếng mẹ đẻ tôi rất thích vì tôi nói tiếng Anh tồi lắm.

– Còn tôi, tôi nói được, tôi nói tiếng Anh thạo và đúng văn phạm nữa. Anh cần gì, tôi sẵn sàng giúp anh. Anh ở thành phố George này đã lâu chưa?

– Mới được tám ngày, không hơn.

– Anh ở đâu đến?

– Ở Guyane thuộc Pháp.

– Không thể thế được, anh là dân vượt ngục hay là người coi tù chạy theo De Gaulle?

– Tôi vượt ngục

– Còn các bạn anh?

– Cũng vậy.

– Henri ơi, tôi không muốn biết quá khứ của anh, bây giờ là lúc phải giúp đỡ nước Pháp để chuộc tội. Tôi theo De Gaulle và tôi đang chờ tàu để sang Anh đây. Ngày mai anh lại tìm tôi ở Câu lạc bộ Martiner nhé. Địa chỉ đây. Tôi rất sung sướng nếu anh cùng tham gia với chúng tôi.

– Anh tên là gì?

– Homère.

– Me-xừ Homère ơi, tôi không thể quyết định ngay được. Tôi phải tìm hiểu tình hình gia đình tôi và suy xét kỹ trước khi quyết định một việc quan trọng như vậy. Ông Homère ơi, nước Pháp đã làm tôi đau khổ và đối xử với tôi vô nhân đạo lắm.

Anh chàng Martinique đã cố thuyết phục tôi với tất cả nhiệt tình sôi nổi vô hạn độ của trái tim anh. Nghe những lý lẽ của con người này đi bảo vệ nước Pháp đã bị tàn phá của chúng tơi, thật vô cùng cảm động. Chúng tôi về nhà rất muộn và khi đi nằm, tôi nghĩ lại rất cả những gì người dân Pháp lớn đó đã nó với tôi, tôi phải suy nghĩ đứng đắn về đề nghị của anh ta. Nói cho cùng thì bọn cảnh sát, bọn quan tòa, chính quyền nhà tù đâu phải là nước Pháp. Tôi cảm thấy mình vẫn còn rất yêu nước Pháp. Thế mà lại có bọn Đức trên đất Pháp. Trời ơi, những người thân của tôi đau khổ biết bao nhiêu, và đối với tất cả những người dân Pháp, thật là nhục nhã biết chừng nào.

Khi tôi tỉnh dậy, con lừa, chiếc xe ba gác, con heo, Quých và anh cụt đã biến đâu mất.

– Cậu ngủ ngon chứ? – Guittou và các bạn anh hỏi.

– Ngủ say lắm, cảm ơn.

– Cậu muốn uống cà phê sữa hay trà? Cà phê với bánh mì phết bơ.

– Cảm ơn!

Tôi vừa ăn vừa xem họ làm việc. Julot chuẩn bị balata dần dần theo nhu cầu cần thiết, anh ta bỏ thêm những tảng balata rắn chắn vào nước nóng và nhào lẫn với cái khối đã mềm. Louls nhỏ chuẩn bị sẵn những mảnh vải, còn Guittou hoàn tất chiếc giày..

– Các anh làm được nhiều không?

– Không. Bọn mình làm đủ kiếm hai mươi đô-la một ngày. Trả tiền nhà và ăn năm đô-la. Còn lại cho mỗi đứa năm đô-la làm tiền túi, may mặc và tiền hớt tóc

– Các cậu bán hết à?

– Không, thỉnh thoảng, một đứa trong bọn mình phải đi bán giày và chổi ở các đường phố. Đi bán dạo như vậy, dưới nắng, gay lắm.

– Nếu cần, tớ cũng muốn cùng làm với các cậu, ở đây tớ không thích là kẻ ăn bám. Tớ cũng phải góp phần vào bữa ăn chứ.

– Tốt thôi, Papi.

Suốt ngày, tôi đi dạo ở khu phố người ấn của thành phố George. Tôi trông thấy một bảng quảng cáo chiếu bóng và thấy thèm xem một phim màu, có tiếng nói, lần đầu tiên trong đời. Chiều nay tôi sẽ bảo Guittou dẫn tôi đi coi. Tôi đi trên đường Penitence Rivers suốt cả ngày. Thái độ lịch thiệp của những người dân ở đó làm tôi mến họ vô cùng. Họ có hai đức tính: họ rất sạch và rất lễ độ. Cái ngày thơ thẩn một mình tại đường phố ở khu này của thành phố George đối với tôi còn lớn lao hơn nhiều so với ngày tôi đến Trinidad chín năm trước. Ở Trinidad, giữa những cảm giác kỳ diệu do được đi lẫn trong đám đông, tôi luôn luôn tự nhủ: một ngày nào, trong hai tuần lễ nữa là nhiều nhất, tôi lại phải ra đi trên biển. Nước nào sẽ vui lòng nhận tôi? Có quốc gia nào cho tôi cư trú không? Tương lai sẽ ra sao?

Ở đây khác hẳn. Tôi được hoàn toàn tự do, và nếu tôi muốn, tôi có thể sang Anh, tham gia các lực lượng tự do nước Pháp. Tôi phải làm gì? Nếu tôi quyết định đi theo De Gaulle, người ta có thể nói là tôi chẳng biết đi đâu nên phải đâm đầu vào đấy? Giữa những người lành mạnh, biết đâu họ sẽ chỉ coi tôi như một tên tù khổ sai chẳng ẩn náu được vào đâu, nên phải đến với họ? Người ta đồn là nước Pháp bị chia ra làm hai, một bên theo Pétain và bên kia theo De Gaulle. Sao một thống chế pháp lại không biết đâu là danh dự và quyền lợi của nước Pháp nhỉ? Nếu tôi tham gia các lực lượng tự do sau này, tôi có phải bắn vào những người Pháp không?

Ở đây thật là khó, rất khó tạo cho mình một chỗ đứng tạm chấp nhận được. Guittou, Julot và Louis nhỏ không phải là những thằng đần, mà họ vẫn làm việc để kiếm năm đô-la một ngày. Trước hết, tôi phải tập sống tự do đã. Từ năm 1931 – bây giờ là 1942 – tôi là tù nhân. Tôi không thể giải quyết được những ẩn số trong ngày tự do đầu tiên. Tôi không còn biết có những vấn đề gì được đặt ra cho một người muốn tạo cho mình một chỗ đứng trong cuộc sống. Tôi chưa bao giờ làm việc bằng tay của mình. Tôi chỉ là một anh thợ điện quèn. Tôi chỉ tự hứa với mình một điều duy nhất: sống sao cho sạch sẽ, ít ra cũng sạch sẽ nhất trong khuôn khổ đạo đức của riêng mình.

Tôi về đến nhà thì đã mười bốn giờ.

– Thế nào Papi, lần đầu tiên hít không khí tự do khoái chứ? Cậu đi chơi vui hả?

– Hay lắm, Guittou ơi, tôi cứ quanh đi quẩn lại mãi trên các đường phố ở vùng ngoại ô lớn này.

– Anh có gặp bọn Tàu không?

– Không.

– Họ ở ngoài sân. Các bạn anh rất tháo vát. Họ đã kiếm bốn mươi đô-la và họ nhất định bắt tôi phải nhận hai mươi đô. Tất nhiên, tôi không chịu. Anh ra mà xem.

Quých đang thái một cây bắp cải cho con heo của anh ăn. Anh cụt đang kỳ cọ con lừa. Nó cứ đứng yên, có vẻ thích thú lắm.

– Thế nào Papillon?

– Tốt, còn các anh ra sao?

– Chúng tôi thích lắm, chúng tôi đã kiếm được bốn mươi đô-la.

– Các anh làm gì?

– Chúng tôi đi từ ba giờ sáng về vùng quê với một người đồng hương để anh ta chỉ dẫn cho. Anh ta mang theo hai trăm đô-la. Với số tiền ấy, chúng tôi mua cà chua, rau sà-lách, cà tím, nghĩa là các loại rau tươi và xanh. Vài con gà, trứng và sữa dê. Chúng tôi mang ra chợ ở gần bến tàu và thoạt tiên chúng tôi bán cho người ở đây, bán lẻ ít một, sau bán cho thủy thủ Mỹ. Họ bằng lòng về giá cả và họ bảo tôi là ngày mai, tôi không phải vào chợ nữa, tôi cứ đợi ở cổng trước bến. Họ sẽ mua tất cả cho. Tiền đây. Anh là người chỉ huy, anh cầm lấy tiền.

– Quých, anh biết là tôi cũng có tiền, tôi không cần đến món tiền này.

– Anh cứ giữ lấy. Nếu không, chúng tôi không làm việc nữa.

– Các anh hãy nghe tôi. Người Pháp có năm đô-la là sống được rồi. Chúng ta mỗi người cũng lấy năm đô-la để riêng cho mình, năm đô-la góp tiền ăn. Còn lại ta cất đi để trả nợ cho đồng hương các anh số hai trăm đô-la mà họ cho anh mượn.

– Đồng ý.

– Ngày mai, tôi muốn đi với các anh.

– Không, anh cứ ngủ. Nếu anh muốn, bảy giờ sáng anh tìm chúng tôi trước cổng bến tàu.

– Được.

Mọi người đều vui vẻ. Trước tiên, chúng tôi thấy đã kiếm sống được, không còn là gánh nặng cho các bạn. Sau Guittou và hai anh kia, họ tuy tốt thật, nhưng họ cũng phải lo không biết bao nhiêu lâu nữa chúng tôi mới có thể tự đi kiếm sống được.

– Để ăn mừng việc làm phi thường này của bạn anh, Papillon ơi, chúng ta phải uống hai lít rượu.

Julot đi một lát thì về, mang theo rượu mía trắng và đồ nhắm. Một giờ sau, chúng tôi uống rượu như ở Marsille. Rượu vào lời ra, và những tiếng cười vui đời vang lên ròn rã hơn thường lệ. Những người Ấn hàng xóm nghe nói ở bên nhà người Pháp có tiệc cũng sang chơi tự nhiên, có ba người đàn ông và hai cô gái. Họ mang những xiên thịt gà và thịt dê được tẩm rất nhiều tiêu ớt. Hai cô gái đẹp lạ thường, cả hai mặc toàn trắng, đi chân đất, cổ chân trắng đeo vòng bạc. Guittou nói với tôi:

– Cẩn thận, con gái trinh nguyên cả đấy. Anh đừng vì thấy họ để ngực trần dưới tấm voan mỏng trong mà ăn nói sàm sỡ với họ. Đối với họ thế là tự nhiên. Tôi thì không sao, tôi già rồi. Hồi mới tới đây, Julot và Louis nhỏ đã thử bờm sơm chút đỉnh, cả hai đã lãnh đủ. Các cô này không chịu sang đây từ lâu rồi.

Hai cô gái Ấn Độ này đẹp tuyệt trần. Vết xâm giữa trán làm cho cả hai có một vẻ gì kỳ ảo. Hai cô nói chuyện tử tế với tôi, và với vốn liếng tiếng Anh ít ỏi của mình, tôi cũng hiểu rằng hai cô hoan nghênh việc tôi đến thành phố George này. Đêm nay, Guittou và tôi đã đi vào trung tâm thành phố. Đến đấy tưởng như đi vào một nền văn minh khác, hoàn toàn xa lạ với nơi chúng tôi sống. Thành phố đông nghẹt người. Da trắng, da đen, người Ấn Độ, Trung Hoa, quân nhân và lính thuỷ mặc quân phục cùng một số thủy thủ các thương thuyền. Rất nhiều quán rượu, tiệm ăn, tiệm giải khát và hộp đêm với ánh đèn gay gắt làm đường phố sáng như ban ngày.

Sau buổi xem phim (lần đầu tiên trên đời tôi được biết phim màu, loại có cả tiếng nói nữa), còn đang ngây ngất với cái mùi đời mới được hường đó, tôi đi theo Guittou vào một quán rượu rất lớn. Hơn hai mươi người pháp chiếm một góc phòng. Họ uống “Cu ba tự do” (rượu cồn pha Coca cola).Tất cả những người này đều là tù vượt ngục, dân anh chị cả. Có người đã mãn hạn, được thả rồi nhưng còn bị “quản thúc” tại chỗ. Đói khổ không có việc làm; lại bị dân chính quốc và cả dân địa phương Guyan khinh rẻ, họ đã tìm đến một xứ sở mà họ cho là sẽ sống khá hơn. Nhưng ở đây họ vẫn rất cực, họ kể lại vậy.

– Tôi vào rừng chặt củi cho John Fernandaz lấy hai đô la rưỡi một ngày

– Tháng nào tôi cũng về thành phố George chơi tám ngày. Tôi tuyệt vọng rồi.

– Còn anh?

– Tôi sưu tầm bướm. Tôi vào rừng săn bướm và khi có được một lô kha khá những con bướm các loại, tôi xếp chúng vào một cái hộp kính rồi đem bán cả bộ sưu tập.

Có người đi bốc dỡ hàng ở bến cảng. Ai cũng làm việc không chỉ vừa đủ ăn. “Cực đấy nhưng được tự do, họ nói thế. Tự do quý lắm”.

Tối nay, có một người tù biệt xứ tên là Faussarđ đến thăm chúng tôi. Anh mời tất cả cùng uống. Anh làm trên một chiếc tàu Canađa chở bốc-xít (bị trúng ngư lôi ở cửa sông Demerara). Anh sống sót và được trợ cấp đắm tàu. Thủy thủ đoàn chết gần hết. Anh may mắn lên được xuồng cấp cứu. Anh kể lại rằng chiếc tàu ngầm Đức đã nổi lên mặt nước và nói chuyện với những người còn sống sót sau khi tàu đắm. Chúng hỏi có bao nhiêu tâu còn đậu ở bến chờ được xếp bốc-xít và sắp rời cảng. Tất cả đều trả lời là không biết, thằng cha hỏi họ liền cười và nói: “Hôm qua, tôi còn xem chiếu bóng ở rạp này rạp nọ trong thành phố George. Các anh coi đây, tôi còn giữ được nửa tám vé vào cửa đây này”. Rồi chỉ vào áo vét ngoài, hắn lại nói: “Bộ quần áo này cũng mua ở thành phố George đấy”. Có những người hoài nghi kêu là chuyện bịa nhưng Faussard nhất định bảo là đúng như vậy thật. Chiếc tàu ngầm còn báo trước cho những người đắm tàu biết là tàu nào sẽ đến vớt họ. Về sau đúng chiếc tàu ấy đã đến đón họ thật.

Ai cũng nói chuyện mình.Tôi và Guittou ngồi cạnh một ông già dân Pa ri, ở Khu Chợ. Ông ta nói tên ông là Louis Nhỏ ở đường Lombards.

– Anh bạn Papillon ơi, tôi nghĩ ra một mẹo để chẳng làm gì mà vẫn sống được. Hễ trên báo ở mục “hy sinh vì vua” hay “vì nữ hoàng” (tôi cũng chẳng rõ nữa), có tên một người Pháp, là tôi tìm đến một cửa hàng bán mộ chí bằng đá, thuê chụp một tấm hình có tôi đứng bên một tấm bia có sơn tên tàu, ngày tàu đắm và tên người Pháp nọ. Sau đó tôi đến các biệt tự sang trọng của người Anh, tôi nói là họ phải góp tiền xây mộ cho người Pháp kia đã hy sinh cho nước Anh để lưu lại làm kỷ niệm tại nghĩa trang. Cho đến tuần vừa qua, có một thằng ngốc người Bretagne được đăng là chết trong một vụ đắm tàu vì trúng ngư lôi, lại sống nhăn răn ra mà trở về. Thằng cha ấy đi thăm mấy bà, đúng là những người tôi đã quyên năm đô-la để xây mộ cho hắn. Thằng cha đi đâu cũng réo lên là nó còn sống sờ sờ ra đấy, còn tôi thì chẳng làm tấm bia nào cả. Phải kiếm cách khác để sống thôi, vì với tuổi tôi tôi không làm gì nổi rồi.

Rượu vào ai cũng lớn tiếng kể đủ các chuyện bất ngờ nhất, tưởng ở đây chỉ có chúng tôi biết tiếng Pháp. Một người kể :

– Tôi làm búp bê và tay ghi- đông xe đạp bằng balata. Chẳng may mấy con bé để quên búp bê ở ngoài vườn dưới nắng, thế là búp bê chảy ra, hay rúm ró lại. Anh tưởng tượng khi tôi quên khuấy là mình đã bán ở đường phố nào, thì chuyện rùm beng đến đâu không. Đã một tháng nay, ban ngày tôi không dám đi đâu đến nửa cái thành phố George này. Xe đạp cũng vậy, thằng nào đi xe ngoài nắng, khi lấy xe là tay bị dính chặt vào tay lái làm bằng balata mua của tôi.

Một người khác kể:

– Còn tôi, tôi làm roi ngựa, có gắn đầu đàn bà da đen, cũng bằng balata. Với thủy thủ Anh, tôi nói tôi đã thoát chết ở trận Mers-el-Kebir*(*Mers-el-Kebir là một thành phố cảng của Algérie còn là thuộc địa Pháp hồi đại chiến thế giới lần thứ hai. Lúc Pétan đầu hàng Đức, có một hạm đội Pháp bỏ neo ở quân cảng Mers-el-Kebir đã không chấp nhận cả hai đề nghị của hạm đội Anh ở Địa Trung Hải, hoặc chiến đấu chống phát xít Đức, hoặc phải để hải quân Anh tước khí giới để khỏi rơi vào tay bọn Đức. Các tàu Pháp không chịu, hải quân Anh đã nổ súng ngày 3.7.1940 đánh chìm các tàu Pháp ở đó làm chết 1297 thủy thủ Pháp – ND) nên họ phải mua cho tôi vì nếu tôi sống sót được, điều ấy không phải là lỗi của họ. Mười người thi có đến tám người đã mua.

Tôi khoái những kẻ đầu trộm đuôi cướp hiện đại, nhưng đồng thời cũng thấy rằng kiếm được miếng ăn quả là gian nan.Có người mở máy thu thanh ở quầy rượu: De Gaulle đang đọc lời kêu gọi. Tất cả đều nghe tiếng nói của Pháp đang từ London hiệu triệu người Pháp sống tại các thuộc địa và đất hải ngoại. Lời kêu gọi của De Gaulle thống thiết làm mọi người im phăng phắc lắng nghe. Bỗng, một tay anh chị đã quá chén đứng phắt dậy nói:

– Mẹ kiếp. Nói nghe được lắm, các bạn ơi. Thế là tự nhiên, tớ học được tiếng Anh, tớ hiểu hết tất cả những gì cái lão Churchill đó nói.

Mọi người cười phá lên, chẳng ai thiết vạch ra cho tay ấy biết hắn lầm cả.

Đúng là trước tiên tôi phải tìm cách kiếm sống, và qua những người khác, tôi thấy việc đó không dễ chút nào. Tôi không lo mấy. Từ năm 1930 đến 1940, tôi đã hoàn toàn không còn trách nhiệm với mình và cũng không phải cho lấy lòng ai. Một con người bị giam cầm lâu như vậy, không phải lo việc ăn uống, lo chỗ ở, lo chuyện may mặc, một con người đã bị kẻ khác điều khiển, xoay tới xoay lui, không được tự ý làm bất cứ việc gì phải tuân theo như máy đủ các mệnh lệnh linh tinh nhất mà không được suy nghĩ gì. Con người như vậy chỉ trong vài tuần bỗng rơi tõm vào một thành phố lớn, rồi phải tập lại cách đi trên hè phố mà không xô đẩy ai, qua đường mà không bị xe cán, thấy người khác hầu hạ việc ăn uống của mình, nghe theo lệnh của mình, con người ấy phải tập lại cách sống. Chẳng hạn, người ấy có những phản ứng bất ngờ. Giữa những dân anh chị này, người thì được phóng thích, kẻ bị đi đày đã vượt ngục, nói tiếng Pháp thỉnh thoảng lại pha vài tiếng Anh hay tiếng Bây Ban Nha, tôi dỏng tai nghe chuyện họ kể. Bỗng nhiên, trong cái quán rượu Anh này tôi muốn đi tiểu. Vậy mà, thật không sao tưởng tượng nổi, chỉ thoáng qua thôi, tôi định tìm giám thị để xin phép đi. Chỉ thoáng qua rất nhanh, nhưng nhận ra điều đó, tôi thấy nực cười, Papillon ơi, bây giờ mi không phải xin phép ai khi muốn đi tiểu hay làm bất cứ việc gì.

Ở rạp chiếu bóng cũng vậy, khi cô nhân viên tìm chỗ cho chúng tôi ngồi, tôi thoáng có ý muốn nói với cô ta: “Xin cô cứ để mặc tôi, tôi chỉ là một tên tù không đáng phải bận tâm đâu”, đi ngoài đường, từ rạp chiếu bóng đến quán rượu, tôi cứ ngoái nhìn phía sau. Guittou vốn biết thói quen đó đã bảo tôi:

– Sao cậu cứ quay nhìn lại phía sau luôn thế? Cậu xem lính có đi theo cậu không chứ gì? Ở đây không có lính đi theo cậu đâu, Papi. Cậu đã để chúng ở lại trại giam rồi.

Theo lối nói hình tượng của dân tù, thì phải trút bỏ bộ cánh của dân tù đi. Còn hơn thế nữa, vì quần áo tù khổ sai chỉ mới là một vật tượng trưng. Không phải chỉ lột bộ cánh là xong, phải rứt ra khỏi tâm hồn và trí óc cái dấu tù được khắc bằng lửa ô nhục.

Một đội tuần tra Anh toàn lính da đen, ăn mặc chừng chạc vào quán rượu. Họ đi từng bàn, hỏi thẻ căn cước. Đến góc chúng tôi ngồi, đội trưởng nhìn kỹ mặt mọi người. Có một khuôn mặt người đó chưa biết, đấy là tôi.

– Xin ông cho xem căn cước.

Tôi đưa giấy cho anh ta. Anh liếc nhìn qua rồi đưa trả tôi ngay, và nói:

– Xin lỗi, tôi chưa được biết ông, thành phố George rất vui mừng được đón tiếp ông.

Rồi anh đi ra. Khi anh ta đã ra hẳn, Paul Savoie nói:

– Bọn cảnh sát ở đây hay tuyệt, những người nước ngoài được họ tin cậy là tù vượt ngục trăm phần trăm. Làm sao chứng minh cho nhà cầm quyền Anh biết được cậu là tù vượt ngục, thế là cậu được tự do ngay tức khắc đấy.

Mãi khuya mới trở về nhà. Mới bảy giờ sáng, tôi đã có mặt ở cổng cảng. Nửa giờ sau Quých và anh cụt đã chở đến một xe ba gác đầy rau tươi vừa hái lúc sáng sớm, lại có cả trứng và vài con gà. Chỉ có hai người thôi. Tôi hỏi người đồng hương đã chỉ dẫn họ cách làm ăn đâu rồi. Quých đáp:

– Hôm qua, anh ta đã chỉ cho tôi, thế là đủ. Bây giờ chẳng cần ai dạy bảo nữa.

– Anh đi kiếm những thứ này ở xa lắm hả?

– Phải đi mất hơn hai tiếng rưỡi. Bọn tôi đi từ ba giờ sáng, bây giờ mới tới đây.

Quých kiếm ngay được trà nóng và bánh tráng, anh như người đã ở đây hai mươi năm rồi. Chúng tôi ngồi bên lề đường, cạnh xe ba gác, ăn uống và chờ khách tới mua.

– Bọn Mỹ hôm qua đã mua, liệu hôm nay có đến không?

– Tôi hy vọng họ sẽ tới, nếu họ không tới, ta bán cho người khác.

– Còn giá cả thì sao? Anh tính thế nào?

– Tôi không nói với họ: Cái này giá bây nhiêu. Tôi hỏi họ: anh trả bao nhiêu?

– Nhưng anh có biết tiếng Anh đâu?

– Đúng, nhưng tôi biết dùng tay chỉ trỏ, dễ lắm.

– Anh nói được tiếng Anh đủ để mua bán, anh làm trước đi, – Quých nói với tôi.

– Được nhưng tôi muốn xem anh làm một mình đã.

Không bao lâu, một chiếc xe jeep lớn được gọi là com-măng-ca tới. Một lái xe, một hạ sĩ quan và hai lính thủy ở trên xe đi xuống, viên hạ sĩ leo lên xe ba gác, xem tất cả các thứ hàng hóa, rau xà lách, cà tím, v.v. sau khi kiểm tra kỹ các món kia, y nắn mấy con gà.

– Tất cả bao nhiêu?

Thế là hai bên bắt đầu mà cả. Tên lính thấy nói giọng mũi. Tôi chẳng hiểu y nói gì. Quých búng búng nói nửa tiếng Tàu nữa tiếng Tây.. Thấy hai bên không ai hiểu được ai, tôi kéo Quých ra một bên.

– Anh mua tất cả hết bao nhiêu?

Anh ta móc túi thấy còn mười bảy đô la

– Một trăm tám mươi ba đô-la, – Quých nói với tôi

– Họ trả bao nhiêu?

– Hình như là hai trăm mười đô-la, tôi thấy chưa đủ?

Tôi tiến về phía viên hạ sĩ, y hỏi tôi có nói được tiếng Anh không. Tôi nói là được chút ít.

– Ông nói chấm chậm nhé, – tôi nói với y.

– Được.

– Các ông trả bao nhiều? Hai trăm mười đô la không được đâu. Phải hai trăm bốn mươi.

Y không chịu. Y giả bộ bỏ đi, quay lại, rồi lại bỏ đi rồi ngồi lên xe jeep, nhưng tôi cảm thấy y đang đóng kịch. Đứng lúc y xuống xe lần nữa thì hai cô bạn Ấn hàng xóm với tôi, vẫn che nửa mặt, đi tới. Chắc các cô đã quan sát cảnh buôn bán của chúng tôi, vì các cô làm như không biết chúng tôi. Một cô leo lên xe ba gác, xem xét số hàng rồi hỏi chúng tôi.

– Tất cả bao nhiêu?

– Tất cả hai trăm bốn mươi đô la, tôi đáp.

Cô ta nói: “Được rồi”. Nhưng tên lính Mỹ đã lấy hai trăm bốn mươi đô-la ra đưa cho Quých và nói với các cô gái Ấn rằng y đã mua những thứ đó rồi.

Các cô bạn láng giềng của tôi cũng không chịu đi mà đứng xem bọn Mỹ bốc hàng trên xe ba gác chất lên com-măng ca. Phút cuối cùng, một tên lính thủy vớ luôn cả con heo, tưởng nó cũng thuộc mớ hàng đã được thỏa thuận bán. Tất nhiên, Quých không chịu để họ bắt heo đi. Thế là bắt đầu một cuộc cãi cọ trong đó chúng tôi không làm sao giải thích nổi cho họ hiểu rằng con heo không ở trong lô hàng đem bán. Tôi cố làm cho các cô gái Ấn hiểu như vậy, nhưng khó quá. Chính các cô cũng không hiểu gì. Bọn lính thủy Mỹ thì không chịu rời heo ra, Quých không chịu trả lại tiền, có lẽ xảy ra đánh lộn mất. Anh cụt đã rút một thanh gỗ xe ba gác ra, thì một xe jeep quân sự đi ngang. Viên hạ sĩ thổi còi. Bọn Quân cảnh đến gần.

Tôi bảo Quých hãy trả lại tiền nhưng anh nhất định không chịu. Bọn lính thủy đã giữ con heo cũng nhất định không trả heo. Quých đứng chắn trước xe díp, không để cho xe đi. Một nhóm khá đông những người hiếu kỳ vây quanh cái cảnh huyên náo này. Bọn quân cảnh Mỹ bênh bọn lính thủy, vả lại, họ cũng chẳng hiểu chúng tôi nói gì. Họ tưởng là chúng tôi định đánh lừa các thủy thủ. Tôi chưa biết xoay xở ra sao thì sực nhớ có ghi số điện thoại Câu lạc bộ Thủy thủ cùng tên anh chàng người Martinique. Tôi đưa cho viên sĩ quan quân cảnh và nói: “Gọi phiên dịch”. Y đưa tôi đến một cái máy điện thoại. Tôi gọi mà may làm sao, tóm được anh bạn theo phái De Gaulle của tôi.

Tôi nhờ anh giải thích cho viên sĩ quan quân cảnh hiểu rằng đấy là con heo đã được thuần hóa, nó như con chó của Quých, rằng chúng tôi đã quên không nói trước với các thủy thủ là nó không thuộc vào lô hàng đem bán. Sau tôi đưa ống nghe cho viên sĩ quan quân cảnh. Chỉ ba phút sau là y hiểu cả. Tự tay y cầm con heo đưa trả Quých, làm anh ta sung sướng quá, ôm nó vào lòng và vội đưa nó lên xe ba gác ngay. Sự việc đã chấm dứt vui vẻ, và tốp lính Mỹ cười như nắc nẻ. Ai đi đường người nấy, và thế là xong.

Buổi tối ở nhà, chúng tôi cảm ơn các cô bạn Ấn Độ. Mấy cô cũng cười rất dữ về chuyện này. Chúng tôi ở Georgetown đã được ba tháng. Hôm nay, chúng tôi về ở phần nhà của các bạn Ấn Độ nhượng cho chúng tôi. Hai phòng sáng sủa rộng rãi, một phòng ăn, một bếp nấu ăn nhỏ đun than và một cái sân rộng mênh mông, trong góc có mái tôn để gia súc trú. Chiếc xe ba gác và con lừa cũng có chỗ chu đáo. Tôi được ngủ một mình một giường to có nệm ấm. Hai anh bạn Tàu ở phòng bên, mỗi người một giường riêng. Chúng tôi còn một cái bàn và sáu ghế tựa cùng bốn ghế đẩu. Trong bếp có đủ dụng cụ nấu nướng. Sau khi cám ơn Guittou và các bạn về nhà chúng tôi, như lời Quých nói. Trước cửa sổ phòng ăn nhìn ra đường chễm chệ chiếc ghế phô-tơi quà tặng của các cô bạn Ân.Trên bàn ăn, trong bình thủy tinh, có cắm hoa tươi do Quých mang về. Cảm giác có căn nhà riêng đầu tiên của mình, xoàng xĩnh nhưng sạch sẽ, căn nhà sáng sủa tinh tươm, kết quả đầu tiên của ba thằng cùng kiến ăn chung, làm tôi tin tưởng vào bán thân và vào tương lai.

Mai là chủ nhật, không có chợ, vậy là chúng tôi được tự do cả ngày. Ba chúng tôi quyết định nấu một bữa mời Guittou và các bạn anh, mời cả các cô bạn Ấn Độ với mấy người anh, em của họ. Khách danh dự là bác ba Tàu đã giúp Quých và anh cụt, đã tặng hai người chiếc xe ba gác với con lừa, lại còn cho chúng tôi mượn hai trăm đô-la để khởi đầu chuyện buôn bán của chúng tôi. Bác ta sẽ thấy trên đĩa đặt trước mặt bác, một cái phong bì trong có hai trăm đô la, và một tấm giấy của cả ba chúng tôi cảm ơn bác, viết bằng chữ Hán.

Sau con heo mà anh yêu dấu, Quých dành tất cả tình bạn của anh cho tôi. Anh luôn luôn chăm chút tôi từng ly từng tí. Trong ba người chúng tôi, tôi là người ăn mặc tươm tất nhất, và đi đâu anh cũng thường mang về cho tôi một cái áo sơ mi, một chiếc cà vạt hay một cái quần dài. Anh mua những thứ dó bằng tiền riêng của anh. Mỗi ngày cả ba chúng tôi kiếm được từ hai mươi lăm đến ba mươi đô la cũng chẳng là bao, nhưng chúng tôi hài lòng vì thấy đã mau chóng tự kiếm sống được. Không phải lúc nào tôi cũng đi mua hàng với hai anh, tuy tôi đi thì mua được rẻ hơn.

Bây giờ tôi chuyên bán hàng, nhiều lính thủy Mỹ và Anh được cử lên bờ để mua hàng cho tàu của mình, đã quen biết tôi. Chúng tôi nói chuyện giá cả với nhau rất tử tế, không nóng nẩy. Có một gã cao lớn phụ trách bếp ăn của sĩ quan Mỹ, một thằng Mỹ gốc Ý, chỉ nói với tôi bằng tiếng Ý. Nó sung sướng ra mặt khi thấy tôi trả lời bằng tiếng mẹ đẻ của nó và chỉ mặc cả cho vui. Cuối cùng, nó mua với giá tôi đòi từ khi bắt đầu gặp nhau.

Chừng tám giờ rưỡi đến chín giờ sáng, chúng tôi đã về nhà. Cả ba chúng tôi ăn một bữa nhẹ rồi anh cụt và Quých đi nằm, còn tôi sang tìm Guttou, hay các cô láng giềng sang chơi bên tôi. Việc nhà chẳng có mấy, chỉ quét nhà, giặt đồ, làm giường, dọn dẹp nhà cho sạch sẽ, hai chị em hàng ngày làm việc đó cho chúng tôi rất chu đáo mà chẳng lấy bao nhiêu, có hai đô la mỗi ngày. Tôi đã biết đầy đủ thế nào là tự đo, không còn phải kinh hoàng lo nghĩ đến tương lai nữa.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.