Tên tôi là Sunday Woodcutter, tôi được số phận an bài với một cuộc sống hạnh phúc.
Tôi là đứa con gái thứ bảy của Jack và Seven Woodcutter, Jack là con trai thứ bảy và Seven là người con gái thứ bảy. Ước nguyện của cha là sinh ra một Seven Son, đứa con trai thứ bảy đầy quyền lực, hùng cường và hấp dẫn. Mẹ bảo với cha rằng bảy cô con gái hay bảy đứa con trai, đứa nào sinh đầu tiên cũng được. Jack Junior là con trưởng. Cha đã tự hào và hoan hỉ, phấn khởi và hãnh diện. Ước nguyện của cha đã lịm tắt vào buổi sáng tôi chào đời, rạng rỡ, tươi tắn và khỏe mạnh, là người con gái thứ bảy.
May mắn thay, việc sinh ra đầu tiên không ngăn cản Jack Junior trở thành một thần đồng. Tôi chưa từng biết rõ người anh lớn nhất của mình, nhưng tôi biết huyền thoại về anh ấy. Tất cả những đứa trẻ ở Arilland đều lớn lên dưới cái bóng của Jack, đặc biệt là những người em ruột của anh ấy. Khoảng thời gian nào của tôi cũng bị bao quanh bởi những bài hát tràn đầy cảm xúc và những câu chuyện về thành tích chói lọi của Jack. Một lượng lớn những câu chuyện và bài hát mới tiếp tục được lưu truyền tại miền quê cho tới ngày nay. Tôi đã được nghe tất cả. (À ừ, tất cả ngoại trừ một câu chuyện bị cấm. Tôi vẫn chưa đủ tuổi để nghe nó).
Nhưng tôi biết câu chuyện quan trọng nhất: câu chuyện về sự qua đời của anh ấy, khi anh ấy còn phục vụ trong Đội cận vệ hoàng gia của đức vua. Một ngày nọ, trong cơn phẫn nộ tam bành (theo lời các thi sĩ và người hát rong), anh ấy đã giết chết chú chó cưng của hoàng tử Rumbold. Như một sự trừng phạt, bà tiên đỡ đầu xấu bụng của hoàng tử đã biến Jack Junior thành một con chó lai và buộc anh ấy thế chỗ chú chó con kia. Kể từ đó chẳng ai nghe tin gì về anh nữa.
Mọi người nói gia đình chúng tôi đã chẳng dược như xưa từ lúc ấy. Ước gì tôi có thể thấy cha tôi như miêu tả trong truyện cổ ăn to nói lớn, tự tin và ngoan cố. Bây giờ ông chỉ đơn giản là một người đàn ông khỏe mạnh, trầm lặng, bằng lòng với vị trí của mình trong cuộc sống. Việc cha chẳng ấp ủ lòng trung thành gì với gia đình hoàng tộc của Arilland không phải là một bí mật, nhưng ông không thốt ra một lời nào chống lại họ.
Anh trai thứ hai của tôi là Peter. Người anh thứ ba là Trix. Trix là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được ba tìm thấy giữa những phiến lá vào một ngày mùa đông ở rìa khu Wood trước khi tôi được sinh ra. Mẹ kể lại rằng, tuy Trix không phải là người con trai bà dứt ruột đẻ ra nhưng anh ấy làm cha vui vẻ nhất. Bà đã có quá nhiều con để chăm sóc, còn cần thêm một đứa nào nữa?
Em gái tôi và tôi…
“Cô đang làm gì đấy?”
Sunday dừng lại, ngẩng đầu lên khỏi cuốn nhật kí của mình. Cô đã chọn nơi này vì sự vắng vẻ, tĩnh mịch, bởi con đường mòn ẩn khuất xuyên qua bụi cây thấp dẫn tới những viên đá đổ nát của một cái giếng hoang, chắc chắn cô đã trốn gia đình mình. Và giờ thì, giọng nói cắt ngang dòng suy nghĩ chẳng quen thuộc chút nào. Đôi mắt cô mất mấy giây để định vị, chầm chậm tập trung vào những cái vệt lốm đốm loang lổ của ánh trời chiều chiếu xuyên qua những chiếc lá đang nhảy nhót.
“Xin lỗi?”
Cô đặt một câu thắc mắc lịch sự cho vị khách không quen biết, cố gắng khiến anh ta lộ diện bản thân, liệu anh ta là thực hay chỉ là tưởng tượng, anh ta đã chết hay còn sống, là tiên hay…
“Tôi nói, ‘Cô đang làm gì đấy?’”
Ếch.
Sunday cố ngậm cái miệng đang há hốc của mình lại. Bị bắt gặp bất ngờ, cô nói lắp bắp: “Tôi đang kể chuyện cho chính mình.”
Chú ếch cân nhắc câu trả lời của cô. Chú giữ thăng bằng trên đôi chân sau lốm đốm của mình và chớp chớp đôi mắt lồi to nhìn cô, “Tại sao? Cô chẳng có một ai để kể chuyện cho họ nghe ư?”
Ngoại trừ sự chen ngang, chú vẫn giữ một bầu không khí lịch thiệp đúng mực. Chú ta cũng thông minh đấy chứ, Sunday nghĩ. Chắc hẳn chú ta đã từng là một con người trước khi bị nguyền. Những động vật ở khu Wood từng nói những điều khó hiểu uyên bác và hầu hết đó là sự thật.
“Thực ra thì, tôi có một gia đình khá lớn với rất nhiều chuyện. Chỉ có điều…”
“Chỉ có điều gì?”
“Chỉ là chẳng ai muốn nghe chúng hết.”
“Tôi muốn,” chú ếch nói. “Kể cho tôi nghe câu chuyện của cô đi, câu chuyện mà cô vừa mới viết ra kia, và tôi sẽ lắng nghe.”
Cô thích chú ếch này. Sunday mỉm cười, nhưng chầm chậm gập quyển sách của cô lại. “Cậu chẳng muốn nghe câu chuyện này đâu.”
“Tại sao không?”
“Nó không thực sự thú vị lắm.”
“Nó kể về chuyện gì?”
“Về tôi. Đấy là lí do tại sao không một ai trong gia đình tôi muốn nghe. Họ đã biết hết mọi điều về tôi rồi.”
Chú ếch duỗi dài, vươn người trên tảng đá lốm đốm nắng như thể chú ta đang yên vị trên một băng ghế dài. Cô có thể nhận ra từ ngôn ngữ cơ thể của chú – rất giống một con người hơn là một chú ếch – sẽ chẳng có điều gì gạt bỏ ý định cúa chú ta được. “Tôi chẳng biết gì về cô cả,” chú nói. “Cô có thể bắt đầu câu chuyện của mình rồi đấy.”
Điều này quả là hoàn toàn lố bịch. Lố bịch vì rằng Sunday đang ở giữa khu Wood, nói chuyện với một con ếch. Lố bịch vì rằng chú ta muốn biết thêm về cô. Lố bịch vì rằng chú ta sẽ quan tâm đến câu chuyện của cô. Quả thật rất lố bịch khi chú ta mở cuốn nhật kí của cô ra và bắt đầu đọc.
“Tên tôi là Sunday Woodcutter…”
“Grumble,” chú ếch kêu ộp oạp.
“Nếu cậu định càu nhàu, lầm bầm[2] về tất cả mọi thứ, thì tại sao cậu cứ nằng nặc bảo tôi đọc nó lên?”
[2] Chơi chữ, grumble cũng là càu nhàu, lầm bầm.
“Cô viết tên cô là Sunday Woodcutter,” chú ếch nói. “Tên tôi là Crumble.”
“Ồ!” Mặt cô nóng bừng. Sunday tự hỏi liệu ếch có thể nhận ra con người đang đỏ mặt không hay liệu chúng là một trong số rất nhiều những sinh vật lưỡng cư mù màu của vùng rừng rậm. Cô nhẹ nhàng cúi đầu. “Rất vui được làm quen với cậu, Grumble.”
“Rất sẵn lòng,” Grumble nói. “Làm ơn, tiếp tục với câu chuyện của cô đi.”
Thật là khó xử, Sunday chưa từng đọc to những suy nghĩ của mình cho bất kì ai. Cô hắng giọng vài lần. Hơn một lần cô phải dừng lại sau một câu mà cô đã lỡ nói vấp và phải bắt đầu lại một cách chậm rãi hơn. Giọng cô dường như quá to, những từ ngữ mang cảm giác lạc lõng xa xôi, thỉnh thoảng còn sai và nhầm lẫn; cô cưỡng lại niềm thôi thúc muốn xóa chúng đi hoặc thay đổi chúng khi cô tiếp tục. Cô lo lắng rằng chú – ếch – từng – là – con – người này sẽ nghe thấy những ngôn từ của cô và nghĩ rằng cô ngớ ngẩn và ngu ngốc. Chú ta sẽ chẳng muốn liên quan gì tới cô nữa. Chú ta sẽ cảm ơn cô vì khoảng thời gian cô dành cho cậu, và cô sẽ không bao giờ gặp lại cậu nữa. Tuổi trẻ của cô chỉ đến vậy thôi ư? Cô kém cỏi đến mức không thể tạo ra cuộc trò chuyện thông minh để thu hút đối phương, đến mức cô sẵn sàng tự nguyện phơi trần tâm hồn mình cho một người hoàn toàn xa lạ sao?
Sunday nhận ra, khi cô tiếp tục đọc, nhưng điều đó chẳng còn quan trọng nữa. Grumble sẽ hiểu cô vì chính con người thực sự của cô.
Bởi đã ngồi rất lâu dưới cây và viết, cô nghĩ việc đọc sẽ mất nhiều thời gian, nhưng Sunday đã đến hồi kết gần như ngay lập tức. “Tôi đã định tiếp tục về những người chị em gái của mình,” cô bối rối xin lỗi, “nhưng…”
Chú ếch im lặng một cách kì lạ. Chú ta nhìn chằm chằm vào khu Wood.
Sunday ngoảnh mặt về phía mặt trời. Cô e sợ những lời nói tiếp theo của chú ta. Nếu cậu ta không thích mẩu chuyện, thì cậu ta không thích cô, và tất cả mọi thứ cô đã từng làm trong suốt cuộc đời mình sẽ chẳng là gì cả, vô ích và vô nghĩa. Mọi thứ thật ngớ ngẩn, cô cũng ngớ ngẩn, lố bịch, thỉnh thoảng nhạt nhẽo, nhưng cô hứa với Chúa rằng bây giờ cô sẽ không nhạt nhẽo khô khốc nữa, dù cho chú ếch kia có nói gì đi chăng nữa. Và rồi, cuối cùng:
“Tôi nhớ một đêm đông đầy tuyết. Trời bên ngoài quá lạnh đến nỗi đầu ngón tay sẽ bốc khói nếu đặt chúng lên khung cửa sổ. Tôi đã thử việc đó chỉ duy nhất một lần.” Cậu ta cất tiếng ộp oạp kéo dài. “Tôi nhớ ngọn lửa ấm áp nổ tí tách trong lò sưởi, nó rất to. Ở đó có ruột chú chó con, nó luôn đành cho tôi sự yêu mến. Tôi là cả thế giới của nó. Nó cần tôi và tôi cảm giác như… như tôi có một mục đích sống trong đời. Khi ấy, tôi đã rất hạnh phúc. Có lẽ đó là quãng hạnh phúc nhất tôi từng có trong suốt cuộc đời.” Chú ếch nhắm mắt và cúi đầu. “Tôi không nhớ nhiều lắm về cuộc đời trước kia của tôi. Nhưng bây giờ, chỉ bây giờ, tôi đã nhớ được điều đó. Cảm ơn.”
Sunday đan những ngón tay đang run rẩy của mình vào nhau và nuốt cục nghẹn trong cổ họng. Trước mặt cô chính xác là một linh hồn người trong cơ thể loài ếch, và cậu ấy đang buồn. Cô không biết có điều gì trong trang viết của cô đã làm xúc động chú ếch đến vậy, nhưng đấy chẳng phải là vấn đề chính. Cô chạm vào chú ta. Không phải chỉ như một con ếch mà như một con người. Một sự đáp lại tử tế nhẹ nhàng mà Sunday chưa bao giờ có thể tưởng tượng ra. “Tôi rất vinh hạnh.” Cô nói, bởi vì cô thực sự cảm thấy thế.
“Và rồi tôi xen ngang vào.” Grumble chợt chuyển giọng từ tông trầm mơ màng sang giọng bông đùa, “Hãy tha thứ cho tôi. Như cô có thể tưởng tượng đấy, chẳng có mấy ai ghé qua đây. Cô làm tôi cảm thấy vinh hạnh khi được đắm chìm trong những trang viết của cô, quý cô tốt bụng ạ. Cô có viết thường xuyên không?”
“Có chứ. Mỗi buổi sáng, mỗi buổi tối và bất cứ lúc nào tôi có thể tranh thủ giữa khoảng thời gian ấy.”
“Thế cô luôn luôn viết về gia đình mình à?”
Sunday dùng ngón trỏ lật giở những trang nhật kí – món quà của bà tiên đỡ đầu, Joy của cô. Đây là một thói quen mỗi khi cô bồn chồn lo lắng. “Tôi e ngại phải viết về bất kì điều gì khác.”
“Tại sao lại như thế?”
Có lẽ bởi sự trung thực đang lan tỏa hay bởi cậu ta là một con ếch chứ chẳng phải một con người, cô cảm thấy thoải mái, dễ chịu đến lạ lùng khi ở cùng Grumble. Cô đã kể cho chú ta rất nhiều về cuộc sống của cô, nhiều hơn cho bất cứ ai trước đó từng bận tâm muốn biết. Tại sao cô lại phải dừng lại bây giờ? “Những thứ tôi viết… à… ừ… chúng có xu hướng trở thành hiện thực. Và không phải theo cách tốt đẹp nhất.”
“Ví dụ như?”
“Tôi đã không muốn thu lượm những quả trứng vào buổi sáng, vì vậy tôi đã viết là tôi không phải làm thế. Tối hôm đó, một con chồn đã lẻn vào chuồng gà. Chẳng ai đi lấy trứng vào sáng hôm đó. Một lần khác, tôi đã không muốn đi cùng gia đình tới chợ.”
“Thế chiếc xe bị hỏng bánh à?”
“Tôi đã ốm một trận và nằm liệt giường trong một tuần,” cô nói với một nụ cười. “Từ ân hận cũng không thể diễn tả hết được trong trường hợp này.”
“Tôi đoán là không,” Grumble nói.
“Và giờ cậu đang băn khoăn liệu điều gì sẽ xảy ra nếu tôi viết rằng cậu được giải thoát khỏi lời nguyền.”
“Ý nghĩ đó cũng vừa thoáng qua trong tâm trí tôi.”
“Có thể cậu sẽ không biến trở lại được thành một con người mà sẽ thành một con chuột một con lừa, hoặc một con hổ sẽ ăn tươi nuốt sống tôi. Có thể cậu sẽ được trở lại thành người nhưng lại không phải là con người cậu trước kia. Có thể cậu sẽ bị thiếu một số thứ thiết yếu, như là cánh tay hoặc cẳng chân hoặc…”
“Trí óc?” Grumble đùa.
“Hơi thở,” Sunday trả lời một cách nghiêm túc.
“À. Chúng ta phải luôn luôn cẩn thận với những điều chúng ta ao ước.”
“Chính xác. Nếu tôi chỉ viết về những sự kiện đã xảy ra và đã qua đi, sẽ chẳng có gì nguy hiểm với việc vô tình thay đổi tương lai. Không một ai ngoài Chúa xứng đáng có quyền năng với những việc như vậy.”
“Quả là một quyết định rất thiết thực.”
“Ừ.” Cô thở dài. “Rất thiết thực, rất nhàm chán, buồn tẻ. Giống hệt như tôi.”
“Trái lại. Tôi thấy những gì cô viết khá thú vị.”
“Thật chứ?” Cậu ta chỉ đang nói một cách tử tế thôi. Và rồi cô nhớ ra cậu là một con ếch. Thật nực cười là cô cứ quên béng đi điều đó.
“Cô sẽ đọc cho tôi nghe vào ngày mai chứ?”
“Tôi rất vui lòng.”
“Và cô có thể… là bạn tôi được chú’?” Chú ta hỏi một cách giản dị.
Lời đề nghị thật hấp dẫn và khiêm tốn, “Chỉ nếu như đổi lại cậu sẽ trở thành bạn của tôi.”
Miệng Grumble mở rộng, dưới con mắt Sunday, đó là nụ cười nhăn nhở kiểu ếch. “Và… liệu tôi có quá liều lĩnh, cô Woodcutter…”
“Hãy cứ gọi tôi là Sunday.”
“Sunday… cô có nghĩ là cô có thể thật lòng… hôn tôi được không?”
Cô tự hỏi là đã mất bao lâu để chú ta vòng vo hỏi vậy. Nụ hôn của một thiếu nữ là một liệu pháp thông thường cho trạng thái bị bỏ bùa của cậu ta hiện tại. Như thường lệ thì Sunday sẽ từ chối không suy nghĩ. Nhưng cậu ta lại quá lịch sự, và chắc chắn cô là thiếu nữ duy nhất cậu ta gặp trong suốt khoảng thời gian dài. Đây là điều ít nhất cô có thể làm.
Da của cậu gồ ghề và hơi ẩm ướt, nhưng cô cố gắng không nghĩ về điều đó. Sau khi hôn cậu ta, cô nhanh chóng đứng thẳng người lên và lùi ra sau. Cô không chắc phải trông đợi vào điều gì. Một cơn mưa những tia sáng lung linh huyền ảo ư? Hay một số thứ đại loại như một vụ nổ? Cách này hay cách khác, dù sao thì cô cũng muốn đứng tránh xa khỏi bất cứ thứ gì liên quan đến việc biến một con ếch trở lại thành một con người.
Sunday chờ đợi.
Và chờ đợi.
Chẳng có gì xảy ra.
Sau đó họ nhìn nhau rất lâu.
“Tôi không nhất thiết phải quay trở lại, cậu biết đấy, phòng khi cậu chỉ đang đề nghị một cách lịch sự thôi.”
“Ổ không,” chú ta nói nhanh. “Tôi trông chờ được nghe kể về những người chị em gái của cô. Làm ơn, hãy quay lại vào ngày mai nhé.”
“Vậy thì tôi sẽ làm thế sau khi hoàn thành xong những việc vặt trong nhà. Nhưng bây giờ tôi nên đi trước khi trời tối. Mẹ đang chờ tôi giúp bà chuẩn bị bữa tối.” Cô đứng dậy và phủi những bụi bẩn trên váy. “Chúc ngủ ngon, Grumble.”
“Cho tới ngày mai, Sunday.”
“Sunday, con đã ở đâu vậy?”
Mẹ là một người phụ nữ kiệm lời, và những câu mà bà miễn cưỡng phải buông ra có thể chua chát, đau nhói đến mức có thể làm đôi mắt người ta ậng nước. Bà nhìn chiếc váy của Sunday và tự trả lời câu hỏi của chính mình. “Lại lãng phí thời gian lêu lổng ở khu Wood. Ta vui vì con đã quyết định quay trở về trước khi ông ba bị bắt đi mất. Mẹ sẽ cảm ơn nếu con lấy cái thìa và khuấy đều nồi giúp anh con. Nó đã làm việc đó đủ lâu rồi.”
“Vâng, thưa mẹ.” Sunday tháo bỏ chiếc khăn vuông trùm trên mái tóc ra và đút cuốn nhật ký vào túi tạp dề.
“Cảm ơn nhé, Sunday!” Trix vui vẻ chuyền tay chiếc thìa và chạy vụt đi gặp bố, Peter, và Saturday ở rìa khu Wood như anh ấy vẫn làm thế mỗi buổi chiều.
Trix lớn hơn cô hai tuổi, nhưng hành động và hình dáng khiến anh trông như thể dừng lớn ở tuổi mười hai. Dòng máu phép ngăn anh ấy lớn lên như những người anh em cùng được nuôi dưỡng… cuối cùng thì, anh ấy sẽ sống lâu hơn tất cả họ. Dòng máu phép cũng là lí do khiến anh được phép chăm nom đàn bò nhưng không bao giờ được vắt sữa. Trix rất giỏi làm việc với động vật, nhưng sữa từ xô của anh ấy luôn bị chua. Và nếu như Trix khuấy đều nồi quá lâu, món hầm sẽ… khác. Kết quả chẳng bao giờ giống nhau. Lần đầu tiên, món hầm có vị như món thịt hươu ngon nhất, cùng khoai tây đúng mùa vụ và nấm dại. Lần thứ hai, nó bốc lên mùi dấm. Kể từ đó, mẹ không bao giờ để cho Trix khuấy nồi quá lâu. Mẹ bảo gia đình mình không có đủ thức ăn để liều lĩnh với trò may rủi như vậy, dù cho kết quả cuối cùng có thể ngon lành đến mức nào đi chăng nữa. Mẹ chỉ cá cược vào những thứ chắc chắn thôi.
Sunday di chuyển chiếc thìa một cách vô thức trong khi cô đang mơ mộng. Mẹ kiểm tra bánh mì trong lò. Friday dọn bàn ăn.
Hầu hết những sợi tóc tối màu của Friday đều được thắt nơ gọn lại, nhưng một vài lọn tóc xoăn buông xuống lòa xòa, trông như vầng hào quang của những con rắn sắt màu bạc quanh đầu. Friday đã khâu vá suốt – những chiếc ghim thẳng hàng chạy dọc chiều dài ống tay áo của chị ấy đã nói lên điều đó – và chị đang mặc một trong những chiếc váy, tác phẩm mà Sunday cực kì yêu thích. Friday rất khéo léo với những chiếc kim khâu, món quà ngày đặt tên từ bà tiên đỡ đầu Joy. Người quản lý cửa hàng lụa tơ tằm đưa những tấm vải thừa và vụn vải cũ tới nhà thờ thay cho thuế thập phân[3], và rồi nhà thờ đưa chúng cho Friday cùng với số đo của tất cả những đứa trẻ mồ côi và danh sách những quần áo chúng cần nhất. Đổi lại Friday có thể giữ lại bất kì mảnh vải nhỏ nào còn thừa. Cuối cùng, những mảnh vải thừa ấy làm nên những chiếc váy sặc sỡ của Friday. Friday yêu những chiếc váy không chỉ bởi vì chúng quá xinh đẹp, sống động, mà bởi chúng là thành quả của nhiều giờ làm việc vất vả, khó nhọc vì tình yêu bọn trẻ mà những người chị em chẳng bao giờ biết.
[3] Theo luật Giáo hội, mỗi tháng, mỗi công dân phải trích ra 10% lợi tức để nộp cho nhà thờ.
“Hãy đi tìm Wednesday từ ngọn tháp về đi.” Mẹ nói với Friday khi cô đang bày biện cái nĩa cuối cùng. “Cha con sẽ trở về nhà trong mấy giây nữa thôi.”
Cha bước vào cửa như thể chỉ huy, theo sau là Peter yếu ớt và Saturday hồng hào với đôi mắt sáng long lanh. Sunday tưởng tượng rằng khi ở gần kề bờ vực của cái chết, cô chị gái nghiện công việc cũng sẽ vẫn hồng hào hây hây với đôi mắt sáng.
“Chào buổi tối, em yêu.” Cha nói khi ông treo chiếc mũ của mình. “Thời tiết hôm nay khá ổn, bởi vậy làm được khá nhiều việc. Hầu như bọn anh không có việc gì chưa hoàn thành.”
“Tốt, tốt.” Mẹ nói. “Giờ thì, đi rửa ráy và ăn tối thôi.” Peter đã quá kiệt sức để có thể tranh cãi gì thêm. Saturday hôn lên má ba và chạy vụt theo sau anh trai.
“Chào con, Sunday của ta.” Cha nhấc bổng cô lên bằng cánh tay khỏe mạnh và xoay cô mấy vòng. Cô ôm chặt lấy cha, hít hà mùi mồ hôi quen thuộc của ông, mùi nhựa sống và không khí trong lành của Wood. “Có câu chuyện mới nào hôm nay không?”
“Con đã viết một ít,” cô nói với cha. “Ý con là con sẽ viết nhiều thêm vào tối nay.”
“Những câu chữ có quyền năng đấy. Cẩn thận con nhé.”
“Vâng, thưa mẹ.” Cô không thể nhắc tới những bài viết của mình mà không nghe những lời nhắc nhở từ mẹ cô. Sunday cố gắng không tỏ ra bất kính đảo mắt ngán ngẩm. Thay vào đó, cô tập trung vào cha khi ông đang chầm chậm hạ thấp cơ thể vạm vỡ to lớn của mình xuống để ngồi vào chiếc ghế đầu bàn ăn. “Ngày của cha thế nào ạ? Cha có chuyện mới nào không?”
Ông thở dài và xoa xoa vai, điều khiến Sunday lo lắng. Những ngày chẳng có câu chuyện gì xảy ra, nghĩa là thời tiết tồi tệ đáng ghét hay công việc có vài rắc rối, trở ngại. Tuy nhiên, hầu hết vào những ngày như vậy, cha đưa cho cô một ít thứ gì đó: một mẩu truyện ngắn hoặc đồ nữ trang rẻ tiền. Đôi mắt ông sẽ ngời sáng, và sẽ có chút gì đó hóm hỉnh, tinh quái trong giọng điệu của ông. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, cha vui và hạnh phúc, và ông hoàn toàn là của cô. Chẳng có bất cứ điều gì có thể dập tắt niềm hạnh phúc vẫn còn ngời sáng trong tâm hồn cô khi làm quen được một người bạn mới, nhưng một câu chuyện từ cha có thể là một kết thúc hoàn hảo cho một ngày tuyệt vời.
Cha ngồi tựa ra sau và đặt tay lên bàn. Ông trầm ngâm nhìn Sunday, rất lâu. Và rồi ông mỉm cười. Sunday bắt gặp điều đó, liền cười toe toét, bởi vì ẩn trong nụ cười ấy là một câu chuyện.
“Bọn ta đã đi sâu vào khu Wood.” Ông hơi chúi người về phía trước để thì thầm với cô, cứ như thể đây là một bí mật giữa hai người. “Sâu vào trong khu Wood, nơi những cái cây quá cao và những chiếc lá quá dày đến nỗi không một tia nắng mặt trời nào chạm tới nền đất tối được.”
“Cha có sợ không?” Sunday thì thầm.
“Một chút.” Ông thừa nhận. “Cha đã bảo Peter và Saturday đứng lại chỗ rìa khu Wood.”
“Cha bảo Saturday làm điều gì đó và chị ấy nghe lời sao?” Sunday chỉ thấy chị gái mình vâng lời mẹ. Mọi người luôn luôn làm những gì mẹ bảo. Lúc nào cũng vậy.
“À, không,” cha thừa nhận. “Cha giao cho con bé một nhiệm vụ rất lớn và bảo nó tham gia cùng cha khi đã hoàn thành xong.”
“Thế chị ấy có hoàn thành xong không ạ?”
“Vẫn chưa. Đấy là một nhiệm vụ rất, rất lớn.”
“Cha quả là rất tài tình, cha ạ.”
“Cha có rất nhiều mẹo để giữ cho những đứa trẻ láu lỉnh của mình tránh xa những điều có hại,” cha nói. “Khu vực rìa là an toàn nhất, nhưng sâu trong khu Wood là nơi có thể tìm thấy những cây cổ thụ lâu năm. Cha chẳng bao giờ lấy nhiều hơn một cây mỗi lần, và cha luôn luôn đợi vài lần trăng tròn trước khi đi lấy cây khác. Gỗ xẻ để làm nhà từ các cây đó luôn được trả giá cao nhất, bởi nó đẹp và bền mãi mãi. Không một ngọn lửa tử thần nào có thể thiêu cháy được Cây Gỗ Già Cổ Thụ Khu Wood.”
“Thế hôm nay ba có lấy một cây Cây Gỗ Già Cổ Thụ Khu Wood nào không?”
“Có chứ. Cha đã xin phép từ Chúa và van xin sự tha thứ của cây trước khi ta buộc nó phải lìa đời. Và bởi vì chẳng có một ai quanh đấy cả, cha đã không hô to ‘Đốn gỗ’ trước khi hạ nó xuống.”
Sunday há hốc miệng kinh ngạc. Bất cứ ai đã từng sống gần khu Wood đều biết tầm quan trọng của việc hô to để thông báo sự ngã xuống của cây. Sự im lặng sẽ để lại những hậu quả nguy hiểm.
“Cây đổ xuống với cú va chạm ầm ầm ngoạn mục! Và rồi khu Wood lại trở nên tĩnh lặng, cha đã nghe thấy một tiếng kêu ăng ẳng.”
“Cha đã làm ai đó bị thương sao?” Cô lo ngại muốn biết câu trả lời. Rõ ràng là mẹ chẳng lo lắng gì; bà tiếp tục bận rộn trong bếp như thể bà chưa nghe thấy bất cứ từ gì trong câu chuyện của cha.
“Suýt như vậy. Cha phải mất rất lâu mới tới được đầu kia của cây. Khi cha tới, cha tìm thấy một con yêu tinh đang nhảy lò cò xung quanh.”
“Một con yêu tinh? Đấy chẳng phải là may mắn sao?” Sunday nhận xét một cách hoài nghi.
“May thay cho chú ta! Nó vẫn còn sống sót để nhảy lò cò qua lại,” cha nói. “Nó bị mắc kẹt bởi bộ râu của mình, và cũng dùng hết sức để thoát ra.” Sunday cười.
“Em hi vọng anh có hỏi xin vàng của nó.” Giọng mẹ vọng ra từ phía lò nướng khi lấy bánh mì ra.
“Tất nhiên anh đã làm thế, nàng ạ! Em cho anh là loại đàn ông gì cơ chứ?”
“Một chàng ngốc, hầu hết các ngày đều thế.” Mẹ lẩm bẩm. Bà chùi tay vào tạp dề và lấy một chiếc dao để cắt ổ bánh. “Tiếp tục đi, kết thúc câu chuyện của anh đi.”
“Cảm ơn vợ.” Cha lại chúi người về phía trước và tiếp tục tông giọng kể chuyện. “Con yêu tinh van nài cha hãy thả tự do cho nó.”
“Và cha có làm thế không?”
“Đầu tiên cha hỏi xin vàng của nó.” Cha liếc nhìn mẹ, nhưng bà chẳng thể hiện là bà đã nghe thấy lời nói của cha. “Chú ta hứa hẹn mọi điều với cha. Bảo rằng nếu cha dùng rìu của mình chặt đứt cành cây để trả tự do cho chú thì chú ta sẽ dẫn cha tới chỗ chú ta ở.” Mẹ chặc lưỡi. Bà đang lắng nghe. “Tất nhiên ta không tin lời nó.” Cha nói to. “Cha đã nói rằng ta muốn một bằng chứng. Nó bảo cha rằng mình có ba đồng tiển vàng trong túi. Nó sẽ đưa cho cha như là một sự đặt cọc, để nhỡ như nó chạy trốn, cha sẽ không bị bỏ lại tay không.”
“Và cha đã nhận lấy vàng à?”
“Thực ra ta đã làm vậy. Ba viên vàng cứng sáng loáng. Ta đã để chúng vào trong túi.” Ông vỗ vỗ hông. “Rồi ta chặt cây đổ thả con yên tinh ấy tự do. Và con biết nó đã làm gì không?”
“Làm gì ạ?”
“Nó phàn nàn! Đúng là đồ chó chết trơ tráo vô lễ, không biết xấu hổ. Bảo rằng ta đã phá hỏng bộ râu quyến rũ, hấp dẫn của nó và rằng nó sẽ chẳng bao giờ mọc trở lại như trước nữa! Cha đã chỉ ra rằng cha là một người tiều phu, không phải một người thợ cắt tóc cạo râu. Một con tiểu yêu rỗng tuếch tự phụ! Đáng lẽ nó phải biết ơn vì được cứu sống!” Sunday cười khúc khích với suy nghĩ người cha lực lưỡng, vạm vỡ của mình là thợ cắt tóc. “Ông sẽ chẳng có được gì cả. Nó bảo với ta rằng bởi vì ta đã phá hỏng bộ dạng bảnh bao của nó nên ta không xứng đáng có bất cứ một viên vàng nào của nó. Nó khụt khịt mũi và biến mất ngay trước mắt ta.”
“Nhưng cha vẫn còn có ba cục vàng chứ?”
“Thực ra vẫn có chứ, bởi vậy ít nhất là cha không cảm thấy bị lừa gạt. Cha đem chúng về nhà cho con này.” Trái tim Sunday nhảy nhót vì vui sướng khi cha thò tay vào túi. Bất cứ vàng bạc châu báu hay của quý cha đều dành cho gia đình, nhưng điều này có ý nghĩa như cha trân trọng tặng cả thế giới cho cô. Mẹ hành động như thể bà không để ý chút nào, nhưng bà đã dừng cắt lát bánh mì dở dang.
“Cha e là chúng trông tệ hơn vì bị hao mòn.” Cha xòe bàn tay ra và thả rơi những thứ bên trong xuống bàn.
“Ô chà!” Mẹ chế giễu khi bà nhìn thấy. “Vàng của chàng ngốc và những viên đá tiên. Quả là số phận của cái gia đình này. Tôi đã biết vậy mà.”
Kho báu quý giá của Sunday là ba viên đá nhỏ. Một viên trơn mịn có màu xanh dương đậm chạy dọc cùng những vệt trắng nổi bật, một viên màu xanh lá lốm đốm bẩn như rêu mắc trên màu hổ phách xanh xám, và một viên sắc cạnh màu hồng sữa. Dù là vàng của chàng ngốc hay không, những viên đá này cô sẽ cất giữ, chúng quý giá hơn bất cứ cục vàng nào. Ẩn trong những viên đá này, câu chuyện của cha sẽ sống mãi mãi; Sunday sẽ nhớ câu chuyện bất cứ lúc nào cô nhìn thấy chúng. Đây chính là điều cô đã hi vọng: Một kết thúc hoàn hảo cho một ngày tuyệt vời.
“Chúng thật đẹp.” Sunday nói với những viên đá bóng loáng.
“Chúng là của con nếu con muốn.”
Sunday ùa vào vòng tay cha.
Me đặt những chiếc đĩa gỗ đựng bánh mì một cách chắc chắn lên bàn. “Bây giờ thì đủ thứ vớ vẩn rồi đấy. Sunday, để ý món hầm nhé. Jack, mang nến lại và gọi lũ trẻ đi. Đến lúc ăn cơm tối rồi.”