NĂM PHÚT SAU tôi đã lại đứng ở hiên nhà chị Simone, nhấn chuông cửa. Chị đi ra, mặt đỏ bừng, cau mày.
“Ồ! Em hả,” chị nói, nét cau có đã giãn ra một chút. “Vào đi, Nancy. Chị cứ tưởng là cảnh sát chứ. Chị gọi cho họ ngay trước khi gọi em mà.”
“Chắc là họ sẽ đến ngay thôi,” tôi tế nhị nói. Bây giờ nói sự thật thì có ích gì, rằng cảnh sát trưởng McGinnis của sở cảnh sát River Heights không phải lúc nào cũng vội vã đến ngay đâu, trừ phi vụ án đó có thể cho ông ấy một cái tít giật gân trên tờ Chicago. “Trong khi chờ đợi, chị có muốn kể em nghe chuyện gì đã xảy ra không?”
“Dĩ nhiên rồi.” Simone ra hiệu cho tôi vào trong nhà. “Vào đây, chị sẽ giới thiệu em với các bạn của Pierre. Bọn nó có thể giải thích tất cả giùm chị.”
Tôi theo chị vào phòng khách. Nơi này trông chẳng giống hiện trường một vụ án cho lắm. Tôi không thấy có gì xáo trộn so với vài giờ trước cả.
Tất nhiên, trừ một thứ. Khung thủy tinh đựng quả trứng Faberge đặt trên bệ lò sưởi đã bị mở tung, bên trong trống rỗng.
“Chị không dọn dẹp gì sau khi phát hiện quả trứng biến mất chứ?” tôi hỏi.
Simone lắc đầu. “Bọn chị chưa đụng vào bất cứ thứ gì hết,” chị nói. “Hình như quả trứng là thứ duy nhất thu hút tên trộm, em ạ. Chứ ngoài ra thì chẳng còn gì khác trong phòng này có vẻ đã bị sờ đến cả.”
“Thú vị thật,” tôi nói.
Vừa lúc đó chợt có tiếng nói từ phía nhà bếp đi đến. Pierre bước vào phòng, theo sau là ba thanh niên khác.
“Nancy!” Pierre kêu lên ngay khi vừa thấy tôi. “Thật mừng là bạn ở đây. Cho phép tôi giới thiệu: đây là Jacques, Thèo, và René.”
Pierre lần lượt chỉ vào từng người một. Jacques cao và mảnh khảnh, mái tóc nâu nhạt với một khuôn mặt khá thu hút hơi có nét trầm tư. Thèo thấp hơn, tóc đen, vai rộng. René thì có đôi mắt xanh long lanh, tóc cũng đen như Thèo nhưng xoăn xoăn.
“Rất vui được gặp các bạn,” tôi nói trong khi các chàng trai lịch sự chào mình. “Chào mừng các bạn đến với River Heights. Thật tiếc là các bạn lại đến phải lúc không may như thế này.”
“Thật ra, bọn nó đã đến được một lúc trước khi xảy ra chuyện đấy chứ,” Simone nói. “Các em vừa rời khỏi vài phút là bọn nó đến nơi.”
“Đúng vậy, và chúng tôi cảm thấy thật kinh khủng, chúng tôi nghĩ mình cũng phải chịu một phần trách nhiệm trong chuyện này,” Jacques sốt sắng nói bằng tiếng Anh, giọng hơi nhẹ.
“Sao lại thế?” tôi hỏi.
Thèo nhún vai. “Vì chúng tôi quên khóa cửa.” Giọng cậu này nghe nặng hơn, nhưng lời nói và cử chỉ cũng đầy lo âu như Jacques. “Pierre cậu ấy muốn dẫn chúng tôi đi xem thị trấn. Tất cả chúng tôi đều quá háo hức, thế nên chẳng kịp cất hành lý lẫn khóa cửa nẻo lại cho đàng hoàng.”
“Ừ, là lỗi của tôi,” Pierre thở dài. “Cô Simone lúc nào cũng nhắc tôi phải khóa cửa. Có thể đây chỉ là một thị trấn nhỏ, nhưng kẻ xấu thì có chừa chỗ nào đâu. Nhưng tôi chỉ là… không thể nhớ là phải khóa cửa lại. Thị trấn này – sau Paris, trông quá… quá tốt.”
Tôi thở dài. “Tin tôi đi, ngay tại River Heights nhỏ bé ngái ngủ này, chúng tôi cũng có những tên tội phạm như bất kỳ nơi nào.” Thật ra, đôi khi còn nhiều nữa là khác, nhưng tôi không muốn cố giải thích làm gì. Simone, Pierre và các bạn của họ hẳn đã thấy đủ tồi tệ rồi.
“Đáng lý cô cũng không nên để mấy đứa lại một mình sớm như vậy,” Simone nói. “Chỉ vì cô quá háo hức chuẩn bị cho buổi tiệc tối mai thôi. Cô muốn đi mua sắm cho sớm sủa mà.”
Tất cả các anh chàng người Pháp đồng loạt cất tiếng cam đoan với Simone rằng chị chẳng có lỗi gì hết, và rằng tất cả lỗi đều thuộc về họ cả. Trong khi đó, tôi nhìn quanh phòng một cách cẩn thận hơn. Tôi bước về phía lò sưởi, thận trọng không để mình chạm hay va vào bất cứ vật gì. Làm rối hiện trường vụ án trước khi cảnh sát đến là việc tôi không muốn làm chút nào. Nhưng thật không thể tin được là chẳng có thứ gì khác bị đụng đến.
“Mấy chiếc vòng tay này,” tôi đột ngột nói, cắt ngang lời mọi người và chỉ vào những món trang sức mà lúc chiều Bess đã hết sức ngưỡng mộ. Chúng đang nằm trên bàn cùng những đồ trang trí nho nhỏ khác. “Hình như chúng cũng có giá trị, phải không chị?”
“Ừ, chị cho là vậy,” Simone đáp. “Mấy thứ ấy là kim cương và ngọc thật nên ít nhiều gì cũng có giá. Nhưng với chị, chúng có giá trị tinh cảm gia đình là chính nên chị mới bày chúng ở đây.”
“Tại sao tên trộm không vớ lấy một vật như thế nhỉ?” Tôi thì thầm, tự nói với mình hơn là cho những người khác nghe. “Nhét vào túi hay đâu đó thì quá dễ…” Tôi liếc nhìn quanh và thấy còn nhiều món giá trị khác như tượng nhỏ, tranh sơn dầu, đồ thủy tinh, và nhiều thứ nữa. Tại sao tên trộm lại chỉ lấy mỗi quả trứng thôi?
“Một câu hỏi hay đấy,” René nghe được nhận xét của tôi. “Có lẽ tên trộm đã bị giật mình lúc bọn này quay lại.”
“Chính xác thì các bạn quay lại đây khi nào?” tôi hỏi. “Kể tôi nghe mọi việc đã xảy ra được không? Các bạn rời khỏi phòng này trong bao lâu, khi nào thì phát hiện ra vụ trộm, và những chuyện khác nữa?”
“Ồ, được chứ,” Pierre nói, dù trông có hơi ngạc nhiên trước yêu cầu của tôi. Tôi đoán đó là do cô Simone chưa cho cậu ta biết danh tiếng thám tử của tôỉ. “Các bạn tôi đến sau khi các bạn ra về khoảng mười lăm phút, như cô Simone nói rồi đấy. Chúng tôi đi một vòng xem xung quanh ngôi nhà, rồi cô Simone gần như là chạy đi mua sắm ngay lập tức. Các bạn tôi đem hành lý lên nhà, rồi cả bọn ra ngoài đi loanh quanh, khoảng một tiếng hoặc hơn một chút. Khi Jacques và René cùng quay về đây thì cô Simone vừa về tới và phát hiện quà trứng bị mất. Thèo và tôi thì vẫn ở bên ngoài ngắm sông, nghe René gọi là cũng chạy vội về ngay, và rồi nghe kể chuyện đã xảy ra.”
“Đúng vậy,” Simone nói. “Ngay tức thì chị phát hiện ra quả trứng đã mất, vì ánh nắng rọi ngay qua cửa sổ và phản chiếu cánh cửa khung kính mở toang.”
“Em hiểu rồi,” tôi nghĩ về chi tiết này trong chốc lát. “Và trước đó nó có khóa không ạ?”
“Có,” Simone nói. “Cái khung được gắn dính vào tường. Nhưng tìm chìa khóa cũng chẳng khó khăn gi, chị nhét nó ngay dưới cái đồng hồ kia thôi.” Chị chỉ một cái đồng hồ đặt trên bệ lò sưởi.
Tôi bước gần về phía đó để quan sát cái đồng hồ kỹ hơn thì chợt thấy lối đi dẫn vào một căn phòng khác cửa đang để ngỏ. Trong phòng có một cái bàn bị lật ngược lại.
“Đó cũng do tên trộm làm phải không?” tôi chỉ tay hỏi.
Pierre gật đầu. “Chắc vậy,” cậu nói. “Thấy không, cái bàn nằm gần cửa sau. Tôi nghĩ hắn nghe tiếng bọn tôi quay lại và trong lúc vội vàng tẩu thoát đã va phải cái bàn đó.”
“Ừ, và nếu không phải René cứ luôn mồm như vậy thì hẳn là bọn tôi đã nghe thấy tiếng động rồi,” Thèo nháy mắt đùa, nói thêm.
Jacques hơi cau mày. “Không phải lúc đùa đâu, Thèo,” cậu này ôn tồn nói. “Bạn chúng ta vừa bị mất một báu vật gia truyền đấy. Quả trứng đỏ đã ở cùng họ qua bao nhiêu thế hệ rồi, biết không?”
“Có, có biết.” Thèo buồn rầu nói. “Tôi xin lỗi, Simone và Pierre.”
“Không cần phải xin lỗi đâu, Thèo,” Simone nói. “Chỉ là món đồ bị mất thôi mà. Ít nhất lúc xảy ra trộm không có ai ở đây, không thì đã có thể bị thương rồi. Như vậy sẽ tệ lắm, tệ hơn mất đồ rất nhiều.”
Chị thở dài, trông buồn rầu và vô vọng. “Đừng lo chị ạ,” tôi nhẹ nhàng nói, bước lại gần chị hơn khi đám thanh niên bắt đầu nói chuyện riêng với nhau. “Em sẽ giúp chị tìm lại quả trứng bằng tất cả những gì em có thể làm.”
“Có thể tìm được sao?” trông Simone rất ngạc nhiên, “Ồ, Nancy, chị biết em có nói em là thám tử, nhưng vụ này… Làm sao hy vọng được chứ em? Cả cảnh sát chị cũng không chắc họ có giúp gì được hay không nữa là… Có rất nhiều nơi để nhanh chóng tẩu tán một vật như thế…” chị lại thở dài.
Tôi biết Simone có lý. Nếu một tên trộm chuyên nghiệp đã chôm quả trứng Faberge, chắc chắn bây giờ nó đang trên đường đến một nơi kiểu như điểm bán đấu giá chợ đen rồi. Nhưng giác quan thứ sáu nho nhỏ của tôi đang hoạt động, và khiến tôi nghĩ rằng mình cần phải điều tra thêm một chút để tìm đáp án cho một số câu hỏi. Vì một lẽ, làm thế nào mà một tên trộm chuyên nghiệp lại biết về quả trứng gia truyền của Simone? Và với một kẻ chuyên nghiệp như vậy, sao hắn lại bỏ qua những thứ khác cũng rất dễ bán được như mấy món trang sức kia chứ? Thật vô lý. Và một khi có điều gì vô lý, tôi biết điều vô lý đó thường có nghĩa là câu chuyện còn nhiều vấn đề hơn những gì ta quan sát được.
“Chị đừng lo,” tôi trả lời. “Theo em thì vẫn còn cơ hội tìm lại quả trứng.”
Tôi để ý thấy Jacques đã quay khỏi các bạn mình và đang lắng nghe tôi nói với Simone. Trông cậu ta cũng rất ngạc nhiên, nhưng không nói gì cả, rồi lại nhanh chóng quay đi chỗ khác.
Simone mỉm cười với tôi, dù trông chị vẫn chẳng có thêm bao nhiêu hy vọng. “Sao cảnh sát lâu đến thế không biết?” chị liếc nhìn đồng hồ. “Chị gọi cho họ cách đây gần cả tiếng rồi còn gì…”
“Em xin lỗi! Ned à, em rất rất xin lỗi!” tôi thốt lên như người hết hơi khi hộc tốc chạy vào tiền sảnh rạp chiếu phim của River Heights. Chẳng khó khăn gì để tìm bạn trai tôi, Ned Nickerson, bởi anh là người duy nhất ở trong tiền sảnh, ngoài người soát vé và một cô gái độ tuổi thiếu niên đang làm ở quầy bán bắp. Cũng chẳng phải ngạc nhiên bởi vì bộ phim chúng tôi định xem đã chiếu được mười phút rỏi.
Ned mỉm cười, để lộ lúm đồng tiền thật đáng yêu, khi anh rời khỏi một trong những chiếc ghế nệm dài ở tiền sảnh để đứng dậy đón tôi.
“Không sao,” anh vừa nói vừa lùa tay vào mái tóc nâu của mình. Đôi mắt cũng màu nâu của anh hấp háy tinh nghịch. “Anh nghĩ dù bất cứ thứ gì giữ được chân em thì chắc hẳn đều thú vị hơn bộ phim… nếu không, tên em đã chẳng phải là Nancy Drew.”
Tôi cười to. “Ôi, anh nói đủng rồi đó,” tôi nói. “Em sẽ kể hết cho anh nghe. Vì tụi mình đã lỡ mất phần đầu của bộ phim, nên em sẽ đãi anh bữa tối để bù lại, được không?”
“Quá được!” Ned nói ngay, dù đã xơi hết một hộp bắp rang – bằng chứng là cái hộp đựng bắp rỗng không đang nằm ở chiếc ghế bên cạnh. Đỏ là một trong những điểm đặc biệt của Ned: ngoài sự kiên nhẫn và hiểu biết ra, anh lúc nào cũng sẵn sàng với chuyện ăn uống. Anh và George rất giống nhau về khoản này. Cũng như George, niềm đam mê ăn uống hình như chưa bao giờ ảnh hưởng đến tạng người cao gầy lêu nghêu của anh, dù bà Hannah vẫn thường nói là phần ăn của anh đủ nuôi cả một đội quân nhỏ chứ chẳng phải đùa.
Chúng tôi ra khỏi rạp và nhắm đến một trong những nơi mà cả hai đều yêu thích: một tiệm sách kết hợp với cà phê có tên là Đọc và Ăn của Susie. Đó là một nơi có mặt tiền hẹp nằm trên đường River, lọt thỏm giữa một cửa hàng quần áo và ngân hàng First Bank của vùng River Heights. Chỗ này khá chật chội nhưng tuyệt vời, mỗi khoảng bề mặt của các bức tường đều được phủ kín bằng những cái kệ cao chất ngất với đủ loại sách, và mỗi tấc vuông giữa những kệ sách ấy là những bàn ghế gỗ có màu sơn sáng không đồng bộ với nhau. Chủ nhân của nó, một chị gái trẻ trung, nhỏ nhắn, tràn trề năng lượng, tên là Susie Lin, luôn giữ cho cả sách lẫn thức ăn được phong phú và thú vị. Điều đó làm cho tiệm trở thành một nơi phổ biến thu hút mọi lứa tuổi cư dân địa phương.
May mà Ned và tôi đến khá sớm nên tiệm vẫn chưa đông lắm, và cả hai nhanh chóng tìm được một bàn trống ở góc xếp sách Phi Hư cấu. Tôi thấy Ned lướt qua các tiêu đề trên kệ. Anh thích đọc bất cứ thứ gì có thể cầm trong tay, và lúc nào cũng luôn tìm kiếm thêm sách mới nữa.
Nhưng thay vì lấy một quyến, anh chuyển sự chú ý sang tôi. “Kể xem nào,” Ned nói thật đơn giản. “Anh có thể kết luận là em đang tìm manh mối của một vụ đặc biệt thú vị. Và anh rút được kết luận ấy chẳng phải vì em đến trễ thôi đâu.”
“Thật à? Ý anh là sao?” tôi ngạc nhiên hỏi.
Thay vì trả lời, anh lại chỉ vào tôi. Tôi liếc nhìn xuống và muộn màng nhận ra rằng mình vẫn mặc cùng một bộ đồ cả ngày hôm nay. Trong lúc vội vã từ chỗ Simone chạy đến rạp chiếu phim, tôi thậm chí còn không kịp về nhà thay quần áo nữa.
Nhưng khác với Bess, Ned không phải là người để ý nhiều đến áo quần, nên tôi nghĩ đó chưa chắc là điều anh đang muốn nói.
Tôi đưa tay vuốt tóc, tự hỏi chẳng lẽ chuyện tôi đã không chải tóc thêm lần nào nữa suốt từ sáng đến giờ lại lộ rõ vậy sao, thì ngón tay bỗng chạm phải một vật gì cứng và có gai.
“Ui!” tôi la lên, giậỉ mạnh vật đó ra. Hóa ra là một cành cây ngắn có gai – có lẽ là một đoạn cành hồng dại đã vướng vào tóc trong lúc tôi săm soi khu vườn um tùm, bên hàng rào hoa hồng sau nhà Simone, lúc chiều. Tôi chỉ hơi ngạc nhiên là Bess đã không phát hiện và gỡ nó ra cho tôi, chứ tôi không biết gì thì cũng chẳng cần phải bàn. Tôi đã có nhiều thứ thú vị ở trong đầu suốt cả buổi chiều hơn là chuyện tóc tai của mình.
Ned cười toe. “Hoặc là Bess đã thuyết phục em diện một kiểu thời trang mới kỳ quái, hoặc là em đã bị xao nhãng bởi một vụ bí ẩn thú vị nào đó, đến nỗi chẳng thèm ngó vào gương lấy một lần.”
“Giả thuyết thứ hai chính xác rồi đấy,” tôi thừa nhận, vuốt nhanh trên tóc xem còn gì đi lạc trên đó không. “Gọi gì ăn đi, rồi em sẽ kể anh nghe hết.”
Ned gật đầu. Susie Lin bước vội về phía chúng tôi với tờ giấy ghi chú trong tay. Chị không chỉ là bếp trưởng mà còn là nữ phục vụ chính ở đây.
Tôi liếc về phía tấm bảng được dựng bên máy đếm tiền, là nơi Susie luôn ghi các món đặc biệt trong ngày. Ngay lập tức, một trong những món đầu tiên đập vào mắt tôi là: bánh bí rán.
“Ồ! tôi nói, chợt nhớ ra một vụ bí ẩn khác đang cần phải điều tra. Trong lúc phấn khích vì vụ trộm ở nhà Simone, tôi hầu như đã quên khuấy luôn vụ phá hoại rau củ. Nhưng giờ tôi lại tự hỏi không biết hai vụ này có liên hệ nào không. Chẳng phải tôi đã để ý đến sự trùng hợp lạ lùng, rằng kẻ đập phá bí và cô cháu Simone đã xuất hiện trong thị trấn cùng một ngày đó sao?
“Chào, Nancy, Ned.” Susie chào chúng tôi bằng giọng nhanh gọn như thường lệ. “Tối nay chị có thể phục vụ hai đứa món gì đây?”
Susie thuộc kiểu người dường như chẳng bao giờ ngừng chuyển động. Đôi lúc chị làm tôi nhớ đến quả bóng trong trò pinball, vì chị cứ di chuyển từ đầu này đến đầu kia trong cái nhà hàng dài và hẹp của mình, hết ghi các món được gọi, đem đồ ăn đến, lại trèo thang để lấy sách trên những ngăn kệ cao.
“Món tôm nghe có vẻ ngon nhỉ, Nancy?” Ned nhận xét khi liếc qua cái bảng ghi các món đặc biệt.
“Nghe ngon đấy,” tôi tán thành. “Nhưng em nghĩ nên ăn thử món bánh bí rán trước đã.”
Mắt Susie mở to, và vung tay mạnh đến nỗi làm bay vèo cây bút đang cầm trong tay. “Bí?” chị kêu to. “Làm ơn đi, đừng bao giờ nhắc đến bí trước mặt chị nữa!”