Damira đi thu thập tin tức về tên dân binh Mas. Jan đã đồng thời yêu cầu Catherine và Marianne theo dõi Lespinasse. Dù điều này có vẻ lạ lùng đến mấy, song Jan đã tìm ra địa chỉ trong cuốn danh bạ. Tay biện lý sống trong một ngôi nhà trung lưu mạn ngoại thành kề cận Toulouse. Thậm chí có cả một biển đồng mang tên y, gắn vào cổng vườn. Hai cô bạn của chúng tôi sững sờ vì điều này, gã đàn ông không sử dụng một biện pháp an ninh nào hết. Y ra ra vào vào không có hộ tống, một mình lái xe lấy, như thể chẳng nghi hoặc điều gì hết. Ấy thế mà, các tờ nhật báo đã tường thuật qua nhiều bài báo khác nhau rằng nhờ có Lespinase mà một tên khủng bố khả ố đã bị vô hiệu hóa không còn gây hại được nữa. Ngay cả Đài Luân Đôn cũng kể lại trách nhiệm của Lespinase trong việc xử tử hình Marcel. Từ nay trở đi không một người khách nào trong quán giải khát, không một công nhân nào trong các nhà máy lại không biết tên y. Phải u mê cực kỳ mới không ngờ vực một lúc nào rằng lực lượng Kháng chiến căm giận y. Trừ phi, như hai cô gái nghĩ sau mấy ngày theo dõi, thói huênh hoang, sự ngạo mạn ở y quá quắt đến mức y thấy dường như không thể hình dung được có ai đó dám xâm hại đến mạng sống của y.
Việc ẩn nấp chẳng dễ dàng cho hai nữ đồng chí của chúng tôi. Con phố thường hay vắng vẻ không người, điều này lúc chuyển sang hành động sẽ là một lợi thế chắc chắn, nhưng một phụ nữ lẻ loi ở đây lại quá dễ bị phát hiện. Thỉnh thoảng náu mình sau một thân cây, còn phần lớn thời gian trong ngày, như hết thảy các cô gái tình báo, là bước đi, Catherine và Marianne dò xét suốt một tuần lễ.
Công chuyện càng phức tạp hơn vì con mồi của họ dường như không có một chút đều đặn quy củ nào trong thời gian biểu. Y chỉ đi lại bằng chiếc Peugeot 202 màu đen, thành ra không thể hteo dõi y vượt ra ngoài con phố. Chẳng có thói quen, trừ một điều mà hai cô nhận xét được: ngày nào y cũng rời khỏi vào khoảng ba giờ rưỡi chiều. Vậy đó sẽ là thời điểm trong ngày mà ta cần hành động, các cô đã kết luận trong báo cáo. Tiếp tục điều tra thêm nữa là vô bổ. Không thể theo dõi y, vì chiếc xe hơi; ở Tòa án chẳng bao giờ tìm lại được vết tích của y và rồi nếu ráo riết quá thì các cô có nguy cơ bị phát hiện.
Sau khi Marius đến vào một buổi sáng thứ Sáu để thực hiện một sự định vị cuối cùng và quyết định lộ trình rút lui, hành động được lên chương trình vào thứ Hai tùan sau. Càng phải làm nhanh. Jan cho rằng nếu như Lespinase sống bình thản đến thế, chắc hẳn y được cảnh sát bảo vệ ngầm. Catherine thề là cô không ghi nhận được điều gì như vậy hết, Marianne cùng quan điểm với cô, nhưng Jan nghi hoặc mọi điều, một cách chính đáng. Một lý do nữa để làm gấp là vào dịp hè này, cái kẻ của chúng tôi có thể đi nghỉ bất cứ lúc nào.
° ° °
Mệt mỏi vì các nhiệm vụ thực hiện trong tuần, bụng rỗng hơn bao giờ hết, tôi tưởng tượng ngày Chủ nhật mình nằm dài trên mà mơ mộng. May mắn một chút thì tôi sẽ gặp được thằng em. Cả hai anh em sẽ đi dạo dọc bờ kênh; như hai chú nhóc tung tăng tận hưởng mùa hè; như hai chú nhóc chẳng đói chẳng sợ hãi, hai gã trai mới lớn chếnh choáng say hương thơm của phụ nữ giữa những hương thơm của mùa hạ. Và nếu được làn gió chiều đồng lõa, có khi gió vui lòng vén tà váy mỏng nhẹ mà các thiếu nữ vẫn mặc, chỉ hơi hơi gọi là để thoáng thấy được một đầu gối, nhưng cũng đủ để xúc động và mơ màng thêm đôi chút khi tối đến thấy lại không khí dấp dính ướt trong những căn phòng ảm đạm của chúng tôi.
Tất cả những điều này không tính đến lòng nhiệt thành của Jan. Jacques vừa gõ cửa làm cho các hy vọng của tôi điêu đứng. Tôi đã thề với mình sẽ đánh một giấc vào sáng mai, thế là hỏng bét và có lý do chính đáng… Jacques giở một tấm bản đồ thành phố và dùng ngón tay chỉ cho tôi một ngã ba. Đúng năm giờ chiều mai, tôi phải bắt liên lạc với Émile và giao cho cậu một bọc hàng mà trước đó tôi sẽ đến lấy ở nhà Charles. Tôi không cần biết gì thêm. Tối mai, họ sẽ hành động cùng một người mới tuyển, cậu ta sẽ đảm bảo việc rút lui, một câu Guy nào đó, mười bảy tuổi chẵn, nhưng là một gã guồng xe đạp rất cừ. Tối mai, không một người nào trong chúng tôi nghỉ ngơi khi các chiến hữu chưa trở về bình an vô sự.
° ° °
Sáng thứ Bảy, trời quang, chỉ có đôi ba gợn mâốp như bông. Em thấy đó, nếu đời được sắp xếp hoàn hảo, tôi sẽ ngửi thấy mùi của một bãi cỏ mềm nước Anh, tôi sẽ kiểm tra lại lớp cao su của lốp máy bay, người thợ máy sẽ ra hiệu với tôi là tất cả đều ổn. Thế là tôi trèo vào khoang của phi công, đóng cửa vòm lại và cất cánh bay tuần tra. Nhưng tôi nghe thấy bà lão Dublanc đi vào bếp, và tiếng bước chân bà đưa tôi ra khỏi giấc mơ màng. Tôi xỏ tay vào áo vét, nhìn đồng hồ, bảy giờ. Tôi cần đến nhà Charles và lấy bọc hàng mà tôi phải giao cho Émile. Hướng ngoại ô. Đến Saint-Jean, tôi đi ngược theo con đường sắt như thường lệ. Đã lâu rồi tàu không còn chạy trên những thanh ray cũ kỹ dẫn đến khu Loubers. Một làn gió nhẹ thổi vào gáy, tôi kéo cổ áo lên và huýt sáo bài Gò đất Đỏ. Xa xa, tôi nhìn thấy nhà ga nhỏ bỏ hoang. Tôi gõ cửa và Charles ra hiệu bảo tôi vào.
– Cậu ún tí cà phây hôn? anh hỏi tôi với âm sắc líu lo trọ trẹ tuyệt nhất của anh.
Tôi hiểu anh ngày một nhiều hơn, anh bạn Charles, chỉ cần pha trộn một từ Ba Lan, một từ yiddish, một từ của Tây Ban Nha, đưa thêm vào chút giai điệu Pháp và thế là ổn. Charles đã học được cái ngôn ngữ kỳ cục của anh dọc những nẻo đường di cư.
– Boọc hàng cuớ cậu đễ dứi cầu xang, chẵn bao dừ bít ai tín lới. Cậu bão Jacques dằn tui đá nhùi ký. Mọi ngời xé nghe thái hằn độn từ cắt xa nhều cây xố. Bão cậu ới cần cúi í, xau ắn chớp, có hai phuúc, hôn nhìu hơng, có khi coòng íc hơng môộc tí.
Một khi đã phiên dịch xong, không thể ngăn nổi đầu óc tôi làm phép tính. Hai phút, coi như hai mươi milimet ngòi nổ ngăn cách sự sống với cái chết cho các bạn tôi. Hai centimet để châm các khối thuốc, đặt chúng xống và tìm ra đường rút. Charles nhìn tôi và cảm thấy nỗi lo lắng của tôi.
– Bao dừ tui cún đễ môộc khoãn cắt ang toàng nho nhõ cho các bạng, anh vừa nói thêm vừa mỉm cười, như để làm tôi bình tâm.
Thật ngộ, cái nụ cười của anh bạn Charles. Anh đã mất gần hết răng cửa trong một vụ máy bay ném bom, điều này, tôi cần nói để biện hộ cho anh, chẳng giúp cho cách phát âm của anh được ổn chút nào. Ăn mặc bao giờ cũng luộm thuộm, nói năng phần lớn là khó hiểu, ấy thế mà trong hết thảy bạn bè, anh là người khiến tôi an lòng hơn cả. Có phải do sự khôn ngoan đức độ dường như có trong anh? Quyết tâm của anh? Nghị lực của anh? Niềm vui sống nơi anh? Anh làm thế nào để còn trẻ tuổi đến thế mà đã trưởng thành? Anh đã trải nghiệm cực nhiều, anh bạn Charles. Ở Ba Lan chúng đã bắt giữ anh, vì cha anh là công nhân, còn anh là cộng sản. Anh đã sống nhiều năm trong nhà tù. Được thả, anh ra đi cũng như một số bạn bè, để sang Tây Ban Nha chiến đấu cùng Marcel Langer. Từ đến dãy Pyrénées, bước đường không đơn giản, nhất là khi người ta chẳng có giấy tờ cũng chẳng có tiền. Tôi thích lắng nghe khi anh nhắc lại chuyến đi của anh qua nước Đức quốc xã. Không phải là lần đầu tôi đòi anh kể cho tôi câu chuyện của anh. Charles biết rõ điều đó, nhưng nói về đời mình đôi chút, với anh đó là một cách để thực hành tiếng Pháp và để làm tôi vui, cho nên Charles ngồi xuống một chiếc ghế dựa và những từ ngữ đủ mọi màu sắc tuôn ra từ miệng anh.
Anh lên một chuyến tàu, không vé và mang theo cái gan góc táo tợn đặc trưng của mình, anh đã liều rủi may tới mức ngồi ở hạng nhất, trong một khoang đầy sĩ quan và những bộân phục. Suốt cuộc hành trình, anh đã chuyện trò với họ. Đám nhà binh thấy anh khá dễ thương còn người soát vé tránh không hỏi han bất cứ điều gì với bất kỳ ai trong cái khoang này. Đến Berlin, họ còn chỉ dẫn cho anh làm thế nào để băng qua thành phố đến nhà ga nơi có tàu đi Aix-la-Chapelle. Sau đó là Paris, rồi lên xe ca đến Pergignan, cuối cùng anh đi bộ qua núi. Sang bên kia biên giới, những chiếc xe ca khác đưa các chiến sĩ đến tận Albacete, hướng chiến trận Madrid, trong đội những người Ba Lan.
Sau thất bại, cùng hàng ngàn người tị nạn, anh vượt dãy Pyrénées theo chiều ngược lại và quay về biên giới, đón anh nơi đó là các hiến binh. Hướng trại giam Bernet.
– � đơới tui nhàm bếp cho tâấc cã tù nhơơng và ai cúng có phâầng ăn hàng ngài! anh nói, không khỏi có phần tự hào.
Tất cả là ba năm giam giữ, cho đến hiệu lệnh vượt ngục. Anh đã đi bộ hai trăm cây số đến tận Toulouse.
Không phải giọng nói của Charles làm tôi an lòng, đó là những gì anh kể cho tôi. Trong câu chuyện của anh có một mảnh nhỏ hy vọng, nó đem lại một ý nghĩa cho đời tôi. Cả tôi nữa tôi cũng muốn thuần dưỡng cái sự may mắn mà anh muốn tin tưởng. Bao nhiêu người khác sẽ bỏ cuộc? Nhưng ngay cả trong bước đường cùng, Charles sẽ vẫn không tự nhận là mình bị cầm tù. Anh sẽ chỉ trì hoãn vừa đủ để suy nghĩ về cách đi vòng.
– Cậu phãi đi dồi, Charles nói, và dờ ăng bứa chưa đơờng phố yêng tíng hơng.
Charles bước về phía gian xép dưới cầu thangấy bọc hàng rồi đặt nó lên bàn. Thật ngộ là anh lại gói bom trong những tờ giấy báo. Ta óc thể đọc trên đó câu chuyện về một hành động do Boris thực hiện, tay nhà báo gọi anh là tên khủng bố, hắn kết tội tất cả chúng tôi là những kẻ gây rối loạn trật tự chung. Tên dân binh là nạn nhân, chúng tôi là đao phủ; một cách lạ lùng để xem xét Lịch sử đang tự viết ra hàng ngày trên đường phố ở những thành phố bị chiếm đóng của chúng ta.
Có người gại khẽ vào cửa. Charles thản nhiên, tôi thì nín thở. Một bé gái bước vào phòng và mặt bạn tôi rạng rỡ. Anh vui vẻ nói:
– Cô dáo dại tui tíng Pháp đơới.
Cô bé nhảy vào vòng tay anh và ôm hôn anh. Em tên là Camille. Mẹ em, Michèle, cho Charles trú ngụ ở nhà ga bỏ không này. Cha Camille bị tù bên Đức từ đầu cuộc chiến và Camille không bao giờ đặt ra các câu hỏi. Michèle vờ như không biết Charles là một người kháng chiến. Với chị cũng như với tất cả dân cư địa phương, anh là một người làm vườn đang trồn vườn rau đẹp nhất trong vùng. Thỉnh thoảng, ngày thứ Bảy, Charles hy sinh một trong các con thỏ của anh để làm cho mẹ con chị một bữa ăn ngon. Tôi rất muốn được ăn món thỏ hầm rượu này, nhưng tôi phải đi. Charles ra hiệu cho tôi, thế là tôi chào cô bé Camille và mẹ cô rồi ra đi, bọc hàng cắp nách. Không chỉ có lũ dân binh và bọn hợp tác, còn có những người như Michèle, nnng biết rõ điều chúng tôi làm là tốt, và mạo hiểm để giúp đỡ chúng tôi, mỗi người theo cách của mình. Sau cánh cửa gỗ, tôi còn nghe thấy Charles phát âm những từ mà một cô bé năm tuổi đang hết lòng tập cho anh nhắc lại, “bò, gà, cà chua”, và bụng tôi sôi réo trong lúc tôi đi xa dần.
° ° °
Đúng năm giờ. Tôi gặp Émile, ở địa điểm đó Jacques chỉ định theo bản đồ thành phố, và tôi giao bọc hàng cho cậu. Charles đã để thêm vào giữa những quả bom hai trái lựu đạn. Émile thản nhiên, tôi muốn bảo cậu “Hẹn tối nay nhé” nhưng, có lẽ vì mê tín, tôi nín lặng.
– Cậu có điếu thuốc nào không? Émile hỏi.
– Cậu hút thuốc ư?
– Để châm ngòi.
Tôi lục túi quần và đưa cho cậu một bao thuốc gauloise nhàu nhĩ. Còn hai điếu. Bạn tôi chào tôi rồi khuất dạng ở góc phố.
Đêm buông xuống và làn mưa nhẹ cùng buông theo. Mặt đường bóng loáng và trơn nhẫy. Émile an tâm, bom của Charles không bao giờ sai trật. Thiết bị thật đơn giản, ba chục centimet ống gang, một đoạn ống máng lấy trộm thật nhanh. Một cái nút siết đinh ốc ở mõỗ đầu, một lỗ và một ngòi thọc vào chất nổ. Họ sẽ đặt bom trước cửa quán bia, rồi họ sẽ ném lựu đạn qua cửa sổ, và những kẻ thoát ra ngoài được sẽ gặp trận pháo hoa của Charles.
Tối nay ba người hành động, Jacques, Émile và cậu lính mới đảm bảo việc rút lui với một khẩu súng nạp đạn để trong túi, sẵn sàng bắn chỉ thiên nếu những người qua đường đến gần, bắn theo chiều ngang nếu bọn quốc xã đuổi theo. Họ đang ở con phố nơi hành động sẽ diễn ra. Các ô cửa sổ tiệm ăn nơi đang có một bữa tiệc của các sĩ quan địch sáng rực ánh đèn. Miếng đòn quan trọng đây, có khoảng ba chục tên trong đó.
Ba chục sĩ quan, vô khối là vạch trên những áo khoác màu xanh của Quân lực Đức treo trong phòng để áo. Émile ngược lên con phố và lần thứ nhất đi qua trước cánh cửa ra vào lắp kính. Cậu chỉ hơi quay đầu một chút, không có chuyện để mình bị phát hiện. Chính lúc ấy cậu nhìn thấy cô phục vụ. Phải tìm ra một cách bảo vệ cô ta, nhưng trước đó, phải vô hiệu hóa hai tên cảnh sát đứng đó để canh gác. Jacques đột nhiên tóm lấy một tên và siết họng hắn; anh dẫn hắn đến con phố nhỏ gần đấy và ra lệnh cho hắn cuốn xéo, gã cớm run rẩy chuồn vội. Cái gã do Émile phụ trách không chịu. Émile bèn thúc khuỷu tay làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của hắn và nện cho hắn một báng súng. Đến lượt tên cảnh sát bất tỉnh bị lôi vào ngõ hẻm. Hắn sẽ tỉnh dậy với máu dính trên trán và một trận nhức đầu. Còn lại cô gái đang phục vụ trong phòng. Jacques phân vân. Émile đề nghị ra hiệu cho cô ta qua cửa sổ, nhưng như vậy chẳng khỏi mạo hiểm. Cô ta có thể báo động. Chắc chắn, hậu quả sẽ tai hại, nhưng tôi chẳng đã nói với em rồi sao? chúng tôi chưa bao giờ giết một người vô tội, ngay cả một kẻ ngu ngốc cũng không, thế thì phải miễn cho cô ta, dù cô ta có phục vụ bọn sĩ quan quốc xã những thực phẩm mà chúng tôi đang hết sức thiếu thốn.
Jacques đến gần cửa kính; từ trong phòng ngó ra, chắc anh phải giống một gã tội nghiệp đói khát đang nhìn một cái cho nó. Một gã đại úy trông thấy anh, mỉm cười với anh và nâng cốc. Jacques mỉm cười đáp lại y và đăm đăm nhìn cô phục vụ. Thiếu phụ tròn trĩnh, chắc chắn lương thực của tiệm ăn làm lợi cho cô, cho cả gia đình cô cũng nên. Nói cho cùng, xét đoán thế nào đây? Rất cần phải sống sót trong thời buổi khó khăn này; mỗi người có cách làm của mình.
Émile sốt ruột; ở đầu con phố tối đen, chú nhỏ giữ những chiếc xe đạp giữa hai bàn tay dấp dính ướt. Cuối cùng, ánh mắt của cô phục vụ gặp ánh mắt Jacques, anh ra hiệu cho cô, cô gật đầu, ngần ngại rồi quay trở lại. Cô ta đã hiểu lời nhắn, cô phục vụ tròn trĩnh. Bằng chứng là khi chủ tiệm đi vào phòng, cô giữ lấy cánh tay ông ta và, độc đoán, kéo ông ta về phía nhà bếp. Bây giờ, mọi sự diễn ra rất nhanh. Jacques phát tín hiệu cho Émile; các ngòi nổ ánh lên màu đỏ, các chốt lăn xuống rãnh nước, kính cửa sổ vỡ ra và lựu đạn đã lăn trên sàn tiệm ăn. Émile không cưỡng nổi thèm muốn nhỏm dậy, chỉ để nhìn một tí cảnh tán loạn.
– Lựu đạn! Tếch ngay! Jacques hét lên.
Luồng khí hất Émile xuống đất. Cậu hơi choáng váng nhưng không phải lúc để ngất xỉu. Mùi khói hắc nồng làm cậu ho khục khặc. Cậu nhổ ra; máu đặc chảy xuống bàn tay. Chừng nào chân cậu chưa quỵ, thì hãy còn cơ hội. Jacques nắm lấy cánh tay cậu và thế là cả hai chạy về phía chú nhỏ với ba chiếc xe đạp của chú. Émile đạp xe, Jacques phóng bên cạnh anh, cần phải chú ý, mặt đường trơn nhẫy. Có sự ồn ào kinh khủng đằng sau họ. Jacques ngoảnh lại, thằng bé vẫn đi theo họ chứ? Nếu anh đếm đúng, thì còn chưa đầy mười giây nữa trước tiếng nổ long trời 1. Đây rồi, bầu trời sáng rực lên, hai quả bom vừa nổ. Cậu bé trên xe đạp ngã xuống, bị hất nhào vì tiếng sét, Jacques vòng xe lại, nhưng binh lính đã tỏa ra từ khắp nơi và hai tên trong bọn đã bắt lấy thằng bé đang vùng vẫy cố thoát.
– Jacques, đểu chưa kìa, nhìn đằng trước xem! Émile kêu to.
Ở đầu phố, bọn cảnh sát chặn đường, chắc cái gã vừa rồi họ để cho chuồn đi đã tìm người tăng viện. Jacques rút súng khỏi bao, bóp cò nhưng chỉ nghe thấy một tiếng cạch nhỏ. Liếc nhanh một cái nhìn vũ khí, không mất thăng bằng, không rời mục tiêu, ổ đạn lõng thõng, nó không rơi thật là điều kỳ diệu. Jacques gõ mạnh súng xuống tay lái và ấn ổ đạn vào lại được báng súng; anh bắn ba phát, bọn cớm bỏ chạy và nhường đường. Xe đạp của Jacques lại ngang tầm với xe Émile.
– Cậu đang chảy máu đấy, cậu cả.
– Đầu tớ như sắp nổ ra, Émile lúng búng.
– Thằng bé bị ngã, Jacques thổ lộ.
– Ta quay lại chứ? Émile vừa hỏi vừa dợm đặt chân xuống đất.
– Đạp đi! Jacques ra lệnh, bọn chúng đã tóm thằng bé rồi mà tớ chỉ còn có hai viên đạn.
Xe cảnh sát từ khắp nơi đổ đến. Émile chúc đầu xuống và cố tiế hết mức có thể. Nếu không có bóng tối ban đêm che chở, máu đang chảy trên mặt cậu sẽ làm cậu bị lộ ngay tức khắc. Émile thấy đau, cái đau đang tràn ngập mặt cậu thật khủng khiếp, nhưng cậu muốn lờ đi nỗi cực của mình. Cậu bạn ngã dưới đất sẽ đau đớn hơn cậu rất nhiều; bọn chúng sẽ tra tấn cậu ấy. Khi bọn chúng đánh đập cậu, hai thái dương cậu sẽ bầm dập hơn thái dương Émile rất nhiều.
Ở đầu lưỡi, Émile cảm nhận thấy mảnh kim loại xuyên qua má mình. Một mảnh từ quả lựu đạn của chính mình, thật ngu xuẩn biết mấy! Cần phải ở gần sát sạt, đó là cách duy nhất để đánh trúng mục tiêu.
Nhiệm vụ đã hoàn thành, thế thì thây kệ nếu mình phải toi mạng, Émile nghĩ vậy. Đầu óc cậu quay cuồng, một tấm màn đỏ tràn ngập tầm nhìn của cậu. Jacques thấy chiếc xe lảo đảo, anh lại gần, vừa tầm với, rồi nắm lấy vai bạn.
– Giữ vững nhé, sắp đến nơi rồi!
Họ gặp những gã cảnh sát đang chạy về phía đám khói. Chúng chẳng để ý đến họ. Một con phố nhỏ nằm ngang, con đường thoát không còn xa lắm, vài phút nữa họ có thể giảm tốc độ.
Vài tiếng gõ dồn ngoài cửa, tôi mở ra. Mặt Émile vấy máu. Jacques nắm cánh tay đỡ cậu. Anh hỏi:
– Cậu có chiếc ghế dựa nào không? Émile hơi mệt.
Và khi Jacques đóng cánh cửa lại sau lưng họ, tôi hiểu là điểm danh thiếu một chiến hữu.
– Phải lấy ra mảnh lựu đạn găm vào cậu ấy, Jacques nói.
Jacques hơ lưỡi dao trên ngọn lửa của chiếc bật lửa rồi rạch vào má Émile. Thỉnh thoảng, khi cái đau quá mạnh, nó dội ngược lên ngực đến mức buồn nôn, thế là tôi giữ lấy Émile lúc đầu cậu gục xuống. Émile đang đấu tranh, cậu không chịu ngất xỉu, cậu nghĩ đến tất cả những ngày sắp tới, tất cả những đêm mà anh bạn ngã xuống trong khi hành động sẽ bị khảo đả; không, Émile muốn lịm đi. Và trong lúc Jacques nhổ mảnh kim loại ra, Émile cũng nhớ lại cả tên lính Đức, nằm sóng soài giữa phố, người bị xé nát vì quả bom của cậu.
— —— —— —— ——-1 Nguyên văn: big-bang (vụ nổ long trời toạ ra nguồn gốc của vũ trụ)