Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 23



Ba người SAS nặng nhọc bước đi suốt phần còn lại của đêm. Họ tiến lên phía trước và đi ngược lên khiến Don Walker, người không phải đeo hành lý và nghĩ mình đang ở tình trạng sức khoẻ tốt, trở nên kiệt sức và thở hổn hển. Đôi lúc anh tưởng như sắp khuỵu xuống, biết rằng mình không thể đi xa hơn, rằng thậm chí chết còn dễ chịu hơn là cứ đau từng bắp thịt một cách dữ dội thế này. Khi điều đó xảy ra, anh có thể cảm thấy hai bàn tay thép, một đặt dưới cánh tay, và nghe thấy giọng vùng Cockney của trung sĩ Stephenson bên tai:

– Đi tiếp đi nào, anh bạn. Chỉ còn một chút nữa thôi. Có thấy cái chóp núi kia không? Chúng ta có thể nghỉ ngơi ở sườn bên kia đấy.

Nhưng họ không bao giờ làm được điều đó. Thay vì đi về hướng nam đến vùng đồi thấp Jebal và Hamreen, nơi dường như họ có thể gặp phải lính của đội Vệ binh Cộng hoà với xe cơ giới, Mike Martin đi thẳng về phía đông đến dãy đồi cao chạy ra biên giới Iraq. Đó là một chiến thuật buộc các đội tuần tra của những người miền núi Al-Ubaidi phải đi theo họ.

Ngay trước khi trời sáng, nhìn lại đằng sau và xuống phía dưới. Martin nhìn thấy một nhóm sáu tên, đang ở gần hơn bọn còn lại. vẫn đang leo lên và đang tiến lại gần. Khi đội Vệ binh Cộng hoà đến được mỏm đá tiếp đó, họ thấy một xác người đang gục trên mặt đất, đầu quay về hướng khác.

Nhảy vào sau các tảng đá, những người của bộ lạc tản ra, tấn công vào người nước ngoài từ đằng sau. Cái xác nảy lên. Sáu người trong đội tuần tra Vệ binh hất cái che ra và chạy lên phía trước.

Đã quá muộn, họ thấy cái xác là một cái túi Bergen, có nguỵ trang, ở trên là cái mũ bảo hiểm của Walker. Ba khẩu Heckler và Koch MP5 giảm thanh quất sụm họ khi họ đang đi vòng quanh “cái xác”.

Phía trên thành phố Khanaqin, cuối cùng Martin cũng cho nghỉ một lúc và chuyển tin về Riyadh. Stephenson và Eastman xem đồng hồ, nhìn về phía tây, từ đó mọi nhóm quân địch đều phải đi đến.

Martin nói cho Riaydh đơn giản là họ có ba người của SAS đang rời đi và họ có một phi công Mỹ đi một mình cùng với họ. Trong trường hợp thông tin này bị nghe được, nó có thể làm lộ vị trí của họ. Nên họ phải rảo bước nhanh hơn nữa. Ờ cao trên dãy núi, gần biên giới, họ tìm thấy một chỗ trú trong một túp lều đá, được các mục đồng trong vùng sử dụng vào mùa hè khi lùa lũ cừu lên vùng cỏ cao hơn.

Tại đó, cảnh giới chế độ luân phiên, họ chờ đợi trong suốt bốn ngày của cuộc tấn công trên bộ, khi ở xa vùng phía nam các xe tăng của Liên quân và lực lượng trên không tấn công thẳng vào Quân đội Iraq trong cuộc chiến chớp nhoáng dài có 90 tiếng đồng hồ và lan sang đến Kuwait.

Cũng vào ngày hôm đó, ngày đầu tiên của cuộc tấn công trên bộ, một người lính đơn độc vào Iraq từ phía tây. Anh ta là một người Israel của đội du kích Sayeret Matkal, được lựa chọn do nói tiếng Arập hoàn hảo.

Một chiếc máy bay Israel, được bảo vệ bởi các xe tăng tầm xa và là máy bay chuyên chở của quân đội Jordan, bay ra từ Negev và đi dọc suốt vùng sa mạc Jordan để người đó lại trong Iraq, về phía nam của điểm vượt Ruweishid. Để lại anh ta ở đó, nó quay trở lại và bay về qua Jordan và về Israel, không hề bị hay biết.

Cũng giống Martin, người lính này mang theo đồ đạc nhẹ, lái mô tô với lốp xe chuyên dụng đi trên sa mạc. Mặc dù đã được cải trang để trông già đi, nhàu nhĩ, bẩn thỉu, thô kệch, và quê mùa, động cơ của nó rõ ràng là cực tốt, và nó có rất nhiều xăng dự trữ trong hai bình treo ở bánh sau. Người lính đi theo con đường chính về phía đông và khi hoàng hôn thì đến được Baghdad. Quan tâm của thượng cấp anh ta cho an toàn của anh ta là quá thừa. Với máy telegraphe xịn, những người Baghdad đã biết quân đội của mình bị quét sạch trong các sa mạc về phía nam Iraq và Kuwait. Khoảng đến tối ngày thứ nhất, AMAM đã dựng chiến luỹ và cố thủ ở đó.

Giờ đây khi các cuộc oanh tạc đã chấm dứt – không máy bay chiến đấu nào của Liên quân được sử dụng nữa – người dân Baghdad đã có thể đi lại tự do, công khai nói về việc người Mỹ và người Anh sắp tới để thổi bay Saddam Hussein. Đó là niềm phấn khích kéo dài có đến một tuần, cho đến khi chùng xuống khi Liên quân không thấy tới, và sự lộng hành của AMAM vân tiếp tục.

Trạm xe bus trung tâm đã đầy lính, phần lớn đều mặc đồ đơn giản, bỏ đi quân phục mặc khi ở sa mạc. Đó là những người từ sa mạc đã thoát khỏi các đội hành quyết đợi đằng sau đường chiến tuyến. Họ rao bán những khẩu Kalashnikov với giá một Vé xe bus về làng. Hồi đầu tuần, giá những khẩu súng trường đó 35 dinar một chiếc; bốn ngày sau. giá chỉ còn 17 dinar.

Người Israel đặt các thông điệp giống hệt nhau ở cả ba chỗ, đánh dấu phấn ở ba nơi, đi xe mô tô về hướng tây, nhập vào đoàn người tị nạn cũng đang đi cùng hướng đó.

Anh ta mất thêm một ngày nữa mới ra được đến biên giới. Tại đó anh ta cắt thẳng về phía nam của con đường chính để đi vào sa mạc trống trải, đi sang Jordan, đào chiếc đèn hiệu được giấu kín của mình và sử dụng nó. Những tiếng bíp bíp vang lên ngay lập tức bởi một chiếc máy bay Israel đang bay vòng vòng trên Negev, và chiếc trực thăng quay trở lại điểm hẹn để mang người đột nhập đi.

Anh ta đã không ngủ trong suốt 50 tiếng đồng hồ đó và ăn rất ít, nhưng đã hoàn thành được nhiệm vụ và trở về nhà một cách an toàn.

Vào ngày thứ ba của cuộc tấn công trên bộ, Edith Hardenberg quay trở về bàn làm việc của mình ở ngân hàng Winkler vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Buổi sáng hôm trước, ngay trước khi cô sắp rời chỗ làm, cô đã nhận được một cú điện thoại.

Người ở đầu dây bên kia, nói giọng Đức hoàn hảo với âm sắc Salzburg, tự giới thiệu mình là hàng xóm của mẹ cô. Ông ta nói với cô rằng bà Hardenberg đã bị ngã cầu thang rất nặng sau khi bị trượt chân và đang ở tình trạng xấu. Ngay lập tức cô cố gọi điện cho mẹ mình nhưng lúc nào máy cũng bận. Cuối cùng sốt ruột không chịu nổi, cô đã gọi cho trạm điện thoại Salzburg, nơi này cho cô biết điện thoại chắc là đã bị hỏng.

Gọi điện cho ngân hàng bảo là cô không thể đến được, cô lái xe thẳng về Salzburg trong trời tuyết giá lạnh, đến được nơi khi sắp buổi trưa. Mẹ cô, hoàn toàn mạnh khoẻ, ngạc nhiên khi nhìn thấy cô.

Không hề có chuyện bị ngã, cũng không bị thương. Tệ hơn nữa, thằng khốn nào đó đã cắt dây điện thoại của bà ở bên ngoài ngôi nhà.

Khi Edith quay trở về Vienna, đã quá muộn để đến chỗ làm.

Khi cô xuất hiện ở bàn làm việc của mình sáng hôm sau, cô thấy Wolfgang Gemuetlich đang ở tâm trạng còn ảo não hơn cả cô ông ta trách cứ cô rất nặng nề vì đã vắng mặt ngày hôm trước và tức giận khi nghe lời giải thích của cô.

Lý do khiến ông ta ở tình trạng đó vừa mới xảy đến. Giữa buổi sáng ngày hôm trước, một thanh niên đã xuất hiện ở ngân hàng và nằng nặc đòi gặp ông. Vị khách cho biết tên mình là Aziz và là con trai người chủ của một tài khoản lớn có đánh số. Cha anh ta, người Arập giải thích, không thể đến được nhưng muốn con trai mình thay mặt mình giải quyết công việc.

Khi đó, Aziz chìa giấy tờ chứng nhận một cách đầy đủ và hoàn hảo rằng anh ta là sứ giả của cha mình, với toàn quyền xử lý tài khoản được đánh số đó. Ngài Gemuetlich đã kiểm tra các chứng từ giao quyền sử dụng đến từng kẽ nhỏ nhất, nhưng không hề có khe hở nào. Ông chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận làm theo.

Chàng trai nhấn mạnh rằng ý muốn của cha anh ta là đóng toàn bộ tài khoản để chuyển đến chỗ khác. Cô có hiểu được không hả Hardenberg, chỉ hai ngày sau khi có một tài sản hơn ba triệu đôla, đã phải chi ra tổng cộng hơn mười triệu đôla.

Edith Hardenberg lắng nghe câu chuyện của Gemuetlich một cách bình thản, rồi hỏi về người khách. Phải, cô đã được cho biết, tên anh ta là Karim. Giờ đây khi nghe đến cái tên, một đốm hồng gợn lên trên ngón tay nhỏ bé ở một bàn tay, và, thực tế một vết sẹo dài trên ngực. Liệu ông ta đã gặm nhấm xong mất mát của mình chưa, viên chủ nhà băng đã có thể tự hỏi câu hỏi chính xác như thế bởi người thư ký về một người cô chưa từng bao giờ gặp.

Dĩ nhiên ông cũng biết, Gemutlich thú nhận, rằng người nắm tài khoản hẳn là người Arập, nhưng ông ta không có ý tưởng gì người đàn ông là từ Iraq đến và có một đứa con.

Sau khi làm việc, Edith Hardenberg về nhà và bắt đầu lau rửa căn hộ của mình. Cô chăm chú làm công việc đó trong suốt nhiều giờ liền. Cô lấy hai cái hộp to bằng các tông để làm thùng rác mang đi hàng trăm yard và chôn xuống đất. Một cái chứa các thứ đồ mỹ phẩm, nước hoa, sữa tắm, và; cái hộp kia là đủ loại đồ lót của phụ nữ. Rồi cô lại quay về phòng tiếp tục dọn dẹp.

Những người hàng xóm sau đó nói lại là cô đã bật nhạc đến tối và cho đến mãi đêm – không phải những bản Mozart và Strauss quen thuộc mà là nhạc Verdi, đặc biệt là một số khúc từ bản Nabucco. Một người hàng xóm tò mò hơn cả nhận ra đoạn đó là “Đồng ca Slave” mà cô bật đi bật lại.

Sáng sớm nhạc ngừng lại, và cô đi ra xe ôtô với hai thứ đồ lấy từ trong bếp nhà mình.

Một nhân viên kế toán đã nghỉ hưu, đang dắt chó đi dạo trong công viên Prater vào lúc bảy giờ sáng đã tìm thấy cô. Ông để chiếc Hauptallee lại để cho con chó của mình đi làm việc của nó trong công viên đoạn xa đường hơn cả.

Cô mặc bộ đồ màu ghi bó sát người, tóc xoá ra sau đầu, đôi tất dày ở chân, và đôi giày cứng đơ. Sợi dây ròng qua một cành sồi đã không phản bội cô, và hai bậc thang nhà bếp cũng vậy.

Cô khá bình thản khi đã chết, hai tay để dọc người và những ngón chân duỗi xuống dưới. Vẫn luôn luôn là cô Edith Hardenberg rất mực chỉn chu.

28 tháng Hai là ngày cuối cùng của cuộc tấn công trên bộ. Trong các sa mạc Iraq phía tây Kuwait, quân đội Iraq đã thất bại hoàn toàn và rệu rã. Về phía nam thành phố, các sư đoàn của đội Vệ binh Cộng hoà trước đóng ở Kuwait ngày 2 tháng Tám không còn tồn tại nữa. Vào ngày đó các lực lượng vũ trang đã chiếm được thành phố, bắn vào mọi thứ có thể cháy và tìm cách phá huỷ mọi thứ, để lại cho phía bắc một hàng dài xe tải, xe tăng, van, ôtô.

Đoàn xe bị nhìn thấy hoàn toàn khi đường cao tốc phía bắc cắt qua Multa Ridge. Những chiếc Eagle và Jaguar, Tomcat và Hornet, Tornado và Thunderbolt, Phantom và Apache bổ nhào xuống đoàn xe.

Khi đoạn đầu của đoàn xe bị phá huỷ và làm con đường tắc nghẽn, phần còn lại không thể chạy về trước cũng như lùi lại, và vì chỗ giao ở Ridge không thể rời con đường. Nhiều người trong đoàn xe đã chết và những người còn lại đầu hàng. Khi chiều xuống, các lực lượng đầu tiên của Arập đã tiến vào Kuwait để giải phóng đất nước này.

Tối đó, Mike Martin lại liên lạc với Riyadh và nghe tin tức Anh cho biết về vị trí hiện tại của mình và về một bình địa bằng phẳng gần đó.

Những người lính SAS và Walker đã hết lương thực, phải đun tuyết để lấy cái uống, và chịu lạnh khủng khiếp, không dám đốt lửa vì sợ làm lộ vị trí của mình. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng các đội tuần tra miền núi không biết gì về việc đó, hoặc là không quan tâm.

Ngay sau khi mặt trời lên, hai chiếc máy bay trực thăng tầm xa Blackhawk của Sư đoàn không quân số 101 của Mỹ đã tới đón họ. Họ đến từ căn cứ của 101, sâu 50 dặm trong lãnh thổ Iraq, chuyến tấn công lớn nhất bằng máy bay trực thăng trong lịch sử. Khoảng cách từ biên giới A rập Xêut đến là rất xa thậm chí từ căn cứ trên sông Euphrates, đó là một khoảng cách xa để đến được dãy núi gần Khanaqin.

Đó là lý do tại sao có hai cái trong số chúng, cái thứ hai còn có nhiều nhiên liệu hơn dành cho chuyến bay về. Để đảm bảo an toàn, tám chiếc Eagle bay ngay phía trên để bảo vệ trong khi lấy người ở quãng trống. Don Walker nhảy vọt lên.

– Hey, người của tôi đấy?, anh hét lên, Khi hai chiếc Blackhawk bay về, những chiếc Eagle còn yểm hộ cho đến khi qua được biên giới.

Họ tạm biệt nhau trên một bãi cát rộng, xung quanh là tàn tích của một đội quân bại trận gần biên giới Xêut-Iraq. Những cánh quạt sắc lẻm của một chiếc Blackhawk làm tung bụi mù mịt trước khi chở Don Walker về Dhahran và một chuyến bay trở về Al Kharz. Một chiếc Puma của Anh đã đứng ở đằng xa, để chở người SAS về căn cứ quân sự bí mật của họ.

Tối đó, trong một ngôi nhà miền quê tiện nghi ở vùng hạ Sussex, tiến sĩ Terry Martin được cho biết anh trai mình đã ở đâu kể từ tháng Mười và rằng giờ đây anh đã thoát được khỏi Iraq và đã an toàn ở Arập Xêut.

Martin gần như phát ốm vì lo lắng, và người của SIS đưa anh quay trở về London, nơi anh lại tiếp tục cuộc sống của mình với tư cách một giảng viên của trường Khoa học phương Đông và châu Phi.

Hai ngày sau, ngày 3 tháng Ba, các chỉ huy các quân đội trong Liên quân gặp nhau trong một ngôi lều tại một căn cứ không quân Iraq trống không nhỏ gọi là Safwan với hai vị tướng từ Baghdad để thương nghị về sự đầu hàng. Những người phát ngôn duy nhất, bên phía Liên quân là tướng Norman Schwarzkopf và Hoàng thân Khaled bin Sultan. Bên cạnh vị tướng Mỹ là chỉ huy quân Anh, tướng Peter de la Billière.

Cả hai vị sĩ quan phương Tây ngày hôm đó đều tin rằng chỉ hai vị tướng Iraq sẽ đến Safwan. Quả thực, họ đã ở Mạng lưới an ninh của Mỹ đã được thắt lại cực kỳ chặt chẽ, để loại bỏ khả năng bất kỳ vụ ám sát nào có thể xảy ra trong túp lều nơi các vị tướng các bên đối nghịch đang gặp gỡ.

Toàn bộ một sư đoàn quân Mỹ đã bao vây kín khu sân bay, hướng mặt ra ngoài.

Không giống như các vị chỉ huy Liên quân đến từ phía nam bằng máy bay trực thăng, bên Iraq đã được lệnh đi xe đến chỗ nối ở đường phía bắc sân bay. Tại đó họ để xe ôtô của mình lại để chuyển sang một số những xe cá nhân chống đạn được gọi là humvee và do lái xe Mỹ lái đi nốt hai dặm cuối cùng đến sân bay vào một đám những túp lều nơi mọi người đã chờ.

10 phút sau khi chào hỏi các vị tướng đi vào túp lều thương nghị với phiên dịch của mình, một chiếc limousin Mercedes đi từ đường Basra xuống đến chỗ nối. Trạm kiểm soát tại đó do một đại uý của Sư Bảy Mỹ chỉ huy, mọi sĩ quan cao cấp hơn đều đã vào trong sân bay. Chiếc limousin không được dự tính trước đã được chặn lại ngay lập tức.

Trên ghế sau của xe là vị tướng Iraq thứ ba, chỉ là một trung tướng, mang một chiếc cặp tài liệu màu đen. Cả ông ta lẫn tài xế của ông ta đều không nói được tiếng Anh, và viên đại uý thì không nói tiếng Arập. Anh ta bèn gọi điện đàm vào trong sân bay để chờ lệnh khi một chiếc xe jeep do một đại tá Mỹ lái và mang cái khác để cho người đưa tin. Người lái xe mặc quân phục của Các lực lượng đặc biệt Mũ nồi xanh; người khách có dấu hiệu của G2, tức tình báo quân sự.

Cả hai người trình ID của mình cho đại uý, người kiểm tra thẻ, nhận ra họ, và đứng nghiêm chào.

– Tốt rồi, đại uý. Chúng tôi đã dự tính trước có thằng cha này, vị đại tá Mũ nồi xanh nói. Có vẻ như bị chậm vì nổ lốp xe thì phải.

– Chính thế đấy, viên sĩ quan G2 nói, chỉ vào chiếc cặp tài liệu của vị trung tướng Iraq đã ngồi không hề hiểu gì ở một bên xe. Nó chứa tên của tất cả các POW của chúng ta, kể cả các phi công mất tích của chúng ta. Norman Bão tố muốn cái đó, và được rồi đây.

Không còn thừa chiếc humvee nào. Viên đại tá Mũ nồi xanh mời người Iraq lên xe jeep. Viên đại uý bối rối. Anh chẳng biết gì hết về vị tướng Iraq thứ ba này. Điều cuối cùng anh cần là gọi thêm về tướng Schwarzkopf về danh sách những phi công Mỹ mất tích. Viên đại uý nhún vai và chỉ cho người lái xe Iraq đỗ xe vào chung với họ.

Trên đường vào sân bay chiếc xe jeep đi qua giữa hai hàng xe quân sự của Mỹ xếp hàng dài suốt một dặm. Rồi đến một đoạn đường trống, trước khi đội máy bay trực thăng Apache vòng quanh khu vực đang diễn ra cuộc họp.

Thoát khỏi những chiếc xe tăng, viên đại tá G2 quay lại người Iraq và nói với tiếng Arập rất tốt:

– Dưới chỗ ngồi của ông ấy, ông ta nói. Đừng ra khỏi chiếc xe jeep, mà cho họ lên – nhanh lên.

Người Iraq mặc bộ quân phục màu xanh của nước ông ta. Bộ quần áo được nhét dưới chỗ ngồi của ông ta là đồng phục của một đại tá của Lực lượng đặc biệt Arập Xêut. ông nhanh chóng thay giày, áo và mũ.

Ngay trước khi những chiếc Apache lăn bánh trên đường băng, chiếc xe jeep lao đi vào sa mạc, tách khỏi sân bay, và đi về phía nam. Tại một nơi rất xa Safwan, chiếc xe lên lại con đường chính dẫn tới Kuwait, cách đó 20 dặm.

Những chiếc xe tăng Mỹ ở khắp nơi, hướng ra bên ngoài. Công việc của chúng là ngăn chặn mọi sự đột nhập. Những người chỉ huy của họ, đứng ở trên, nhìn xuống một trong số những chiếc xe jeep của mình đang chở hai đại tá và một sĩ quan Xêut đang đi ra khỏi vùng chu vi và về vùng đất được bảo vệ điều này chẳng hề khiến họ bận tâm.

Chiếc xe jeep mất gần một giờ đồng hồ mới tới được sân bay Kuwait, rồi một bãi bị tàn phá, do người Iraq và vẫn còn một làn khói từ lửa dầu mỏ lan ra khắp vương quốc Chuyến đi xa đến vậy là vì để tránh cuộc tàn sát trên đường Multa Ridge, nó đã bị chia ra qua sa mạc phía tây của thành phố.

Năm dặm cách sân bay, viên đại tá G2 lấy một chiếc điện thoại di động từ ngăn kéo và ấn vào đó một loạt những tiếp bíp. Từ sân bay một chiếc máy bay tiến lại gần họ. Tháp điều khiển của sân bay đang được người Mỹ giám sát Chiếc máy bay đang tới gần là một chiếc HS-125 của Anh. Không chỉ có thế, đó là chuyên cơ dành cho chỉ huy quân Anh, tướng de la Billière. Điều đó hẳn là: nó có đủ quyền để đi. Người kiểm soát không lưu cho nó đi.

Chiếc HS- 125 đứng ở một điểm hơi tách ra, nơi nó gặp chiếc xe jeep của Mỹ. Cửa mở ra, thang được thả xuống, và ba người đàn ông bước vào máy bay.

– Granby 1, chuẩn bị cất cánh, người giám sát không lưu nghe thấy vậy. Anh ta đang điều khiển một chiếc Hercules của Canada đang tới với thuốc men cho bệnh viện trên máy bay.

Anh ta muốn nói: Mẹ kiếp sao mà nhanh thế – các anh định làm cái quỷ quái gì thế?

– Xin lỗi, tháp Kuwait, giọng nói vang lên rất chính xác, của Không lực Hoàng gia. Người kiểm soát từng nghe RAF trước đây, và nó cũng vang lên y hệt như thế.

– Tháp Kuwait, chúng tôi cho lên máy bay một đại tá của Lực lượng đặc biệt Xêut, người của Hoàng thân Khaled. Tướng Schwarzkopf ra lệnh đưa ông ta đi ngay lập tức, nên ngài Peter đã cho mượn máy bay riêng của ông ấy. Chuẩn bị cho cất cánh nhanh đi, anh bạn.

Trong hai hơi thở viên phi công người Anh đã nêu tên một vị tướng, một vị hoàng thân và một vị hiệp sĩ được tước phong. Còn người kiểm soát không lưu chỉ là một trung sĩ chỉ biết làm tốt công việc của mình. Anh ta có công việc tốt trong Không lực Hoa Kỳ. Từ chối không cho một viên đại tá Xêut của Hoàng thân bị ốm đi chữa bệnh theo lời yêu cầu của một vị tướng ở trong máy bay của chỉ huy quân

Anh có thể làm sự nghiệp tiêu tùng.

– Granby 1, cất cánh đi, anh ta nói.

Chiếc HS-125 cất cánh bay đi khỏi Kuwait, nhưng thay vì hướng tới Riyadh, nơi có những bệnh viện tốt nhất ở Trung Đông, nó lại đi về hướng tây dọc theo biên giới phía bắc của vương quốc.

Chiếc AWACS lúc nào cũng cảnh giác nhìn thấy nó và lên tiếng gọi, đòi biết đích đến của nó. Vào lúc đó giọng Anh pukka vang lên trả lời giải thích họ đang bay tới căn cứ của Anh ở Akritiri tại đảo Cyprus để mang đến đó mộtngười bạn thân và một sĩ quan thân thiết của tướng de la Billière bị thương nặng bởi mìn. Người chỉ huy phi vụ của AWACS chẳng biết gì về chuyện đó, nhưng chẳng thể nào cứ căn vặn mãi được. Chẳng nhẽ phải bắn hạ chiếc máy bay này sao?

15 phút sau, chiếc HS-125 rời khỏi không phận Xêut và đi qua biên giới sang đến Jordan.

Người Iraq ngồi ở hàng ghế sau của máy bay không hề hay biết gì về điều đó mà chỉ bị ấn tượng bởi tính hiệu quả của người Anh và người Mỹ. Ông ta đã nghi ngờ khi nhận được thông điệp gần nhất từ những người phương Tây trả lương cho mình, nhưng sau khi suy nghĩ ông ta cho rằng khôn ngoan hơn cả là rời đi còn hơn là chờ đợi thêm nữa và phải tự làm việc đó mà không có sự giúp đỡ nào. Kế hoạch được lên cho ông ta trong thông điệp đó đã được thực hiện như trong một giấc mơ.

Một trong hai phi công trong bộ quân phục nhiệt đới của RAF trở lại bàn thứ hai của máy bay và thì thầm bằng tiếng Anh với viên đại tá G2 của Mỹ, người đang nhăn mặt.

– Chào mừng ông đến với tự do, thưa tướng quân, anh ta nói bằng tiếng Arập với người khách của mình. Chúng ta đã ở ngoài không phận của Arập Xêut. Ông sẽ được lên một chiếc máy bay để đến Mỹ sớm sủa thôi. Nhân đây tôi có cái này cho ông.

Anh ta rút một mẩu giấy từ túi áo ngực ra và chìa nó cho người lraq, người đọc nó một cách thoải mái. Đó là một con số cộng đơn giản: tổng cộng số tiền ông ta đang có trong tài khoản tại Vienna, giờ đây đã lên hơn 10 triệu đôla.

Nhân viên Mũ nồi xanh nhìn vào một ống nhòm và tạo ra hàng loạt ly và một loạt chai rượu Scotch nhỏ. Anh ta rót một cái chai vào ly và chuyển xung quanh.

– Nào, bạn của tôi, uống vì sự an lành và thịnh vượng đi

Anh ta uống; người Mỹ kia cũng uống. Người Iraq mỉm cười và uống.

– Nghỉ ngơi một chút đi, viên đại tá G2 nói bằng tiếng Arập. Chúng ta sẽ đến đó trong chưa đầy một giờ nữa.

Tiếp sau đó, họ để ông ta lại một mình. ông ta ngửa người ra sau lên tấm nệm của chỗ ngồi của mình và để đầu óc thả trôi về 20 tuần vừa qua đã làm nên cả một gia sản cho ông ta đã phải rất liều lĩnh, nhưng họ đã thanh toán sòng phẳng. Ông ta nhớ lại cái ngày ông ngồi trong phòng họp của Cung điện Tổng thống đó và nghe Rais tuyên bố rằng cuối cùng Iraq đã có được, trong thời gian không lâu nữa, quả bom hạt nhân của riêng mình. Cái đó đã như thể là một cú sốc mạnh, và đã làm mất mọi liên lạc sau đó của ông ta với người Mỹ.

Rồi họ đột nhiên trở lại, trông nghiêm trọng hơn bao giờ, hỏi nơi có thứ vũ khí đó. Ông ta đã có ý tưởng không tồi, nhưng với năm triệu đôla, rõ ràng đã đến lúc làm mọi việc có thể. Rồi mọi việc cũng dễ dàng hơn là ông ta từng nghe nhiều.

Kỹ sư chế tạo hạt nhân, tiến sĩ Salah Siddiqi, đã từng được đưa đến các phố Baghdad và bị tố cáo, giữa biển của chính những người của ông ta, là phản bội để lộ chỗ giấu quả bom. Khăng khăng cãi về sự trong sạch của mình, ông đã cho biết địa điểm Al Qubai và sự nguỵ trang với nghĩa trang xe hơi. Làm cách nào nhà khoa học đó lại có thể biết mình sẽ bị thẩm vấn ba ngày trước khi ném bom, chứ không phải hai ngày sau đó?

Cú sốc tiếp theo của Jericho là biết được có hai viên phi công người Anh đã bị rơi. Điều này chưa được dự kiến trước. ông ta đã cần hết mức để biết được liệu, trong khi bị hỏi, có hở ra chút đầu mối nào về chuyện thông tin đã tới tay Liên quân như thế nào không.

Nỗi mừng rỡ của ông ta, khi rõ ràng họ chẳng biết gì về, chuyện đó và họ chỉ biết chỗ đó là một kho thuốc nổ cho pháo binh, đã không sống được lâu, khi Rais quả quyết phải có một tên phản bội. Từ đó tiến sĩ Siddiqi, bị treo lên bên dưới Nhà tập, đã phải phun ra, điều mà ông với một cú tiêm quá liều vào tim, đã làm biến đi.

Những kỷ lục thời gian về cuộc hỏi cung đó, từ ba ngày trước khi ném bom đến hai ngày sau đó, đã hoàn toàn thay đổi

Nhưng cú sốc lớn hơn cả là biết rằng Liên quân đã trượt, rằng quả bom đã được chuyển đến một địa điểm được giấu kín nào đó tên là Qu’ala. Pháo đài nào? Ở đâu?

Một vận may đã đến khi kỹ sư nguyên tử trước khi chết đã hé lộ rằng người thực hiện công trình nguỵ trang là một đại tá nào đó tên là Osman Badri của Công binh, nhưng khi kiểm tra hồ sơ ông thấy viên sĩ quan trẻ là một người ủng hộ Tổng thống cuồng nhiệt. Làm thế nào để làm thay đổi cách nhìn đó bây giờ?

Câu trả lời nằm ở vụ bắt giữ và những trách nhiệm gây nên cái chết khủng khiếp của người cha thân yêu của anh ta.

Sau đó, Badri thất vọng đã rơi vào tay Jericho, trong cuộc gặp ở băng ghế sau ôtô sau đám tang.

Người đàn ông tên là Jericho, có biệt danh là Mu’azib Đồ tể, cảm thấy an tâm với cuộc sống. Một sự thoả mãn lan truyền trong người ông ta, hiệu ứng có lẽ của mấy ngày vừa qua cộng dồn lại. Ông ta thử động cựa nhưng thấy mình không thể nhúc nhích. Hai sĩ quan người Mỹ đang nhìn xuống ông, nói bằng thứ ngôn ngữ ông ta không thể hiểu nhưng biết là không phải tiếng Anh. ông cố trả lời nhưng miệng ông không thể thốt ra lời nào.

Chiếc HS-125 quay về hướng tây nam, băng qua bờ biển Jordan và hạ xuống độ cao 10.000 fít. Trên Vịnh một dòng thác không khí tràn ngập ca bin, thậm chí dù chiếc máy bay đã giảm tốc độ gần như là đứng im.

Hai viên sĩ quan dựng ông ta dậy, không thể chống cự, thẳng đuỗn và không làm nổi gì, cố nói điều gì đó mà không có khả năng. Trên mặt nước xanh ngắt phía nam Aqaba, tướng Omar Khatib rơi từ trên máy bay và lao thẳng xuống dòng nước, nơi không thấy có động tĩnh gì nữa cả. Lũ cá mập làm nốt phần còn lại.

Chiếc HS-125 quay về hướng bắc, bay qua Eilat sau khi đã quay trở lại không phận Israel, cuối cùng đậu xuống Sde Dov, sân bay quân sự nằm ở bắc Tel Aviv. Tại đó hai phi công cởi bỏ bộ quân phục lính Anh và viên đại tá là bộ quân phục Mỹ.

Cả bốn quay về với cấp bậc Israel thực sự của mình. Chiếc máy bay sử dụng được chuyển về Không lực Hoàng gia của mình, được sơn lại như trước, và trở lại tàu sân bay sayan ở đảo Cyprus nơi đã lấy nó đi.

Tiền từ Vienna đầu tiên đã được chuyển đến ngân hàng Kanoo ở Bahrain, rồi đến một ngân hàng khác ở Mỹ. Một phần được chuyển lại ngân hàng Hapoalim ở Tel Aviv và quay về cho chính phủ Israel; chính đó là số tiền Israel đã trả cho Jericho cho đến khi chuyển hắn sang cho CIA. Cán cân thanh toán, trên 8 triệu đôla, được chuyển sang cho Mossad dưới cái tên “Quỹ Vui vẻ”.

Năm ngày sau khi chiến tranh kết thúc, hai chiếc máy bay trực thăng tầm xa khác của Mỹ trở lại các thung lũng vùng núi Hamreen. Họ chẳng hề xin phép gì. Xác của viên sĩ quan điều khiển hệ thống vũ khí của chiếc Eagle, thiếu uý Tim Nathanson, không bao giờ được tìm thấy. Đội Vệ binh đã bắn tung nó lên với những khẩu súng tự động của mình, và lũ chó rừng, cáo, quạ, và diều hâu đã làm nốt phần còn lại.

Cho đến bây giờ xương cốt hẳn vẫn nằm đâu đó trong những thung lũng lạnh lẽo đó, không tới 100 dặm đến nơi cha ông anh ta trước đây từng tới và bị dòng Babylon cuốn đi. Cha anh ta nhận được tin ở Washington, đọc kinh kaddish cho anh, và than thở một mình trong ngôi nhà ở Georgetown.

Còn xác của hạ sĩ Kevin North đã được đào lên. Khi những chiếc Blackhawk dừng lại, những bàn tay Anh chìa ra nâng hài cốt người hạ sĩ lên, được cho vào một túi đựng xác và trước tiên được mang về Riyadh rồi sau đó về nhà ở Anh trên chiếc Hercules chở hàng.

Khoảng giữa tháng Tư một buổi lễ ngắn gọn được tổ chức tại đại bản doanh của SAS ngoại ô Hereford.

Không có nghĩa trang nào dành riêng cho người của SAS; không nghĩa trang nào nhận xác của họ. Nhiều người trong số họ đã nằm lại tại các chiến địa ngoại quốc mà tên tuổi phần lớn không ai biết.

Một số nằm lại dưới cát sa mạc Libya, nơi họ cảm thấy trận chiến Rommel năm 1941 và 1942. Những người khác ở các đảo Hy Lạp, dãy núi Abruzzi, Jura, và Vosges. Họ nằm rải rác ở Malaysia và Borneo, ở Yemen, Muscat và Oman, trong những khu rừng nhiệt đới và dòng nước lạnh giá và dưới nước lạnh của Bắc Băng Dương ngoài Falkland.

Khi xác họ được đào lên, họ được mang trở về nước Anh, nhưng thường xuyên họ được chuyển về cho gia đình để mai táng. Ngay cả khi đó, sẽ không có tấm bia mộ nào nêu tên SAS, mà là phiên đội của một đơn vị độc đáo từ đó người lính đến SAS – Bộ binh, Lính dù, Vệ binh, hay bất cứ gì khác.

Chỉ có một công trình. Giữa Stirling Lines ở Hereford có một tháp không cao bằng đá, được xây bằng gỗ và sơn màu sôcôla nâu. Trên đỉnh một chiếc đồng hồ chỉ thời gian, nên nó được gọi một cách đơn giản là Tháp Đồng hồ.

Quanh căn cứ của họ là những tảng đồng cứng, trên đó có ghi tên và địa điểm nơi họ chết. Tháng Tư đó, có năm cái tên mới được viết lên. Một bị lính Iraq bắn khi bị bắt, hai bị giết khi đấu súng khi cố vượt qua biên giới Xêut. Người thứ tư chết vì bệnh thương hàn sau hai ngày trong quần áo mỏng và thời tiết lạnh giá. Người thứ năm là hạ sĩ Kevin North.

Nhiều chỉ huy trước đây của các phiên đội đã đến vào cái ngày mưa gió đó. John Simpson đến, và Viscount Johnny Slim và ngài Peter. Giám đốc Lực lượng đặc biệt, J.P. Lovat cũng ở đó và đại tá Bruce Craig, khi đó là CO. Và thiếu tá Mike Martin cùng một số ít người khác.

Bởi vì giờ đây họ đã ở nhà, những người còn phục vụ có thể hiếm khi được nhìn thấy đội mũ bêrê với biểu tượng chiếc dao găm và khẩu hiệu “Chiến thắng dành cho người dũng cảm”.

Đó không phải một buổi lễ kéo dài. Các sĩ quan và những người khác nhìn công trình bên ngoài, những cái tên mới được khắc lên bằng chữ đậm và màu trắng lên đồng. Họ chào và đì, quay về với những toà nhà lộn xộn.

Ngay sau đó, Mike Martin đi đến chiếc ôtô nhỏ đang đỗ ở trong công viên của mình, lái qua cánh cổng có lính gác, và quay trở về ngôi nhà ven biển anh có trong một ngôi làng trên dãy đồi Herefordshire.

Trong khi lái xe anh nghĩ về mọi chuyện đã xảy ra trên đường phố và sa mạc Kuwait; và trên bầu trời phía trên; và trong những thung lũng và chợ Baghdad; và dãy đồi Hamreen. Vì là một người kín đáo, chí ít anh cũng hài lòng về một điểm: Đó là không ai có thể biết được hết cả.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.