Nỗi Cô Đơn Của Các Số Nguyên Tố

Chương 45



Alice không nghĩ lại nhanh thế. Cô mới chỉ gửi thư năm ngày trước và có thể Mattia còn chưa đọc nó. Dù sao cô cũng nghĩ anh sẽ gọi điện trước, họ sẽ hẹn nhau, có thể là tại một quán bar, nơi cô sẽ bình tĩnh thông báo cho anh thông tin ấy.

Sự chờ đợi một tín hiệu bất kỳ nào đó phủ đầy ngày giờ của cô. Trong công việc cô trở nên đãng trí nhưng vui vẻ hơn, và Crozza chẳng dám hỏi cô tại sao, nhưng trong tim ông thấy mình cũng góp công chút ít. Thay vào chỗ trống vắng bỏ lại của Fabio là một sự hứng khởi của tuổi mới lớn. Alice mường tượng đi mường tượng lại thời điểm cô và Mattia gặp nhau, cô chỉnh sửa các chi tiết, xem xét hoạt cảnh từ nhiều góc độ khác nhau. Cô đắm chìm trong suy nghĩ ấy tới độ nó có vẻ như một kỷ niệm thực hơn là một sự phóng tác.

Cô còn tới cả thư viện công cộng. Cô phải làm thẻ vì trước đó cô chưa hề đặt chân tới đây. Cô tìm những tờ báo nói về sự mất tích của Michela. Đọc chúng cô thấy phiền muộn, như thể điều kinh khủng ấy lại đang xảy ra, không cách xa đây lắm. Sự tự tin chắc chắn của cô lay động ít nhiều trước tấm hình của Michela xuất hiện trên trang nhất, trông con bé hoang mang và mắt nhìn vào điểm nào đó phía trên ống kính, có lẽ là vào trán người chụp ảnh. Bức hình đó trong tích tắc xóa đi hình ảnh của cô gái trong bệnh viện, chồng chất lên đó một cách quá chính xác không thể tin là thực. Lần đầu tiên Alice tự hỏi nếu như tất cả là một sự nhầm lẫn, một ảo giác kéo dài quá lâu. Rồi cô lấy một tay che tấm hình, tiếp tục đọc, quyết tâm xua tan nghi ngờ.

Xác Michela chưa bao giờ được tìm thấy. Thậm chí là quần áo hay một dấu vết nào đó. Cô bé hoàn toàn mất tích và hàng tháng trời người ta đã thử lần theo dấu vết của một vụ bắt cóc, nhưng rồi chẳng thu được kết quả gì. Chẳng ai bị thẩm vấn. Tin tức sự việc cuối cùng chỉ được đăng trên góc tờ báo ở trang trong rồi hoàn toàn bặt tin.

Khi chuông cửa kêu, Alice đang lau khô tóc. Cô lơ đãng mở cửa, chẳng thèm hỏi ai vậy, tay chỉnh lại khăn quấn đầu. Cô đi chân đất, và điều đầu tiên Mattia nhìn thấy là bàn chân trần của cô, ngón thứ hai hơi dài hơn ngón cái, như thể muốn vươn ra trước, và ngón thứ tư quặp lại giấu mình đi. Đó là những chi tiết anh biết, và chúng lưu lại trong đầu óc anh lâu hơn nhiều lời nói hay các tình huống.

“Chào”, anh ngước mắt lên nói.

Alice lùi lại sau một bước và trong tích tắc lấy tay khép hai tà áo choàng lại như thể trái tim muốn nhảy ra khỏi cổ áo. Cô nhìn Mattia, nhận ra sự hiện diện của anh. Cô ôm anh, dựa cơ thể nhẹ hều của mình vào anh. Anh ôm eo cô bằng tay phải, nhưng các ngón tay cong lên như thận trọng.

“Đợi chút nhé. Mình quay lại ngay”, cô nói nhanh. Cô quay vào trong đóng cửa lại, để anh đứng ngoài. Cô cần vài phút một mình để thay đồ, trang điểm và để lau khô mắt trước khi anh nhận thấy.

Mattia ngồi trước thềm nhà, quay lưng về phía cửa. Anh nhìn khu vườn nhỏ, sự cân đối hầu như hoàn hảo của hàng rào thấp chắn hai bên đường và hình dạng lượn sóng bị cắt ngang giữa chừng như hình sin. Khi nghe tiếng cửa mở ra anh quay lại và vào giây phút ấy tưởng chừng như tất cả vẫn như thuở nào: anh ở ngoài đợi Alice và cô ra mở cửa, mặc áo đẹp và mỉm cười với anh. Cùng nhau họ sóng bước trên con đường mà chẳng quyết định điểm đến.

Alice cúi xuống hôn má anh. Muốn ngồi xuống cạnh anh cô phải tỳ tay lên vai anh để có thể sải cái chân bị tật cứng ngắc ra. Anh ngồi dịch sang bên. Họ không có chỗ tựa lưng, nên cả hai hơi còng người ra trước một chút.

“Cậu nhanh thật đấy”, Alice nói.

“Tấm thiệp của cậu tới sáng hôm qua.”

“Thế cái chỗ đấy cũng không xa lắm nhỉ.”

Mattia cúi đầu. Alice cầm tay phải anh, mở lòng bàn tay ra. Anh chẳng phản đối, vì với cô anh không phải ngượng vì những dấu hiệu này.

Có thêm các vết mới, có thể nhận ra chúng là những vết sẫm màu giữa đống chằng chịt sẹo trắng. Không cái sẹo nào có vẻ gần đây, ngoại trừ một vòng tròn, giống như một vết bỏng. Alice miết theo nó bằng đầu ngón trỏ và anh cảm thấy sự tiếp xúc đó ngấm xuyên qua tất cả các lớp da khô cứng. Anh cứ để cô nhìn nó hồi lâu, bởi bàn tay anh kể nhiều hơn giọng anh có thể cất lên lời.

“Có vẻ quan trọng”, Mattia nói.

“Thật thế.”

Anh quay sang nhìn cô, như bảo cô nói tiếp đi.

“Chưa đâu”, Alice nói. “Trước hết ta đi khỏi chỗ này đã.”

Mattia đứng lên trước, rồi đưa tay giúp cô dậy, như anh vẫn làm. Họ đi bộ ra phía đường. Thật khó để vừa nói vừa nghĩ cùng lúc, như thể hai hoạt động ấy loại trừ lẫn nhau.

“Chỗ này”, Alice nói.

Cô tắt hệ thống chống trộm của chiếc xe ca bin thùng xanh thẫm và Mattia nghĩ nó quá lớn đối với cô.

“Cậu lái nhé?” Alice hỏi đùa.

“Mình không biết lái.”

“Cậu đùa à?”

Mattia nhún vai. Họ nhìn nhau từ phía trên nóc xe. Mặt trời chiếu vào thân xe đậu giữa họ.

“Ở đó mình không cần lái xe”, anh bào chữa.

Alice nghĩ ngợi, tay nhịp nhịp chiếc chìa khóa trên cằm.

“Mình biết phải đi đâu rồi”, cô nói, vẫn với cái giọng dứt khoát mỗi khi muốn thông báo ý định của mình từ hồi chỉ là một đứa bé gái.

Họ lên xe. Bậu xe trước mặt Mattia trống trơn, ngoại trừ hai chiếc đĩa nhạc đặt chồng lên nhau, gáy xoay về phía anh: Các bức tranh tại triển lãm của Mussorgsky và vài bản xô nát của Schubert.

“Giờ cậu nghe nhạc cổ điển hả?”

Alice nhìn lướt chiếc đĩa, khịt mũi.

“Còn lâu. Của anh ta. Nghe nó mình chỉ thấy buồn ngủ thôi.”

Mattia cài dây an toàn. Nó cọ xát vào vai anh vì vốn được chỉnh cho người thấp hơn anh, có lẽ là cho Alice, khi cô ngồi đó còn chồng thì lái xe. Cùng nhau họ nghe nhạc cổ điển. Anh thử tưởng tượng cảnh đó, rồi để mình lơ đãng theo dòng chữ in trên gương chiếu hậu: khoảng cách thực của vật gần hơn chúng xuất hiện trong gương.

“Fabio phải không?” Anh hỏi dù biết rõ câu trả lời, nhưng anh muốn tháo nút ra, muốn làm tan chảy sự hiện diện cồng kềnh yên lặng như đang theo dõi họ từ ghế sau. Anh biết nếu không cuộc trò chuyện của họ sẽ ngắc lại đó, giống như một con thuyền kẹt lại giữa đống đá.

Alice gật đầu, như thể cô thấy khó nhọc lắm. Nếu giải thích tất cả cho anh, về đứa trẻ, về những trận cãi vã, về bịch gạo vẫn còn vứt xó trong góc bếp, anh có thể nghĩ đó là lý do cô gọi anh về. Anh sẽ không tin vào câu chuyện về Michela nữa, anh sẽ nghĩ về cô như một phụ nữ trong cơn khủng hoảng với chồng đang tìm cách nối lại các mối quan hệ cũ để cảm thấy bớt lẻ loi hơn. Trong giây lát cô tự hỏi không phải như vậy chăng.

“Hai người có con chưa?”

Khng.

“Tại sao…”

“Bỏ qua đi”, Alice ngắt lời.

Mattia thôi không nói, nhưng cũng không xin lỗi.

“Còn cậu?” Cô hỏi sau một chốc. Cô đã lưỡng lự trước khi hỏi, vì sợ phải nghe câu trả lời. Rồi như thể lời nói cứ tự bật ra khiến cô hầu như thấy ngạc nhiên.

Không”, Mattia trả lời.

“Không có con à?”

“Mình không có…” anh muốn nói không có ai. “Mình chưa lập gia đình.”

Alice gật đầu.

“Cậu vẫn kiêu lắm kia”, cô nói, quay sang mỉm cười với anh.

Mattia lắc đầu ngượng ngùng, hiểu cô muốn nói gì.

Họ tới một bãi đậu xe rộng vắng vẻ không xa sân bay, nơi các nhà xưởng lớn chứa máy bay dựng sát nhau và không có người sinh sống. Ba chồng gỗ phủ trong lớp vải bạt được xếp giáp bức tường xám cạnh cánh cửa chớp hạ thấp. Phía cao hơn, trên mái nhà, biển hiệu đã tắt đèn, vào ban đêm hẳn nó có màu cam sáng.

Alice dừng xe tại giữa bến đỗ, tắt động cơ.

“Giờ tới lượt cậu”, cô nói, mở cửa ra.

Sao kia?

“Giờ cậu lái đi.”

Khng, khng, Mattia thoái lui. “Quên chuyện đó đi.”

Cô nhìn anh chăm chú, mắt khép hờ và môi cong lên trước, như thể chỉ đến giờ cô mới đang tìm lại được cảm giác thân tình đã quên đi mất.

“Thế ra cậu cũng chẳng thay đổi nhiều lắm”, cô nói. Đó không phải lời trách cứ, trái lại như thể cô thấy nhẹ cả người.

“Cậu cũng thế”, anh nói.

Cô nhún vai.

“Thôi được rồi. Thử chút vậy.”

Alice cười. Họ xuống xe để thay đổi chỗ ngồi và Mattia cố tình bước đi uể oải để cho cô thấy sự nhượng bộ của anh. Lần đầu tiên họ thấy mình trong vai trò của người kia, hướng về phía cả hai nghĩ là đúng nhất.

“Mình chẳng biết gì cả”, Mattia nói, cánh tay giơ cao trên vô lăng, như thể không biết phải đặt chúng vào đâu.

“Không chút gì à? Chưa bao giờ lái dù chỉ một lần à?”

“Chưa bao giờ.”

“Thế thì chúng ta toi rồi.”

Alice vươn mình qua chỗ anh. Mattia nhìn chăm chú một lúc mớ tóc thẳng của cô buông xuôi, hướng về tâm Trái Đất. Dưới lớp áo hơi hếch lên trên bụng anh nhận thấy phần trên vết sẹo mà rất nhiều năm trước đây anh từng nhìn từ rất gần.

“Cậu gầy quá”, anh nói mà không chủ ý, như thể đang vừa nghĩ vừa nói.

Alice quay phắt lại nhìn anh, nhưng rồi giả như không có chuyện gì.

“Không”, cô nhún vai nói. “Vẫn như mọi khi thôi.”

Cô hơi thu người lại, chỉ ba cái bàn đạp trên sàn xe.

“Thế này nhé: cần thắng, phanh, chân ga. Chân trái chỉ đạp vào cần thắng, chân phải điều chỉnh hai cái còn lại.”

Mattia gật đầu, vẫn hơi lơ đãng bởi sự giáp sát ban nãy với cơ thể cô và mùi hương sữa tắm vô hình phảng phất lưu lại.

“Hộp số thì cậu biết rồi đúng không? Có viết hết ở đây này. Số một, hai và ba. Mình nghĩ giờ thế là đủ.” Alice nói tiếp. “Khi chuyển số, cậu kéo cần thắng xuống và thả ra từ từ. Để khởi động động cơ cũng thế thôi: kéo cần thắng xuống và thả ra từ từ, hơi tăng ga một chút. Cậu sẵn sàng chưa?

“Chưa thì sao?” Mattia hỏi ngược lại.

Anh cố gắng tập trung, cảm thấy căng thẳng như trước một bài thi. Cùng với thời gian anh đã tự thuyết phục không biết làm bất cứ điều gì ngoài chuyên môn của mình, ngoài tất cả những tập hơp có thứ tự và siêu hạn của toán học. Khi già đi người ta thường cảm thấy chắc chắn hơn, trong khi sự chắc chắn của anh lại cứ mất dần đi, như thể chỉ có một giới hạn định trước.

Anh ước lượng khoảng cách từ chỗ họ tới dãy gỗ xếp cuối tường. Ít nhất là năm chục mét. Ngay cả nếu như khởi động hết tốc độ anh cũng đủ thời gian phanh lại. Anh xoay chìa khóa quá lâu, khiến động cơ rung lên. Anh thả cần thắng, nhưng không đủ ga và máy khực lại tắt ngóm. Alice cười.

“Gần được rồi. Dứt khoát thêm chút nữa.”

Mattia hít một hơi thật sâu. Rồi anh thử lại. Xe chuyển động với một cú giật lên trước và Alice nói cần thắng và số hai. Mattia sang số và tăng tốc một lần nữa. Họ cứ đi thẳng và khi còn cách bức tường nhà xưởng khoảng chục mét anh quyết định quay hướng vô lăng. Anh quay vòng một trăm tám mươi độ khiến cả hai đều nghiêng sang một bên và quay trở về đúng điểm ban đầu.

Alice vỗ tay.

“Thấy chưa?”

Anh lại vòng tiếp, một cú vòng như ban nãy. Có vẻ anh chẳng biết làm gì ngoài việc theo quỹ đạo ô van hẹp ấy, trong khi có cả một khu rộng lớn bao quanh.

“Cứ đi thẳng đi”, Alice nói. “Ra hẳn ngoài đường.”

“Cậu điên à?”

“Có ai đâu. Mà cậu đã lái được rồi đấy thôi.”

Mattia chỉnh vô lăng. Anh cảm thấy lâu lắm rồi bàn tay mới mướt mồ hôi khi chạm vào lớp bọc da, và hoóc môn adrenalin kích thích cơ bắp anh. Trong một thoáng anh nghĩ mình đang lái hẳn một chiếc xe, với pittong và các bộ phận máy móc thấm dầu, và có Alice ở bên, kế bên để bảo anh phải làm gì. Đó là điều anh vẫn thường xuyên tưởng tượng. Thật ra thì cũng không hẳn là y chang như vậy, nhưng ít nhất một lần anh quyết định không để ý tới sự thiếu hoàn thiện.

“Okay”, anh bảo cô.

Anh hướng xe về phía lối ra của bãi đậu. Tới đầu đường anh chồm người về phía kính chắn gió để quan sát cả hai phía. Anh nhẹ nhàng xoay vô lăng và không thể không xoay cả người theo sát cử động, giống như bọn trẻ con vẫn làm khi giả vờ lái xe.

Họ đã ra tới ngoài đường. Mặt trời đã hạ thấp và ở phía sau lưng, xói ngược vào mắt anh từ gương chiếu giữa. Kim đồng hồ chỉ tốc độ 30km/h và cả chiếc xe run lên với hơi thở nóng của một con vật nuôi.

“Mình đi có ổn không?”

“Rất tốt. Cậu có thể sang số ba.”

Con đường vẫn trải dài khoảng vài trăm mét và Mattia nhìn thẳng về phía trước. Alice tranh thủ quan sát anh từ rất gần một cách bình tĩnh. Không còn là Mattia trong ảnh. Da mặt anh không còn là một lớp da duy nhất, phẳng và co dãn: giờ đã xuất hiện những nếp nhăn, dù còn lờ mờ khắc trên trán. Anh đã cạo râu, nhưng lớp râu mới, mỏng đã lấm chấm đen trên má. Cơ thể anh vững chắc, có vẻ như không còn bất cứ hy vọng nào xâm chiếm khoảng không của anh như cô đã thường xuyên muốn làm kể từ hồi là một cô bé. Hoặc có thể chính cô cảm thấy không có quyền làm điều đó, cảm thấy không có khả năng làm điều đó.

Cô thử tìm điểm giống nhau với cô gái trong bệnh viện nhưng giờ Mattia ở đây, ký ức lại càng lẫn lộn hơn. Tất cả những đường nét mà cô cảm thấy trùng khít không còn rõ ràng như vậy nữa. Có lẽ tóc cô gái kia có màu sáng hơn tóc anh. Và cô cũng không nhớ tới hai lúm đồng tiền bên khóe miệng, cũng như lông mày rậm ở đuôi như thế. Lần đầu tiên cô sợ mình có lẽ đã nhầm rồi.

Mình sẽ giải thích với anh ấy thế nào đây? Cô tự hỏi.

Mattia hắng giọng, như thể im lặng kéo dài quá lâu hoặc có thể anh nhận thấy Alice đang quan sát mình. Cô quay sang hướng khác, nhìn ra phía đồi.

“Cậu còn nhớ lần đầu tiên mình lái xe qua đón cậu không?” Cô nói. “Lúc ấy mình mới lấy bằng lái chưa đầy một tiếng.”

“Ừ, trong số tất cả các con chuột lang, cậu lại chọn chính mình làm thí nghiệm.”

Alice nghĩ không phải thế. Cô không chọn anh trong số tất cả. Sự thật là cô đã không nghĩ tới ai khác.

“Suốt thời gian đó cậu bám chặt lấy tay vịn, kêu mình đi chậm lại.”

Cô giả giọng the thé. Mattia nhớ anh đã đi cùng cô dù chẳng muốn chút nào. Buổi chiều hôm đó anh phải học cho bài kiểm tra phân tích, nhưng cuối cùng cũng chiều cô, bởi với Alice nó có vẻ rất quan trọng. Cả chiều anh chẳng làm gì ngoài việc tính đi tính lại số giờ học đang mất đi. Giờ nghĩ lại thấy thật ngốc nghếch, cũng như cảm thấy ngu ngốc khi nghĩ tới tất cả thời gian ta lãng phí để mong muốn được ở một nơi nào khác.

“Chúng ta đã đi lòng vòng cả nửa giờ đồng hồ để tìm hai chỗ đậu trống liền nhau, vì cậu không biết lái vào một chỗ”, anh nói để xua tan ý nghĩ kia đi.

“Đó chỉ là cái cớ để giữ cậu lại bên mình thôi”, Alice trả lời. “Nhưng cậu chẳng bao giờ hiểu cái gì cả.”

Cả hai phá lên cười để bóp nghẹt những bóng ma được giải phóng từ câu nói đó.

“Mình đi đâu đây?” Mattia hỏi, nghiêm túc trở lại.

“Rẽ vào đây.”

“Ừ. Thế rồi thôi nhé. Cậu lấy lại chỗ của cậu.”

Anh giảm từ số ba sang số hai mà không cần Alice phải nhắc và lượn vòng rất khéo. Anh rẽ vào một con đường có bóng râm, hẹp hơn đường kia và không có đường ngăn đôi, len giữa hai dãy tòa nhà lớn y hệt nhau và không có cửa sổ.

“Mình đậu chỗ kia.”

Họ đã gần tới rồi thì từ sau góc đường một xe tải rơ moóc lao ra, đi ngược chiều họ và chiếm phần lớn đường đi.

Mattia nắm chặt tay trên vô lăng. Chân phải anh chưa quen với phản xạ đạp phanh nên lại đẩy mạnh vào chân ga. Với cái chân lành Alice tìm bàn đạp mà không thấy. Chiếc xe tải không chậm lại. Nó chỉ dịch lại một chút về phần đường của mình.

“Mình không qua được”, Mattia nói. “Không qua được.”

“Phanh lại đi”, Alice nói, cố tỏ ra bình tĩnh.

Mattia không thể nghĩ gì nữa. Chiếc xe chỉ cách vài mét và tới giờ nó mới có vẻ chạy chậm lại. Anh cảm thấy chân mình đờ ra trên chân ga và nghĩ làm sao có thể vượt sang một bên chiếc xe tải kia. Anh nhớ lại khi đi xe đạp lao xuống dốc tới cuối con đường nhỏ dành cho xe đạp, anh đã phải đột ngột giảm tốc độ để lách qua các cọc chắn lối không cho xe ôtô vào. Michela không đạp chậm lại, nó cứ đi vào giữa mà chẳng nhận thấy mình đang ngồi trên chiếc xe đạp có bánh phụ hai bên, ấy thế mà chẳng lần nào nó sượt tay lái vào các cọc chắn cả.

Anh xoay vô lăng sang phải và trông có vẻ như sắp lao vào tường đến nơi rồi.

“Phanh đi”, Alice nhắc lại. “Bàn đạp ở giữa.”

Anh giẫm mạnh bằng cả hai chân. Chiếc xe chồm lên trước và xịch lại cách tường khoảng hai gang tay.

Theo quán tính Mattia đập đầu vào cửa sổ bên trái. Dây an toàn giữ cho anh được nguyên tại chỗ. Alice đu ra trước như một hình nộm, nhưng cô nắm chặt tay vịn. Chiếc xe tải dửng dưng đi ngang qua họ, chạy mất hút chỉ còn thấy hai đoạn đỏ dài.

Họ im lặng trong vài giây, như để thưởng thức sự kiện ngoạn mục vừa rồi. Rồi Alice cười phá lên. Mattia cảm thấy mắt nóng bỏng và dây thần kinh dọc cổ đập mạnh như thể đột nhiên chúng đều căng phồng hết lên và chỉ chực nổ tung.

“Cậu có bị đau không?” Alice hỏi. Có vẻ như cô không thể ngưng cười được.

Mattia đã rất kinh hoàng. Anh không trả lời. Cô cố nghiêm túc trở lại.

“Để mình xem nào.”

Cô tháo dây an toàn ra và vươn người qua bên Mattia vẫn đang chằm chằm nhìn bức tưởng gần sát đến vậy. Anh nghĩ tới từ không đàn hồi. Tới động năng giờ đây đang khiến anh run rẩy cả hai chân đã có thể được giải phóng toàn bộ trong vụ va chạm.

Cuối cùng anh nhấc chân khỏi phanh và chiếc xe đã tắt máy trượt lại phía sau một chút theo con đường hơi dốc không đáng kể. Alice kéo phanh tay.

“Cậu chẳng bị làm sao đâu”, cô nói, chạm nhẹ vào trán Mattia.

Anh nhắm mắt lại, gật đầu. Anh đang tập trung để không khóc.

“Giờ ta về nhà và cậu nằm nghỉ một chút nhé”, cô nói, như thể đó là nhà của họ vậy.

“Mình phải quay về nhà ba mẹ”, Mattia phản đối, nhưng không được chắc chắn lắm.

“Mình sẽ chở cậu về sau. Giờ cậu cần được nghỉ ngơi.”

“Mình phải…”

“Yên nào…”

Họ xuống xe đổi chỗ cho nhau. Bầu trời đã phủ bóng tối ngoại trừ một dải nắng mỏng manh dọc chân trời, chẳng giúp ích gì được.

Cả hai chẳng nói thêm lời nào suốt dọc đường đi. Mattia lấy tay phải ôm đầu. Anh che mắt và ngón tay cái cùng ngón trỏ day day thái dương. Anh đọc đi đọc lại dòng chữ viết trên gương: khoảng cách thực của vật gần hơn chúng xuất hiện trong gương. Anh nghĩ tới bài viết còn để lại cho Alberto. Chắc chắn anh ta lại làm rối tung lên cho mà xem, anh phải quay trở lại càng sớm càng tốt. Rồi còn các bài giảng cần phải chuẩn bị, và căn hộ của anh tại một nơi thật yên ắng.

Thỉnh thoảng Alice rời mắt khỏi đường, quay sang nhìn anh lo lắng. Cô làm tất cả để lái xe thật êm. Cô tự hỏi có nên bật nhạc không, nhưng cô cũng chẳng biết anh thích gì. Nói cho cùng cô chẳng biết gì về anh.

Tới trước nhà rồi cô muốn giúp anh xuống xe, nhưng Mattia tự xuống một mình. Anh run run trong lúc cô mở cửa. Alice chuyển động rất nhanh, nhưng cũng chú ý cẩn thận. Cô cảm thấy có trách nhiệm, như thể tất cả đều là hậu quả không lường trước được từ một chuyện đùa tai hại của cô.

Cô vứt gối đệm xuống đất để lấy chỗ trên đi văng. Cô bảo Mattia nằm xuống và anh nghe theo. Rồi cô vào bếp, chuẩn bị trà xanh hoặc trà hoa cúc hoặc bất cứ thứ gì cũng được miễn là có cái mà cầm trên tay lúc quay trở lại phòng khách.

Trong lúc đợi nước sôi cô nhanh tay dọn gọn mọi thứ. Thỉnh thoảng cô quay người nhìn qua phòng khách, nhưng chỉ có thể nhìn thấy tay vịn đi văng và màu xanh đồng nhất của nó.

Rồi Mattia sẽ hỏi tại sao cô lại gọi anh về, và cô sẽ không còn đường trốn tránh nữa. Nhưng giờ đây cô không còn chắc chắn bất cứ điều gì. Cô đã trông thấy một cô gái giống anh. Ừ, thế thì sao chứ? Thế giới này đầy những người trông giống hệt nhau, đầy những sự tình cờ ngu ngốc và vô nghĩa. Cô còn không nói chuyện với cô gái ấy. Và dù gì chăng nữa cô cũng chẳng biết sẽ phải tìm cô ấy ở đâu. Giờ nghĩ tới điều đó, khi Mattia ở ngay phòng bên, cô thấy tất cả sao mà phi lý và tàn nhẫn thế.

Chỉ có một điều chắc chắn là anh đã trở lại và cô không muốn anh ra đi nữa.

Cô rửa đống bát đĩa đã sạch xếp trên giàn, đổ nước từ trong nồi đặt trên bếp. Một nắm gạo vẫn nằm trong nồi từ vài tuần rồi. Nhìn qua làn nước trông hạt gạo có vẻ to hơn.

Alice đổ nước sôi vào một chiếc tách và thả một gói trà vào. Nước chuyển sang màu xám. Cô cho thêm hai thìa đường và quay trở vào phòng khách.

Một tay Mattia trượt từ đôi mắt nhắm chặt xuống cổ. Da mặt anh đã dãn ra và vẻ mặt trở lại bình thường. Ngực anh phập phồng lên xuống đều đặn và anh chỉ thở bằng mũi.

Alice đặt tách trà xuống chiếc bàn kính và ngồi xuống ghế bành bên cạnh, vẫn không thôi nhìn anh. Hơi thở của anh cho cô sự thanh bình. Ngoài nó ra không có bất cứ tiếng động nào khác.

Dần dần cô thấy có vẻ như suy nghĩ lại thông suốt trở lại, cuối cùng chúng cũng chạy chậm lại sau một cuộc chạy đua điên cuồng hướng về cái đích vô định. Cô thấy bản thân ở trong phòng khách của chính mình như thể vừa rơi xuống từ một chốn nào khác.

Trước mặt cô là một người đàn ông, một người trước đây cô đã quen, nhưng giờ đã thành một ai khác. Có lẽ anh thực sự giống cô gái trong bệnh viện. Nhưng không phải hoàn toàn như hai giọt nước. Không, không phải. Và Mattia đang ngủ trên đi văng của cô cũng không phải là chàng trai cô đã thấy mất hút sau cửa thang máy vào buổi chiều tối khi gió thổi bồn chồn và nóng nực từ trên núi. Không phải là Mattia cô vẫn giữ trong đầu làm tắc nghẽn lối đi của tất cả mọi điều khác.

Không, trước mặt cô là một người trưởng thành, người đã tạo dựng cuộc đời xung quanh vực thẳm đáng sợ, trên phần đất đã sụp đổ, và rằng cho dù như vậy anh vẫn thành công ở nơi xa khỏi chốn này, giữa những người mà Alice không quen biết. Cô đã sẵn sàng phá hỏng mọi thứ, đào tung lên một nỗi hãi hùng đã chôn sâu chỉ vì một nghi ngờ đơn giản, mỏng manh như kỷ niệm về một kỷ niệm.

Nhưng giờ khi Mattia nằm trước mặt, đôi mắt nhắm lại trong những suy nghĩ mà Alice không tìm được lối vào, có vẻ như tất cả đột nhiên rõ ràng hơn: cô đã tìm anh vì cô cần anh, bởi từ buổi chiều tối cô bỏ anh lại nơi đầu cầu thang, cuộc sống của cô quay vòng trong lòng chảo và từ đó cô không thoát ra được nữa. Mattia ở cực điểm của mớ bòng bong đó mà cô đã mang theo, quấn quện trong mình bao năm. Nếu như còn một cơ hội tháo gỡ nó ra, một cách nào đó để giải thoát, thì chính là kéo cái đầu đang bị ôm gọn trong các ngón tay kia lại.

Cô cảm thấy điều gì đó đang được tháo bỏ, giống như việc hoàn tất một sự mong đợi dài lâu. Cô cảm nhận thấy điều đó qua các chi, thậm chí kể cả từ cái chân tật chẳng bao giờ nhận biết được điều gì.

Cô nhỏm dậy như một cử động rất tự nhiên. Cô thậm chí chẳng tự hỏi đúng hay không nữa, rằng cô có quyền hay không. Chỉ là thời gian trôi đi và lướt sang khoảng thời gian khác. Chỉ là những cử chỉ hiển nhiên, chẳng biết tới tương lai hay quá khứ.

Cô cúi sát Mattia và hôn anh. Cô chẳng sợ đánh thức anh dậy, cô hôn anh như hôn một người đang thức, dừng lâu trên đôi môi anh mím lại, ép lên chúng như muốn để lại vết trên đó. Anh rùng mình, nhưng không mở mắt. Anh mở miệng hôn cô. Anh vẫn tỉnh.

Lần này khác với lần đầu tiên. Cơ mặt họ giờ đây mạnh mẽ, cứng cáp hơn, ý thức hơn và tìm kiếm sự quyết liệt với vai trò chính xác của một người đàn ông và một người đàn bà. Alice cứ quỳ trước anh, chẳng ngồi lên đi văng, như cô đã quên mất phần còn lại cơ thể mình.

Nụ hôn kéo dài cả vài phút, thời gian đủ để sự thực tìm thấy tia sáng giữa môi họ dính chặt và nó xuyên vào trong, bắt cả hai suy ngẫm điều đang xảy ra.

Họ rời nhau. Mattia mỉm cười vội vã, máy móc, còn Alice cho một ngón tay lên môi ẩm, gần như để chắc chắn điều đó thực sự đã xảy ra. Có một quyết định cần phải làm và đã được đưa ra không cần dùng tới lời nói. Người này nhìn người kia, nhưng họ đã mất đi sự đồng điệu và ánh mắt họ không giao nhau.

Mattia đứng dậy, không chắc chắn.

“Mình vào…” anh nói, chỉ hành lang.

“Dĩ nhiên. Cánh cửa phía cuối.”

Anh rời khỏi phòng. Anh vẫn đi giày và bước đi của anh có vẻ như xuyên qua lòng đất.

Anh khóa mình trong nhà tắm. Anh đặt tay lên bồn rửa. Anh cảm thấy bối rối, hỗn loạn. Nơi đầu bị va giờ trở nên sưng tấy, sự đau đớn chậm rãi lan ra xung quanh.

Anh mở vòi nước và để cổ tay xuống dưới làn nước lạnh như ba anh vẫn làm khi ông muốn máu trên tay anh ngừng chảy. Mattia nhìn nước và giống như mọi lần lại nghĩ tới Michela. Đó là một ý nghĩ không đau đớn, giống như nghĩ tới việc ngủ thiếp đi hay hít thở. Đứa em gái anh bị phân hủy trong làn nước, tan ra từ từ dưới sông, và qua dòng nước lại trở về trong anh. Từng phân tử của nó phân tán khắp cơ thể anh.

Anh thấy máu lại lưu thông. Giờ anh phải suy nghĩ về nụ hôn ấy, về cái điều anh tới để tìm kiếm lại sau bao thời gian qua, về lý do tại sao anh lại chuẩn bị sẵn sàng đón nhận làn môi Alice rồi tại sao sau đó lại cảm thấy cần phải tách ra tới giấu mình tại nơi đây.

Cô đang ở phòng khách, đợi anh. Ngăn cách họ chỉ có hai hàng gạch lát, vài xăng ti mét vữa trát và chín năm câm lặng.

Sự thật là lại thêm một lần nữa cô hành động thay anh, cô đã buộc anh phải quay về khi đó chính là điều anh vẫn muốn làm. Cô đã viết cho anh một tấm thiệp chỉ nói tới đây, và anh đã nhảy lên như một cái lò xo. Một lá thư đã nối họ lại cũng như một lá thư khác đã chia cách họ.

Mattia biết phải làm gì. Anh phải qua đó, ngồi lại trên đi văng, phải nắm tay cô và nói rằng lẽ ra anh không nên ra đi. Anh phải hôn cô một lần nữa, rồi lại một lần nữa, cho tới khi họ quen với cử chỉ ấy đến độ không thể thiếu nó được. Điều đó vẫn xảy ra hàng ngày trong các bộ phim và cả trong hiện thực nữa. Người ta vẫn làm những gì họ muốn, bấu víu vào các sự trùng hợp ít ỏi rồi dựa vào đó mà kiến tạo sự tồn tại. Anh phải nói với Alice anh ở đây hoặc là ra đi, lên chuyến máy bay đầu tiên và lại biến mất, quay trở về nơi anh đã chôn mình suốt bao năm qua.

Giờ anh đã học được rồi. Sự lựa chọn được quyết định trong vài giây và phải trả giá cho tất cả thời gian còn lại. Điều đó đã xảy ra với Michela và sau đó với Alice và bây giờ nữa. Lần này anh đã nhận biết chúng: đó là những giây phút này đây, và lần này anh sẽ không để mình mắc sai lầm nữa.

Anh nắm các ngón tay lại dưới tia nước xối xả. Anh hứng một chút trong tay rồi vã lên mặt. Vẫn còn gập mình trên bồn rửa, anh vươn tay với khăn lau mà không nhìn. Anh lau mặt rồi lùi ra sau. Qua tấm gương anh thấy một đốm xám màu hơn mặt bên kia. Anh xoay nó lại. Đó là nét thêu hai chữ cái FR cách một vài xăng ti mét ở một góc, tương xứng so với đường phân giác.

Mattia quay lại và nhìn thấy một chiếc khăn khác, giống hệt. Cũng ở điểm đó có thêu chữ ADR.

Anh nhìn xung quanh chăm chú hơn. Trong chiếc cốc men sứ chỉ có một bàn chải và cạnh đó là một giỏ đầy các thứ lặt vặt: kem, dây chun đỏ, lược còn dính tóc, bấm móng tay. Trên giá dưới gương có một chiếc máy cạo râu, những đoạn li ti vẫn còn dính dưới lưỡi dao.

Đã từng có thời khi ngồi trên giường Alice cùng cô, anh có thể lướt mắt quanh phòng cô phân biệt từng thứ trên giá và tự nhủ mình đã mua tặng cô cái đó. Những món quà tặng đặt ở đó là nhân chứng cho một quá trình, giống như cắm các lá cờ dọc theo mỗi chặng đường đi. Chúng đánh dấu nhịp rơi của Giáng sinh và các sinh nhật. Một vài món đến giờ anh vẫn còn nhớ: chiếc đĩa đầu tay của Counting Crows, một cái nhiệt biểu theo mô hình của Galileo với những ống nhỏ nhiều màu trôi nổi trong chất lỏng trong suốt, và một cuốn sách lịch sử toán học mà Alice đã nhận với một cái khịt mũi, nhưng cuối cùng cô đã đọc nó. Cô giữ chúng cẩn thận, để chúng vào chỗ dễ nhìn thấy, để anh biết cô luôn để mắt tới chúng. Mattia hiểu điều đó. Anh hiểu tất cả, nhưng không thể nhúc nhích khỏi vị trí của mình. Như thể nếu buông xuôi theo tiếng gọi của Alice, anh có thể sẽ bị mắc bẫy, bị đắm chìm trong đó và đánh mất bản thân mãi mãi. Anh cứ bất động trong yên lặng, chờ cho tới khi quá muộn.

Giờ đây anh chẳng thể nhận ra được bất cứ vật gì xung quanh. Anh nhìn chính mình trong gương, tóc rối bù, cổ áo hơi xộc xệch, và lúc đó anh hiểu ra. Trong phòng tắm này, trong căn nhà này cũng như trong nhà ba mẹ anh, trong tất cả những nơi đó đều không còn lại thứ gì của anh cả.

Anh bất động, để quen với quyết định buộc phải đưa ra, cho tới khi cảm thấy giây phút đã hết. Anh gấp cẩn thận khăn mặt, dùng mu bàn tay lau vài giọt nước trên bệ rửa.

Anh ra khỏi nhà tắm, đi dọc hành lang. Anh dừng lại trên ngưỡng cửa phòng khách.

“Giờ mình phải đi thôi”, anh nói.

“Ừ”, Alice trả lời, như thể cô đã chuẩn bị nói điều đó.

Mấy chiếc gối tựa đã được đặt lại vào vị trí của chúng trên đi văng và cây đèn chùm tỏa sáng từ giữa trần nhà. Không còn dấu vết nào của sự thông đồng. Tách trà đã nguội lạnh trên bàn nước và dưới đáy kết tủa một lớp xam xám trà lẫn đường. Mattia nghĩ đây chỉ như nhà một ai đó khác.

Họ tới gần cửa. Anh cầm tay Alice khi đi ngang bên cô.

“Tấm thiệp cậu gửi cho mình… Có điều gì đó cậu muốn nói với mình.”

Alice mỉm cười.

“Chẳng có gì đâu.”

“Lúc trước cậu bảo điều đó rất quan trọng.”

“Không. Không có gì đâu.”

“Liên quan tới mình phải không?”

Cô do dự một chốc.

“Không. Chỉ liên quan tới mình thôi.”

Mattia gật đầu. Anh nghĩ tới một khả năng đã cạn kiệt, tới những đường nét vô hình trước đây từng nối kết họ với nhau qua lớp không khí giờ đây không còn nữa.

“Tạm biệt”, Alice nói.

Bên trong tất cả là đèn sáng, bên ngoài tất cả là bóng đêm. Mattia giơ tay chào lại. Trước khi quay trở vào, cô còn nhìn thấy cái vòng tròn xám xịt trong lòng bàn tay anh, như một biểu tượng khép kín không thể sửa chữa, không thể xóa bỏ được và đầy bí hiểm.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.