“CÁI GÌ? ĐÂU?” giọng Simone ngạc nhiên thật sự, chị bước vội đến cạnh tôi – bên cửa sổ. Bess với George cũng tới, và cả bốn người cùng chăm chú nhìn ra khoảnh sân sau bị bỏ hoang. Tôi chỉ tay về phía rất nhiều dây leo trông thật tươi tốt đang bám quanh cái gì đấy giống như một bờ giậu hoa hồng um tùm. Từ những dây leo đó thòng xuống khoảng nửa tá quả xanh hình thuôn.
“Hê! Trông giống bí ngòi quá,” George nói.
“Có lẽ em nói đúng,” Simone nói. “Các em thấy đấy, bọn chị còn chưa ngó ngàng gì được sân vườn nữa là. Đi, ra xem thử nào.”
Chúng tôi theo Simone băng ngang qua bếp ra sân sau. Cũng như sân trước, sân sau dốc về phía bờ sông, cuối sân là một bức tường thấp bằng đá. Ở hai phần ba đoạn đường đến chỗ bức tường ấy là bờ giậu hoa hồng lừng lững, choán ít nhất một nửa bề rộng của mảnh sân.
Mấy chị em nhón gót nhìn qua bờ giậu và thấy cả một vườn rau củ mọc dại. Những cây cà chua mọc rải rác, những cây hành khẳng khiu sắp có củ, và mấy dây bí bò quanh tất cả những cây đó.
“Chắc vài hạt giống từ năm ngoái đã sống sót được qua mùa đông và tự mọc lên,” Bess nhận xét. “Có vẻ như chị sắp có món bí rán rồi đó, Simone!”
“Ừ, nhưng phải tìm được đường đi qua mấy cái gai kia đã!” Simone nói. “Chắc phải nhờ Pierre dọn một lối để đi qua đó mới được.”
“Pierre?” tôi tò mò nhắc lại.
“Bạn gọi tôi à?” một giọng nam vui vẻ đáp lời ngay sau lưng tôi.
Tôi giật nảy mình. Quay người lại, trước mặt tôi là một thanh niên đẹp trai, có lẽ nhỏ hơn Simone khoảng mười tuổi. Anh chàng có nét giống Simone ở đôi mắt sậm màu và hai gò má cao.
“Cháu đây rồi, Pierre,” Simone nói. “Để cô giới thiệu cháu với mấy người bạn mới – Nancy, Bess và George. Còn đây là Pierre, cháu chị. Nó cũng từ Paris tới và sẽ ở lại đây cho tới khi lớp đại học của nó ở Chicago khai giảng.”
Pierre cúi chào. “Rất hân hạnh,” anh chàng nói nặng giọng Pháp, mắt vẫn nhìn Bess chăm chăm. “Tôi thật vinh hạnh mới được gặp những quý cô đáng yêu như thế này.”
George và tôi trao đổi cái liếc rất nhanh cùng một nụ cười đầy hiểu biết. Chúng tôi còn lạ gì việc thấy bọn con trai hóa thành lẩm cẩm ngay khi gặp Bess nữa đâu.
“Hy vọng bạn đang tận hưởng những ngày vui vẻ ở River Heights,” Bess lịch sự mỉm cười đáp lại Pierre. “Đây không phải là thị trấn lớn nhất thế giới, nhưng cũng có nhiều thứ thú vị lắm.”
“Qui, chẳng hạn như một kẻ cướp bí ngòi,” Simone cười, thêm vào. Chị chỉ tay về phía cái cây gần đó. “Mình may mắn có vài dây courgette đang mọc dại trong vườn đấy Pierre. Chứ mọi cây bí khác trong thị trấn đều bị kẻ nào đó phá hết rồi.”
“Đúng vậy.” Tôi nhìn đồng hồ, nhận ra là đã sắp muộn rồi. Chẳng mấy tiếng nữa đã đến giờ tôi hẹn bạn trai mình – Ned Nickerson – đi xem phim, thế nên tôi sẽ phải chạy đi ngay nếu còn muốn điều tra thêm bất cứ điều gì trong hôm nay. “Em vừa nhớ ra là bọn em phải đi bây giờ. Chắc chị cũng có nhiều thứ phải làm đúng không ạ.”
Pierre hơi lúng túng, nhưng vẫn mỉm cười, “Ôi, các bạn phải đi sớm vậy sao?” Cậu chạm vào cánh tay Bess. “Khoan đã, xin các mesdemoiselles hãy vui lòng đồng ý là sẽ sớm quay lại đây nhé? Thật ra, tôi có mấy người bạn thân từ Pháp đang trên đường tới, và tôi biết họ sẽ rất vui nếu được gặp các bạn. Có lẽ ta nên tổ chức một buổi tiệc sau khi họ đến chăng?”
“Một buổi tiệc hả?” George nói, bứt một cọng bí. “Nghe vui đó. Khi nào bạn của cậu đến nơi?”
Simone liếc nhìn đồng hồ. “Chắc là sắp rồi đấy,” chị đáp thay cho cháu mình. “Bọn nó vừa đi thăm mấy người Pháp khác ở dưới hạ lưu sông, bây giờ đang lái xe lên đây. Tất cả chúng ta có thể tụ họp với nhau vào cuối tuần này – à, tối mai được không?”
Tôi gật đầu. “Nghe hay quá,” tôi nói. “Cảm ơn chị!” Tôi thích ý tưởng sẽ được dịp tìm hiểu rõ hơn về những người láng giềng mới của mình. Thậm chí nếu Simone không biết tí gì về vụ phá hoại bí thì chị cũng là một người thú vị và dễ thương. Tôi rất háo hức muốn nghe kể thêm về những đồ vật nước ngoài có trong nhà chị, chưa kể tới việc sẽ được nghe chi tiết hơn, hấp dẫn hơn về lịch sử gia đình Valinkofsky nữa.
“Tuyệt!” Pierre vỗ tay. “Vậy thỏa thuận rồi nhé. Bảy giờ tối mai, được chứ?”
“Chắc rồi,” tôi nói, Bess và George gật đầu. “Nhưng bây giờ bọn này thật sự phải đi thôi. Tôi có hẹn với bạn trai trong mấy phút nữa.”
“Ồ, được rồi,” Simone nói. “Dẫn cậu ấy đến cùng luôn nhé. Cả Bess và George cũng thế nhé.” Chị cười với ba đứa chúng tôi.
“Đúng rồi,” Pierre nói thêm. “Chắc là những quý cô đáng yêu thế này hẳn đều đã có bạn trai, phải không nào?”
Lúm đồng tiền của Bess như càng sâu thêm. “Không hẳn,” nó nói. “Chỉ có Nancy là đứa duy nhất trong bọn hiện đang có bạn trai thôi.”
“Ồ, buồn vậy sao?” Pierre nói, dù nghe chẳng có vẻ gì là buồn cả. “Vậy thì, các bạn tôi và tôi sẽ cố làm đẹp lòng các quý cô.”
“Chắc phải vậy rồi,” Bess nháy hàng lông mi dài tinh nghịch, còn Pierre thì cười hớn hở.
Cả bọn trở ra phố. Thay vì đi theo lối cũ, chúng tôi đi dọc bãi cỏ ngăn cách giữa nhà Simone với cái hàng rào cọc đánh dấu ranh giới với nhà ông Geffington. Tôi tò mò liếc qua hàng rào, tự hỏi không biết có thể thấy chứng cứ gì từ hiện trường vụ án không. Nhưng nếu có thì cũng bị dọn hết từ lâu rồi. Khu vườn của ông Geffington trông đã ngăn nắp đến mức không thể nào ngăn nắp hơn được nữa, như thường lệ.
Tôi nhìn khu vườn um tùm qua vai mình. Liệu ai đó đã núp trong đám cây cối lộn xộn kia, rồi lẻn ra đập phá bí của ông Geffington vào thời điểm thuận lợi chăng? Hay thủ phạm đã lén lút bước xuống mấy bậc thang xi măng dẫn từ lề đường xuống, rồi nhờ bóng tối che chắn mà chạy vòng qua căn nhà ra vườn? Hay chỉ đơn giản là chú Safer đã từ bên vườn của mình bước sang tiêu diệt đám cây quý báu của ông bạn láng giềng?
Khả năng cuối cùng vẫn có vẻ rất khó thuyết phục. Nhưng cả đời tìm tòi giải đáp những vụ bí ẩn đã dạy tôi không bao giờ được xem nhẹ bất cứ phán đoán nào, dù nghe vô lý đến thế nào đi chăng nữa. Đó là một trong những lý do khiến tôi thích công việc thám tử – chẳng có cách gì đoán được một vụ án sẽ hóa ra thế nào cho tới khi đã thu thập đủ mọi chứng cứ, theo dõi tất cả các dấu vết, tìm theo mọi manh mối.
Khi chúng tôi bước tới lề đường, Bess, George và tôi chào tạm biệt những người láng giềng mới. Simone và Pierre đi vào nhà, còn ba đứa tôi bước về phía nhà ông Geffington.
“Anh chàng Pierre có vẻ dễ thương chứ hà?” Bess liếc về phía nhà Simone, bình phẩm.
George khịt mũi. “Chắc rồi, nhưng chị hy vọng mày sẽ gởi cho anh chàng hóa đơn giặt khô quần áo, vì anh chàng đã chảy dãi khắp người mày như vậy.”
Bess đỏ mặt. “ôi, thôi đi,” nó nói. “Cậu ấy chỉ cố tỏ ra thân thiện thôi mà.”
“Vậy sao,” tôi trêu. “Và tôi chắc là bà chẳng thèm để ý thấy cậu ấy duyên dáng thế nào đâu nhỉ. Hay cái giọng Pháp quyến rũ ấy. Hay là cái cách cậu ấy nhìn bà suốt thời gian bọn mình ở đó.”
“Sao cũng được.” Bess chỉ tay về phía nhà ông Geffington khi cả bọn đi ngang qua. “Này, bà không muốn dừng lại xem xét hay làm gì sao? Ý tôi là, có lẽ bây giờ mọi thứ đã được dọn dẹp rồi, nhưng biết đâu vẫn có thể tìm được vài nhân chứng thì sao. Khoai tây còn có mắt, bắp còn có tai cơ mà.”
Tôi rên lên phản đối câu đùa nhạt hoét của Bess. Rõ ràng nó đang cố đổi đề tài nên thôi, tôi cũng chẳng trêu nó nữa. “Không, tôi nghĩ tốt hơn là đi nói chuyện với chú Safer cái đã,” tôi nói. “Chú ấy là đối tượng tình nghi chính – theo như bác G. nghĩ. Chắc chú Safer không làm chuyện đó đâu, nhưng có thể chú ấy đã nhìn hoặc nghe thấy điều gì chăng, và chú ấy sẽ cho tụi mình dấu vết tìm đến thủ phạm thực sự.”
George nhún vai. “Nghe có vẻ là một kế hoạch tốt đấy,” nó nói. “Chỉ cần đừng có đứa nào dại dột hỏi gần đây chú có xem vở kịch nào hay hay không, kẻo chẳng đời nào chuồn được đâu.”
Chúng tôi bước lên những bậc thang dẫn lối xuống sân nhà chú Safer. Không giống như ở hầu hết những ngôi nhà cùng dãy – thường xây bằng đá hoặc xi măng – cầu thang nhà chú Safer được tô điểm bằng những mảnh thủy tinh màu, tạo thành một dãy màu cầu vồng.
Tôi dẫn đầu bước đến cửa trước. Khi tôi nhấn chuông cửa, cả bọn đều nghe vọng ra giai điệu nhè nhẹ của bài Somewhere over the rainbow”[3].
[3] Tạm dịch: “Nơi nào đó phía trên cầu vồng” bài hát trong phim “Phù thủy xứ Oz” được bình chọn là bài hát của thế kỷ 20.
Chẳng mấy chốc có tiếng bước chân về phía chúng tôi. Một giây sau cửa mở tung ra – và kia là chú Harold Safer, với một cái vồ lớn trong tay.