Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 21



Chiều đó ở Riyadh, các đại sứ Anh và Mỹ gặp nhau, không chính thức, cho mục đích rất bình thường là uống trà và ăn bánh theo truyền thống nước Anh. Cũng có mặt tại cơ ngơi người Anh là Chíp Barber, người mà chỉ nhân viên sứ quán biết, và Steve Laing, người nói với tất cả những ai tò mò rằng mình làm việc ở bộ phận Văn hoá Đại sứ quán. Một người khách thứ ba, trong một trong những lần rời khỏi chỗ của mình sâu dưới lòng đất, là tướng Norman Schwarzkopf.

Trong một thời gian ngắn, năm người cùng ở một góc phòng, uống trà. Cuộc sống trở nên dễ dàng hơn khi mọi người đều biết cái mọi người khác thực sự làm trong cuộc sông. Trong số những người khách đó, chủ đề nói chuyện duy nhất là cuộc chiến tranh đang diễn ra, nhưng năm người đó có những thông tin mà không ai biết được hết cả. Một mẩu thông tin là tin tức về các chi tiết kế hoạch chiến tranh do Tariq Aziz đưa ra cho Saddam Hussein, kế hoạch đã được chuyển đến từ Matxcơva và những cuộc nói chuyện với Mikhail Gorbachev.

Thật là một chủ đề đáng lo lắng đối với mỗi người trong số năm người khách. nhưng với mỗi người là một nguyên nhân khác nhau.

Tướng Schwarzkopf ngày hôm đó đã nhận được từ Washington ý kiến rằng ông có thể tấn công sớm hơn kế hoạch đã định. Kế hoạch hoà bình của Liên Xô kêu gọi một sự ngừng bắn được tuyên bố, và Iraq phải rút quân khỏi Kuwait trong ngày tiếp sau đó.

Washington biết các chi tiết này không phải từ Baghdad mà từ Matxcơva. Lời trả lời sớm sủa của Nhà Trắng là kế hoạch có giá trị nhưng thất bại trong những vấn đề then chốt. Nó không hề gợi lên ý rằng Iraq phải vĩnh viễn từ bỏ sự lăm le với Kuwait; nó không hề gợi lên một sự thiệt hại khó tưởng tượng nổi đối với Kuwait – 500 vụ cháy dầu mỏ, hàng triệu tấn dầu thô bị chảy ra làm ô nhiễm nguồn nước ở vùng Vịnh, 200 người Kuwait bị hành hình, Kuwait City bị tàn phá.

– Colin Powell bảo tôi, vị tướng nói, Bộ Ngoại giao sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Họ muốn có được sự đầu hàng vô điều kiện.

– Thế thì họ sẽ có, chắc chắn đấy, đại sứ Mỹ nói.

– Tôi nói với họ, vị tướng nói. Tôi nói rằng các ông cần một người Arập để nhìn nhận vấn đề đó.

– Quả thế, đại sứ Anh đáp, thế tại sao lại có thể?

Cả hai vị đại sứ đều là những nhà ngoại giao lão luyện từng làm việc nhiều năm tại Trung Đông. Cả hai đều nghiên cứu rất nhiều về Arập học.

– Tốt, vị chỉ huy tối cao nói, cái kiểu tối hậu thư này không chơi được người Arập đâu. Trước tiên họ sẽ chết cái đã.

Một sự im lặng trong nhóm. Hai viên đại sứ tìm thấy trên mặt vị tướng một nét mỉa mai.

Hai sĩ quan tình báo vẫn không nói gì, nhưng cả hai đều có chung suy nghĩ ở trong đầu: đó chính là điểm mấu chốt đó, tướng quân thân mến của tôi ạ!

– Anh đi từ trong nhà người Nga ra.

Đó là một lời khẳng định, không phải câu hỏi. Người của Cục Phản gián đang mặc đồ dân sự nhưng chắc chắn đó là một sĩ quan.

– Vâng, bey.

– Giấy tờ đâu.

Martin lần tìm trong các túi của dish-dash của mình và trình căn cước và bức thư nhàu nát do Bí thư thứ nhất Kulikov đưa. Viên sĩ quan săm soi thẻ căn cước, liếc nhìn để so sánh với ảnh, và nhìn vào lá thư.

Những người Iraq làm việc rất tốt. Khuôn mặt lạnh lùng của Mahmoud Al-Khouri nhìn xuyên qua cái túi nhựa.

– Khám đi, viên sĩ quan nói.

Người còn lại thò tay vào trong áo dưới cái dish-dash rồi lắc đầu Không có vũ khí.

– Các loại túi

Các túi có một vài tờ tiền dinar, một vài đồng xu, một chiếc dao ăn, những mẩu phấn màu khác nhau, và cái túi bằng nhựa. Viên sĩ quan chú ý đầu tiên đến cái túi.

– Gì đây?

– Người vô đạo sẽ vứt nó đi. Tôi dùng để đựng thuốc lá.

– Không có thuốc trong này.

– Không có, bey, hết rồi. Tôi đang định đi mua ở chợ.

– Và đừng có gọi tôi là bey. Chỉ người Thổ mới nói thế thôi.

– Thế anh từ đâu đến vậy?

Martin miêu tả ngôi làng nhỏ ở phía bắc. “Rất nổi tiếng với dưa hấu”, anh thêm vào.

– Câm mõm về những thứ dưa chết tiệt của anh đi! viên sĩ quan dọạ, có cảm giác rằng lính của mình đang cố nén cười.

Một chiếc limousin đi vào đầu kia của phố và dừng lại, cách đó 200 yard.

Viên sĩ quan cấp dưới ra hiệu cho thượng cấp và gật đầu. Thượng cấp quay lại, nhìn. và nói với Martin. “Đợi ở đây”. Anh bước trở lại chiếc xe lớn và dừng lại để nói với ai đó qua cửa sổ băng ghế sau.

– Anh bắt được ai đấy? Hassan Rahmani hỏi.

– Tên làm vườn, thưa ngài. Làm việc ở đây. Trông coi hoa hồng và làm đất, đi chợ cho tay đầu bếp.

– Khôn ngoan không?

– Không, thưa ngài, đầu óc rất ù lì. Một lão nông dân từ mãi phía bắc, từ một chỗ nào đó trồng dưa ấy.

Rahmam suy nghĩ. Nếu anh giữ lại tên điên khùng này, những người Nga sẽ tự hỏi tại sao người của họ không trở lại. Anh hy vọng nếu tiến trình hoà bình của người Nga thất bại, anh có thể bước vào.

Nếu anh để người này đi mua hàng và quay về, anh ta có thể báo động những người chủ Liên Xô của mình. Theo kinh nghiệm của Rahmani đây là một thứ ngôn ngữ mọi người Iraq nghèo khổ đều nói và nói rất tốt. Anh đưa ra một cái ví và rút ra 100 dinar.

– Đưa cho anh ta. Nói với anh ta đi chợ đi và quay về. Rồi sau đó anh ta sẽ phải theo dõi ai đó với một cái ô lớn, bằng bạc. Nếu anh ta im lặng về chúng ta và ngày mai đến báo cáo đã nhìn thấy gì, anh ta sẽ được thưởng. Nếu nói với người Nga, chúng ta sẽ đưa anh ta đến chỗ AMAM.

– Rõ, thưa tướng quân.

Viên sĩ quan cầm lấy tiền, bước lại, và nói với người làm vườn. Người đàn ông trở nên bối rối.

– Một cái ô, sayidi?

– Phải: một cái bằng bạc rất lớn, hoặc cũng có thể màu đen, hướng lên trên trời. Anh đã từng bao giờ thấy nó chưa?

– Chưa, sayidi, người đàn ông buồn rầu nói. Mỗi khi trời mưa tất cả đều chạy vào nhà hết cả.

– Allah chí Thánh ơi, viên sĩ quan lẩm bẩm, không phải cho trời mưa đâu! Mà là để gửi tin.

– Ô mà gửi được tin, người làm vườn chầm chậm nói. Tôi sẽ thử xem có không, sayidi.

– Thế thì đi đi, viên sĩ quan thất vọng nói. Và phải im lặng về những gì anh đã nhìn thấy nhé.

Martin đạp xe xuôi phố, đi ngang qua chiếc limousin. Khi anh lại gần, Rahmani cúi đầu vào trong băng ghế sau. Không cần để cho anh ta nhìn thấy mặt Trùm Phản gián của nước Cộng hoà Iraq.

Martin tìm thấy dấu phấn vào lúc bảy giờ và nhận được bức thông điệp vào lúc chín giờ. Anh đọc nó trong ánh sáng từ cửa sổ của một quán cà phê – không có đèn điện, không có nữa, mà là một thứ đèn khí. Khi anh đọc bản giấy, anh huýt sáo nhè nhẹ, gấp nhỏ tờ giấy lại, và nhét nó vào trong đồ lót của mình.

Anh không bị chặn lại lần nào trên đường về ngôi biệt thự. Máy phát cần phải bỏ đi, vì chỉ cần thêm một lần phát sóng có thể gây ra thảm hoạ. Anh quan sát bến xe bus, nhưng khắp nơi đều có các đội kiểm tra của quân đội và AMAM, tìm kiếm những người từ sa mạc đi vào.

Thay vì đó, anh đi ra chợ rau quả ở Kasra và tìm thấy một người lái xe tải đang đi về phía tây. Người đàn ông sẽ đến nơi cách Habbaniyah vài dặm, và 20 dinar đã thuyết phục được anh ta chở thêm một hành khách. Nhiều xe tải thích đi vào ban đêm, tin rằng bọn Con của Chó ở đó trong những chiếc máy bay không thể nhìn thấy họ trong bóng tối, mà không biết dù ngày hay đêm, những xe tải chở hoa quả có gây ra tiếng động chẳng hề là ưu tiên cao của tướng Chuck Horner.

Vì vậy họ lái xe xuyên màn đêm, nhờ vào những ánh đèn tờ mờ như ngọn nến, và vào bình minh Martin đã đứng trên đường cao tốc ngay ở phía tây hồ Habbaniyah, nơi người lái xe quay sang các trang trại giàu có của vùng thượng thung lũng Euphrates.

Họ bị các đội kiểm tra dừng xe hai lần, nhưng chỉ một lần Martin phải trình giấy và bức thư của người Nga, giải thích rằng anh đã từng làm vườn cho họ, nhưng họ sắp về nước và đã sa thải anh. Anh ca thán về cách họ đối xử với anh cho đến khi những người lính hết kiên nhẫn bảo anh ngậm miệng lại và để anh đi.

Đêm đó, Osman Badri đang ở không xa Mike Martin, đang hướng về cùng một hướng nhưng đi trước. Đích đến của anh là căn cứ máy bay nơi người anh, Abdelkarim đang là chỉ huy đội bay.

Trong những năm 1980, một công ty xây dựng Bỉ tên là Sixco đã thắng thầu để dựng lên tám căn cứ quân sự được bảo vệ nghiêm ngặt cho các máy bay chiến đấu tốt nhất của Iraq vốn rất được cưng chiều.

Vấn đề với họ là hầu như mọi thứ đều được chôn ngầm dưới đất – doanh trại, hangar, kho nhiên liệu, nhà ăn, cửa hàng, phòng họp, khu cho phi công, và những máy phát điện diezel lớn để cung cấp năng lượng cho các căn cứ.

Chỉ một thứ được nhìn thấy từ trên cao là những đường băng, dài 3000 mét. Nhưng vì không hề có nhà cửa hay hangar dính liền, nên liên quân nghĩ chúng chỉ là những sân bay bình thường, như Al-Kharz ở Arập Xêut đã từng như vậy trước khi người Mỹ đổ quân vào.

Nhìn gần hơn vào mặt đất có thể thấy những cửa sắt dày tới một mét dựng ở cuối con đường. Một căn cứ rộng 5 km vuông, chu vi bao quanh bởi hàng rào. Nhưng cũng giống như Tarmiya. các căn cứ quân sự Sixco trông như là bỏ không, không dùng đến.

Để vận hành chúng, các phi công phải sống ngầm dưới đất, trong khoang máy bay của mình, và khởi động động cơ tại đó Chỉ khi họ đã sẵn sàng, với bức tường chắc chắn bảo vệ phần còn lại của căn cứ khỏi luồng phản lực và phóng ra chất khí lên trên để đi ra sa mạc bên ngoài, các cánh cửa của bệ phóng mới được mở ra.

Các máy bay chiến đấu có thể chạy qua các bệ phóng, lao lên với tốc lực mạnh nhất, phụt khói xa sau, lao lên đường băng, và ở trên không trung trong vài giây. Ngay cả khi các AWAC định vị được họ, họ cũng có vẻ như đến từ nơi khác và được cho là đang đi làm những nhiệm vụ tầm thấp đến từ nơi nào đó.

Đại tá Abdelkarim Badri đóng ở một trong các căn cứ Sixco đó, chỉ được biết đến với cái tên KM 160 vì nó nằm trên được từ Baghdad đi Ar-Rutba, cách Baghdad 160 km. Em trai anh trình giấy tờ ở trạm gác ở chỗ hàng rào vào lúc hoàng hôn.

Nhờ vào cấp bậc của anh, một cú điện thoại ngay lập tức được gọi vào từ tháp canh cho nơi ở riêng của người chỉ huy đội bay, và rất nhanh chóng một chiếc xe jeep xuất hiện, lăn bánh qua sa mạc trống không, có vẻ như đến từ nơi nào đó.

Một trung úy Không.lực trẻ tuổi dẫn vị khách vào trong căn cứ, chiếc xe jeep lăn bánh vào một bệ phóng khác được giấu kín nhưng rất nhỏ để đi vào khu nhà dưới lòng đất, nơi chiếc xe jeep đỗ lại. Viên trung uý dẫn đường qua các hành lang phức tạp đi qua các hầm nơi các kỹ thuật viên đang vận hành những chiếc MIG 29. Không gian thoáng mát và được lọc khí, và ở mọi nơi đều đầy tiếng động cơ phát điện. Ngay khi bước vào khu vực dành cho các sĩ quan cao cấp. viên trung úy gõ một cánh cửa. Khi có lệnh vang ra từ bên trong, anh ta chỉ cho Osman Badri căn hộ của viên chỉ huy.

Abdelkarim đứng lên, và hai anh em ôm choàng lấy nhau. Người anh 37 tuổi, cũng là đại tá và rất đẹp trai, với một hàng ria mỏng. Anh không lấy vợ nhưng không bao giờ thiếu đàn bà vây quanh. Vẻ ngoài của anh ta, cái vẻ hững hờ, bộ quân phục đẹp của anh ta và những huy hiệu của phi công đảm bảo cho anh ta điều đó. Vẻ ngoài của anh rất chân thật; các vị tướng Không lực đã coi anh là phi công lái máy bay chiến đấu giỏi nhất nước, và người Nga, những người đã đào tạo anh làm quân bài chiến lược cho phi đội bay của Liên Xô, MIG 29 Fulcrum loại máy bay chiến đấu siêu âm, cũng đồng ý với điều đó.

– Nào, em trai, ngọn gió nào đưa em đến đây vậy? Abdelkarim hỏi.

Osman, khi đã ngồi xuống và uống cà phê từ một cái tách nóng hôi hổi, đã có đủ thời gian để nghiên cứu vẻ mặt của anh trai. Có những nếp nhăn ở khoé miệng nơi trước đây chưa hề có, và có vẻ cảnh giác trong mắt.

Abdelkarim không phải một kẻ điên khùng cũng không hề hèn nhát. Anh đã bay tám phi vụ chống Mỹ và Anh. Anh đều quay về được. Anh đã nhìn thấy những đồng nghiệp giỏi nhất của mình bị hạ gục hoặc bị thổi tung bởi tên lửa Sparrow và Sidewinder, và anh đã từng dính bốn quả như thế. Những lệch lạc, anh đã nhận ra ngay sau lần đầu tiên thử đánh các máy bay ném bom Mỹ, là không thể chấp nhận được Về phần mình, anh không hề có thông tin hay hướng dẫn nơi có kẻ thù, có bao nhiêu, loại nào, trọng tải, đi hướng nào. Các ra đa Iraq đều đã bị bắn hạ, các trung tâm kiểm soát và chỉ huy đều đã bị nghiền vụn, và các phi công chỉ còn có thể dựa vào chính mình.

Tệ hơn thế, người Mỹ với những chiếc AWACS của mình có thể biết được chỗ của các máy bay chiến đấu Iraq trước khi họ đi được quá 1000 fít, nói cho phi công của mình cần đi đâu và phải làm gì để đảm bảo có được vị trí tấn công tốt nhất. Với người lraq, Abdelkarim Badri biết, mỗi phi vụ chiến đấu chẳng khác gì một đòi hỏi tự sát.

Về tất cả những thứ đó, anh không hề nói gì, cố tạo ra một nụ cười và hỏi tin tức của em trai. Tin đó giết chết ngay lập tức nụ cười.

Osman kể lại những sự kiện trong 60 tiếng đồng hồ qua: lính AMAM đến nhà bố mẹ họ vào sáng sớm, lục soát, và tìm kiếm trong vườn, đánh mẹ và Talat, và bắt bố họ. Anh nói anh đã được người dược sĩ hàng xóm gọi về như thế nào, và bằng cách nào anh đã lái xe về nhà để thấy xác chết của bố trên chiếc bàn ăn.

Miệng Abdelkarim mím chặt thành một đường giận dữ khi Osman kể đến khi anh khám phá cái gói chứa xác, và cách bố họ đã được chôn cất sáng hôm đó.

Người anh chồm về phía trước rất đột ngột khi Osman kể anh đã gặp ai và đã rời khỏi nghĩa trang, và về cuộc trò chuyện với người đàn ông.

– Em nói với ông ta tất cả những thứ đó rồi à? Anh hỏi khi em trai mình đã nói xong.

– Vâng.

– Đúng không đấy? Có đúng không đấy? Em đúng là đã xây dựng Pháo đài Qu’ala đấy à?

– Vâng.

– Và em nói với ông ta nó ở đâu, và ông ta có thể nói cho người Mỹ biết à?

– Vâng. Em có làm sai không?

Abdelkarim suy nghĩ một lúc.

– Có bao nhiêu người. ở toàn Iraq, biết về điều đó hả em?

– Sáu người.

– Kể tên xem nào.

– Rais, Hussein Kamil, người cung cấp tài chính và nhân lực; Amer Saadi, người cung cấp công nghệ. Rồi đến tướng Ridha, người cung cấp pháo binh, và tướng Musuli ở bên Công binh – ông ta đã đề xuất em làm việc đó. Và em, người đã xây dựng nó.

– Thế còn các phi công trực thăng chở khách đến thì sao?

– Họ hẳn là có biết hướng để có thể bay được, nhưng không phải cái gì ở trong đó. Và họ bị cấm trại ở một căn cứ nào đó, em không biết là ở đâu cả.

– Thế khách thì sao – bao nhiêu người trong số họ có thể biết?

– Không ai đâu. Họ bị bịt mắt trước khi máy bay cất cánh cho đến tận khi đến nơi.

– Nếu người Mỹ phá huỷ Cú đấm của Thượng đê đó, em nghĩ AMAM sẽ nghi ngờ ai? Rais, các bộ trưởng, các vị tướng – hay là em?

Osman gục đầu vào tay.

– Em đã làm gì thế này? anh rên rỉ.

– Anh sợ là, em trai ạ, em đã tiêu diệt tất cả chúng ta.

Cả hai anh em đều biết các quy tắc. Nếu phản bội, Rais sẽ không đòi một sự hy sinh duy nhất mà sẽ hành hình cả ba thế hệ: cha và chú, do đó không thể còn có dòng giống lưu truyền lại, anh em với cùng lý do, và con trai và cháu trai, để không còn ai có thể lớn lên để trả thù ông ta. Osman Badri đã bắt đầu trở nên yên lặng.

Abdelkarim đứng lên, kẻo Osman lại gần và ôm em trai.

– Em đã làm đúng, em ạ. Em đã làm đúng. Bây giờ chúng ta phải tính cách để thoát khỏi nơi đây.

Anh nhìn đồng hồ: tám giờ tối.

– Không có đường dây điện thoại nào cho công cộng từ đây về Baghdad đâu, anh nói. Chỉ có các đường dây ngầm dưới đất đến những người ở Bộ Quốc phòng đang trốn trong các boong ke tại đó Nhưng thông tin này không phải để cho họ. Em mất bao nhiêu thời gian để lái xe về nhà mẹ?

– Khoảng bốn tiếng, Osman nói.

– Em có tám tiếng để đến đó và quay lại đây. Hãy nói với mẹ gói ghém mọi thứ quý giá nhất vào xe ôtô của bố. Mẹ có thể lái xe – không tốt lắm nhưng được. Mẹ có thể mang theo Talat và về làng của Talat. Mẹ nên tìm chỗ trú ẩn ở bộ lạc của Talat cho đến khi một trong hai chúng ta liên lạc với mẹ. Hiểu chưa nào?

– Rồi. Em sẽ trở về vào lúc sáng sớm. Tại sao?

– Trước khi trời sáng. Ngày mai anh sẽ dẫn đầu đội máy bay MIG bay sang Iran. Những người khác sẽ đi trước. Đó thật là một chiến thuật điên rồ của Rais để bảo vệ những máy bay chiến đấu tốt nhất của mình. Chẳng có nghĩa gì cả, dĩ nhiên là như thế, nhưng nó có thể cứu sống bọn anh. Em sẽ đi cùng với anh.

– Em tưởng MIG 29 chỉ có một chỗ ngồi thôi chứ?

Anh còn có một cái dành cho tập luyện với hai chỗ. Loại UB. Em sẽ được ăn mặc như một sĩ quan Không quân. Nếu may mắn, chúng ta có thể đi được bằng cách đó. Giờ thì đi đi.

Mike Martin đang đi bộ về hướng tây trong đêm đó dọc theo đường Ar-Rutba khi chiếc xe chở Osman Badri đi vượt qua anh, hướng về phía Baghdad. Không ai nhận ra người kia. Đích đến của Martin là chỗ nối tới của dòng sông, còn cách đó 15 dặm đường. Tại đó, vì cầu đã bị hạ, xe tải có thể phải đứng chờ phà, và anh có cơ hội rất tốt để cho tiền một tài xế khác để đưa anh đi xa hơn về phía tây.

Gần sáng anh quả có tìm được một chiếc ôtô, nhưng nó chỉ có thể mang anh đến một nơi ngay trên Muhammadi. Đến đó sẽ lại phải chờ tiếp. Ba giờ sáng chiếc xe của đại tá Badri lại tăng tốc quay trở lại.

Anh không thương nó chút nào, không hề dừng lại Người lái rõ ràng là đang rất vội. Ngay trước khi trời sáng một chiếc xe tải thứ ba tới, dừng lại ở bên một đường cao tốc lớn, và dừng lại cho anh lên.

Anh lại trả tiền cho người tài xế từ kho tiền dinar của mình, đủ để mọi người nghĩ đã đưa cho anh ở Mansour. Sáng sớm, anh nghĩ vậy, người nhà Kulikov có thể thông báo đã mất người làm vườn của mình.

Việc tìm kiếm anh có thể làm lộ ra cuốn sổ ghi chép giữa tấm đệm – một thứ thật không hay ho gì với một kẻ mù chữ – và tìm tiếp có thể thấy máy phát dưới mái nhà. Khoảng giữa ngày, việc truy lùng sẽ bắt đầu, khởi đầu ở Baghdad nhưng sẽ lan rộng ra toàn quốc. Khoảng đến đêm, anh cần phải ở đủ xa trong sa mạc, đi thẳng về hướng biên giới.

Chiếc xe tải trong đó anh đang ngồi đang ở trên KM 160 khi chiếc máy bay MIG 20 bắt dầu cất cánh. Osman Badri đang kinh hoàng, như những người khác lần đầu bay. Trong các hầm ngầm của căn cứ, anh đã đứng bên cạnh anh trai mình với bốn phi công trẻ khác sẽ cùng bay trong phi vụ. Phần lớn những người cùng độ tuổi Abdelkarim đều đã chết; chỉ còn những người trẻ hơn, kém anh đến cả chục tuổi, rời trường học chưa được bao lâu. Họ lắng nghe với sự chú ý cao độ người chỉ huy đội bay của mình và gật đầu ra dấu tuân lệnh.

Trong chiếc MIG, ngay cả khi đã buộc chặt dây, Osman vẫn nghĩ mình chưa từng nghe thấy tiếng gầm nào giống như thế, trong không gian đóng kín, hai động cơ phản lực RD 33 của Liên Xô chạy lên hết công suất. Ngồi rúm ró ở đằng sau anh trai mình, Osman nhìn thấy những cánh cửa kiên cố mở ra với những pít tông thuỷ lực và một bầu trời xanh nhợt nhạt ở cuối hầm. Tiếng ồn tăng lên khi viên phi công chạy băng qua cổng và lao lên, và chiếc máy của người Liên Xô gầm rú lao lên bầu trời. Khi phanh đã dừng lại, Osman nghĩ mình đã bị một con la đá hậu lao về phía sau. Chiến MIG nhảy lên trước, những bức tường bị băng qua, và lao khỏi bệ phóng để bay vào ánh sáng của buổi bình minh.

Osman nhắm chặt mắt và cầu nguyện. Tiếng bánh máy bay quay đã dừng lại, anh thấy như mình bị co thắt lại, và mở mắt ra. Họ đã ở trong không trung, chiếc máy bay đã ở trên KM 160 trong khi bốn chiếc khác đang rời khỏi đường hầm ở bên dưới. Khi các cánh cửa đóng lại, căn cứ đã ngừng tồn tại. Xung quanh anh, vì chiếc UB là một máy bay tập luyện, là những thứ khoá, nút bấm, cần gạt, màn hình, nút bấm, và cần đẩy Giữa chân anh là một cần số. Anh trai anh đã nói anh để mọi thứ nguyên đấy, mà anh thì lại thích làm gì đó. Lên đến độ cao 1000 fít đội bay gồm 5 chiếc MIG tạo thành một dường cong, bốn phi công trẻ phía dưới viên chỉ huy đội bay. Anh trai anh đang trên đường đi thẳng về phía nam lệch sang đông, giữ mình bay ở thấp, hy vọng tránh được sự do thám và đi qua vùng ngoại ô phía nam của Baghdad, thoát khỏi sự dò tìm của người Mỹ trong những nhà máy và các hình ảnh ra đa khác. Đó là một canh bạc nhiều rủi ro, cố tránh khỏi các ra đa của AWACS bay trên vùng Vịnh, nhưng anh không còn lựa chọn nào khác. Những mệnh lệnh xuống anh rất chính thức, và giờ đây Abdelkarim Badri đã có một lý do phụ khác để mong đến được Iran.

Sáng hôm đó anh gặp may, loại may mắn không mấy khi đến trong chiến tranh. Vào cuối chặng đường ở vùng Vịnh, AWACS phải quay về căn cứ của mình và được thay bằng cái khác. Việc này được gọi là đi ta xi. Trong khi thay thế như vậy, có một khoảng thời gian khi rađa dò sóng ngừng làm việc. Chuyến bay thấp của những chiếc MIG qua nam Baghdad và Salman Pak rơi đúng vào lúc nghỉ may mắn đó. Viên phi công Iraq hy vọng bằng cách giữ độ cao 1000 fít. anh có thể bay ở bên dưới các máy bay chiến đấu của Mỹ, thường bay ở độ cao 20000 fít và cao hơn. Anh muốn đến được bên ngoài thành phố Al Kut ở phía bắc, rồi đi thẳng một cách an toàn tới biên giới Iran ở điểm gần nhất.

Sáng hôm đó, vào giờ đó, đại úy Don Walker của Đội bay chiến thuật số 336 bay từ sân bay Al Kharz dẫn đầu đội bay gồm bốn chiếc Strike Eagle đi về phía bắc hướng Al Kut, nhiệm vụ của anh là ném bom một câu cầu chính qua sông Tigris ngang qua đó những chiếc xe tăng của đội Vệ binh Cộng hòa đã bị một chiếc J-STAR bay hướng nam Kuwait phát hiện ra. Đội 336 đã chủ yếu tốn thời gian trong cuộc chiến tranh trong những nhiệm vụ buổi đêm, nhưng chiếc cầu phía bắc Al Kut có thể là một “fix nhanh”, có nghĩa là không có thời gian để mất nếu những chiếc xe tăng Iraq sử dụng nó để đi về phía nam.

Cho nên nhiệm vụ ném bom sáng hôm đó được mang mật danh “trực tiếp Jeremiah”: tướng Chuck Horner muốn nó được thực hiện, và ngay lập tức.

Những chiếc Eagle đang lao đi với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối cùng với các tên lửa không đối không. Vì việc đặt vị trí của các cột bom ở dưới cánh chiếc Eagle, trọng tải trở nên mất cân bằng, những quả bom ở một bên sẽ nặng hơn là những hỏa tiễn Sparrow ở bên kia. Điều này được gọi là trọng tài chó chết. Có điều khiển tự động lo cho việc đó, nhưng đó vẫn là loại trọng tải mà hầu hết phi công đều không muốn chọn khi phải đối mặt với kẻ thù.

Cũng như những chiếc MIG, giờ đang bay ở độ cao 500 fit nhìn thẳng xuống phía dưới, đang tiến về phía tây, những chiếc Eagle đang đi về phía nam, cách đó 800 dặm.

Chỉ dẫn thứ nhất mà Abdelkanm Badri có được về sự có mặt của họ là một tiếng động ì ầm nhỏ trong tai-mình. Em trai anh ở đằng sau không hề biết chuyện gì xảy ra, nhưng các phi công chiến đấu thì biết. Chiếc MIG dành cho tập luyện đang dẫn đầu, bốn chiếc đi kèm đang đi ngay sau tạo thành hình chữ V Tất cả đều nghe thấy tiếng động đó.

Tiếng ồn nhỏ đến từ RWR của họ – máy nhận cảnh báo từ ra đa. Điều đó có nghĩa là có các ra đa khác đang ở đâu đó, quét lên nền trời.

Bốn chiếc Eagle có rada của mình trong hệ thống kiểm tra, những tín hiệu radio ở phía trước họ đều nhìn thấy là có. Những máy nhận cảnh báo rađa của Liên Xô đã nhận ra các tín hiệu đó và đang nói lại cho các phi công của mình. Những chiếc MIG không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục bay. Ở độ cao khoảng 500 fít họ đã ở dưới những chiếc Eagle khá nhiều và đang đi ngang qua tầm bắn của những chiếc đó.

Cách 60 dặm, tiếng ồn trong tai các phi công Iraq to dần thành tiếng ồn rất lớn. Điều này có nghĩa các RWR nói với họ: ai đó ở đằng kia đã bỏ chế độ tìm kiếm và đang lao về phía các anh.

Sau Don Walker, người wizzo Tim của anh nhìn thấy thay đổi trên màn hình ra đa. Từ một máy quét ra đa tinh vi, những chiếc ra đa của Mỹ đã bật lên, thu hẹp dần dải quét và chỉ tập trung vào cái mình đã phát hiện được.

– Chúng ta có năm chiếc máy bay chưa thể xác định của bên nào, thấp dưới mười độ. người wizzo thì thầm, và bật IFF. Những người wizzo khác trong đội hình bay cũng làm như vậy.

Sự định vị Bạn hay Thù là một kiểu chuyển tin được mọi máy bay chiến đấu sử dụng. Nó gửi đi một sóng với các tần số nào đó, sẽ được thay đổi hàng ngày. Các máy bay chiến đấu cùng một bên sẽ nhận được xung lực đó và trả lời: “Tôi là bạn”. Máy bay đối phương không thể làm như thế. Năm tiếng bịp trên màn hình ra da đang dò tìm hàng dặm phía trước và đang tiến lại gần khu vực có thể năm chiếc máy bay bạn đang quay trở lại từ một phi vụ – hoặc đúng hơn, từ nơi không xa những máy bay Liên quân khác trên bầu trời chứ không phải của Iraq.

Tim hỏi các máy bay lạ theo kiểu 1,2,3,4. Không có câu trả lời

– Bọn địch đấy, anh ta báo cáo. Don Walker, chuyển kim báo tên lửa lên rađa, thì thầm: “Sẵn sàng” với ba phi công khác, đang căng thẳng nhìn ra trước và lao lên.

Abdelkarim Badri đang ở thế bất lợi, và anh biết điều đó. Anh biết điều đó kể từ thời điểm người Mỹ dang tiến dần về phía anh. Anh biết mà không cần chiếc IFF nào phải báo với anh rằng những máy bay lạ đó không thể là người Iraq anh em. Anh biết đã bị đối phương định vị, và anh biết các đồng nghiệp trẻ tuổi của mình có thể không hề biết chuyện đó. Bất lợi của anh nằm ở chiếc MIG anh đang lái. Vì đó là loại bay huấn luyện, dạng duy nhất có hai chỗ ngồi, nó không bao giờ được dành cho chiến đấu. Rađa của đại tá Badri chỉ có 60 độ ngoài đỉnh. Anh không thể nhìn thấy ai đang tiến lại gần mình.

– Anh có gì vậy? anh hất hàm về phía người cùng bay. Câu trả lời đầy hồi hộp và kinh hoàng.

– Bốn máy bay địch, cao hơn ba độ, đang lao xuống rất nhanh.

Thế là canh bạc đã thất bại. Người Mỹ không bao giờ lao xuống từ bầu trời từ phía nam, chủ đích lao vào họ ngay trên không trung.

– Lao xuống, xuống nhanh lên, đi về sau, hướng về phía Iran, anh gào lên.

Các phi công trẻ không cần đợi chờ gì để ngừng lại. Từ các ống khói của những chiếc phản lực của mỗi chiếc MIG một làn khói dày đặc bắn ra, đưa các phi công vượt tốc độ âm thanh và gần như lao đi với vận tốc gấp đôi.

Mặc kim báo nhiên liệu đã tăng vọt lên. những chiếc máy bay một chỗ có thể bay được xa đủ để tránh người Mỹ và vẫn có thể đến được Iran. Việc họ lao đi trước sẽ tránh cho họ bị các máy bay Mỹ đuổi kịp, cho dù họ đã ở gần kề.

Abdelkarim Badri không có lựa chọn đó. Khi làm các máy bay huấn luyện, các kỹ sư Liên Xô đã không chỉ đưa vào một ra đa đơn giản, mà còn gắn thêm vào trọng tải của người tập luyện và khoang ngồi của anh ta, họ do đó phải giảm bớt khả năng nhiên liệu bên trong.

Viên đại tá phi công đang bay ở rất xa những chiếc máy bay tiếp nhiên liệu, nhưng như thế vẫn còn chưa đủ. Anh có bốn lựa chọn. Nó khiến anh mất hơn hai giây để thực hiện.

Anh có thể chuyển sang chế độ tăng tốc, thoát khỏi các máy bay Mỹ, và quay trở về căn cứ Iraq, nơi đó anh sẽ bị bắt và sớm hay muộn sẽ bị đưa đến chỗ AMAM để bị tra tấn và sẽ chết.

Anh có thể tăng tốc và tiếp tục bay đến Iran, tránh được người Mỹ nhưng hết nhiên liệu ngay sau khi vượt được biên giới Ngay cả khi anh và em trai anh nhảy ra được ngoài một cách an toàn, họ vẫn có thể rơi vào các bộ lạc Ba Tư, những người đã chịu đựng khủng khiếp trong chiến tranh Iran-Iraq từ những chuyến hàng do máy bay Iraq thả xuống đầu họ.

Anh có thể tăng tốc tránh những chiếc Eagle, rồi bay về phía nam để sang A rập Xêut và trở thành một tù binh. Anh không mong gì sẽ được đối xử tử tế.

Có một câu thơ đi vào trong óc anh từ lâu rồi, những câu thơ anh học được ở trường của ông Hartley ở thành phố Baghdad thời anh còn là cậu học trò. Của Tennyson? Wordsworth? Không. Macaulay, đúng rồi, Macaulay, điều gì đó về một người dàn ông trong khoảnh khắc cuối đời mình, điều gì đó mà anh đã đọc to ở trong lớp học.

Với mỗi người trên thế gian này

Cái chết sẽ đến không sớm thì muộn

Và bằng cách nào ai đó có thể chết tốt đẹp hơn

Là đối mặt với những điều xấu xa đáng sợ

Với tro di hài của cha ông anh ta

Và những đền thờ của thánh thần của anh ta ?

Badri đẩy cần gạt qua cánh cổng để chuyển sang chế độ tăng tốc, lao chiếc MIG Fulcrum vào đường vòng lớn, và lao lên để đối đầu với người Mỹ.

Ngay khi anh quay đầu, bốn chiếc Eagle đã lọt vào tầm rada của anh. Hai chiếc đã được định vị, đang tiến xuống sau chiếc máy bay hai chỗ ngồi đang bay, cả hai đều đang phóng rất nhanh, trên tốc độ âm thanh.

Nhưng người chỉ huy đội bay Mỹ đang tiến thẳng xuống lao vào anh. Badri cảm thấy sự rung chuyển khi chiếc Fulcrum đạt tốc độ siêu thanh, khiến cột chỉ huy biến thành một màn rung, và lao lên tìm chiếc Eagle đang lao xuống thẳng vào anh.

– Chúa tôi, hắn lao thẳng vào chúng ta! Tim nói từ băng ghế sau. Walker không cần được nhắc. Màn hình ra đa của anh cho anh thay bốn nháy đã biến mất của đội bay Iraq đang chuyển hướng sang Iran và chỉ còn một chiếc trong số đó đang lao thẳng về anh. Chiếc máy kêu lên như tiếng chuông báo thức đã ngoài tầm kiểm soát. Còn cách khoảng 30 dặm, họ lao thẳng vào nhau với vận tốc 2200 dặm một giờ. Anh vẫn chưa nhìn rõ được chiến Fulcrum, nhưng sẽ không còn lâu la nữa dâu.

Trong chiếc MIG, đại tá Osman Badri đã hoàn toàn mất ý niệm. Anh không hiểu gì hết về điều dang diễn ra. Việc đột ngột tăng tốc đã đẩỵ anh bắn ra đằng sau lần nữa. và việc quay vòng ngược lại khiến anh chết giấc mất mấy giây.

– Điều gì đang xảy ra vậy? anh gào vào mặt nạ của mình, không hề hay biết nút tắt tiếng đã được bật, nên anh trai không thể nghe thấy anh nói gì.

Ngón tay Don Walker đang chỉ vào nút điều khiển tên lửa. Anh có hai lựa chọn: tên lửa tầm xa AIM-7, được rađa hướng dẫn từ chính chiếc Eagle, hoặc quả Sidewinder AIM – 9 tầm ngắn, là kiểu dò mục tiêu theo nhiệt lượng.

Còn cách 15 dặm anh đã có thể nhìn thấy nó, cái chấm đen nhỏ xíu đang lao thẳng vào anh. Hai cánh sải rộng cho thấv đó là một chiếc MIG 29 Fulcrum – một trong số những máy bay chiến đấu lao thẳng tốt nhất thế giởi ở bên tay phải. Walker không biết dược anh đang đối mặt với một chiếc dành cho huấn luyện không được trang bị vũ khí. Điều anh biết là nó có thể chở theo tên lửa AA-10 của Liên Xô, với tầm bắn dài bằng những quả AIM-7 của anh. Do đó anh đã chọn tên lửa Sparrow.

Còn cách 12 dặm anh bắn thẳng hai quả Sparrow ra trước. Những quả hỏa tiễn bay đi, hướng theo sự chỉ dẫn của rađa nhận được năng lượng từ chiếc MIG và ngoan ngoãn lao thăng về hướng dó.

Abdelkarim Badri nhìn thấy chớp sáng khi hai quả Sparrow rời chiếc Eagle, chỉ còn để lại cho anh thêm vài giây sống trừ khi anh có thể khiến cho người Mỹ ngừng tay lại. Anh lùi người sang bên trái và hạ một bậc. Don Walker vẫn thường tự hỏi điều đó có thể giống gì. Và giờ đây anh đã hiểu. Từ dưới cánh của chiếc MIG bay ra một chớp ánh sáng. Nó giống như một bàn tay lạnh lùng đang gỡ ra, cái cảm giác lạnh lẽo, tê cứng của nỗi sợ hãi ghê gớm. Một người khác đã bắn hai quả tên lửa vào anh. Anh nhìn chằm chằm vào cái chết chắc chắn đang ở ngay trưởc mặt.

Hai giây sau khi bắn ra hai quả tên lửa Sparrow. Walker những muốn đã từng chọn những quả Sidewinder. Lý do thật đơn giản: chiếc Sidewinder là những quả tên lửa nổ và biến đi, nó có thể tìm ra mục tiêu mà không biết chiếc Eagle ở đâu.

Những quả Sparrow cần chiếc Eagle phải hướng dẫn chúng, nếu anh bỏ đi, những quả tên lửa, không có người hướng dẫn, có thể “xịt”, hoặc đi lang thang trên trời cho đến khi rơi xuống mặt đất một cách vô hại.

Anh chỉ còn một tích tắc nữa là ấn nút thôi thì nhìn thấy những quả tên lửa do chiếc MIG bay ra rơi thẳng xuống phía dưới. Kinh ngạc anh nhận ra chúng hoàn toàn không phải là những quả hỏa tiễn; tên Iraq đã lừa anh bằng cách bắn các thùng xăng dưới cánh vào anh. Các thùng nhôm đựng xăng đã bắt ánh nắng mặt trời buổi sáng trong khi chúng rơi ra, lấp lánh như đuôi những quả hỏa tiễn được phóng ra. Đó là một trò lừa đảo, và anh, Don Walker, đã suýt nữa thì mắc bẫy.

Trong chiếc MIG Abdelkanm Badri nhận ra tên người Mỹ không chịu lùi bước. Anh đã thử thần kinh của đối thủ, nhưng anh đã thua. Trên băng ghế sau Osman đã tìm thấy nút đàm thoại. Anh có thể nhìn được bằng cách nhìn qua vai anh mình rằng họ đang lao xuống, đã xuống hàng dặm rồi.

– Chúng ta đi đâu thế này? anh gào lên. Điều cuối cùng anh nghe thấy là giọng nói của Abdelkarim, khá bình thản:

– Đến với sự yên bình, em trai của anh ạ. Đến gặp cha. Allah-o-Akhabar.

Đúng lúc đó Walker nhìn thấy hai quả Sparrow phát nổ, những mẩu lớn lửa đỏ cách đó 3 dặm, rồi những mảnh vỡ của chiếc máy bay chiến đấu Liên Xô rơi xuống vùng đất phía dưới.

Anh cảm thấy mồ hôi lạnh toát đầm đìa đầy người. Người cùng bay với anh, Randy Roberts, người đã giữ vị trí bên trên và đằng sau anh, xuất hiện ở bên cánh phải, bàn tay đeo găng trắng giơ lên với ngón tay cái dựng lên. Anh trả lời bằng cách đó, và hai chiếc Eagle, đã rời bỏ sự rượt đuổi vô vọng những chiếc MIG còn lại, bay lên trên để tiếp tục đến cây cầu trên Al Kut.

Với tốc độ của những chiếc máy bay chiến đấu, toàn bộ sự việc, kể từ khi ra đa được bật lên cho đến khi tiêu diệt xong chiếc Fulcrum, chỉ kéo dài đúng 30 giây đồng hồ.

Kẻ chỉ điểm có mặt ở ngân hàng Winkler vào đúng 10 giờ sáng hôm đó, có người “kế toán” đi cùng. Người trẻ hơn cầm theo một cái cặp tài liệu có chứa 100.000 đôla Mỹ tiền mặt. Tiền trên thực tế là một khoản vay nóng do người sayan làm ngành ngân hàng dàn xếp, người đã được cho biết số tiền đó sẽ được gửi vào ngân hàng Winkler trong một thời gian, rồi sẽ được lấy về và đem trả lại cho anh ta.

Khi nhìn thấy tiền, Herr Gemuetlich thấy thật thoải mái. Ông có thể kém nhiệt tình hơn nhiều nếu nhận ra những đồng đôla đó chỉ chứa trong phân nửa bề dày của cái cặp tài liệu, và ông có thể còn phải kinh hoàng thấy cái đang nằm ở tận đáy chiếc cặp giả.

Vì lý do kín đáo, người kế toán yêu cầu không để cô Hardenberg vào phòng trong khi người luật sư và ông chủ nhà băng thống nhất những mật mã cho tài khoản mới.

Người kế toán chịu trách nhiệm về hoá đơn và tiền, và khoảnh 11 giờ vấn đề đã được giải quyết. Herr Gemuetlich triệu tập người lục sự để đi theo các vị khách đến hàng lang và ra đến cửa ngoài. Trên đường đi xuống người kế toán thì thầm điều gì đó vào tai viên luật gia người Mỹ, và người luật gia dịch lại cho viên lục sự. Với một nút bấm của người lục sự đã dừng chiếc thang máy cổ lỗ sĩ ở tầng đệm và ba người đi ra ngoài.

Luật sư chỉ vào cánh cửa phòng vệ sinh nam cho đồng nghiệp của mình, và anh chàng kế toán đi vào. Luật sư và viên lục sự vẫn đứng ở bậc đệm bên ngoài phòng.

Đúng lúc đó vang đến tai họ âm thanh hoảng hốt trong hành lang, rõ ràng bởi vì tầng đệm chỉ cách hành lang có 20 fít và thấp hơn 15 bậc thang gác. Lẩm bẩm xin lỗi viên lục sự chạy thẳng ra hành lang cho đến khi anh ta có thể nhìn từ đầu đoạn cầu thang xuống toàn bộ các bậc thang bằng đá để xem việc gì xảy ra.

Đó là một cảnh tượng kinh hoàng. Bằng cách nào đó ba tên ma cà bông, say khướt, dã đi vào trong hành lang và đang đòi tiền người tiếp tân để đi uống rượu tiếp. Cô ta sau đó chỉ có thể kể lại rằng bọn họ đã lừa cô mở cửa bằng cách nói mình là nhân viên bưu điện.

Thật là nhục nhã, viên lục sự tức tốc tìm cách đẩy những tên hooligan ra ngoài. Không ai nhận ra là một trong ba kẻ đó, khi đã vào được, đã ném một hộp thuốc lá vào khe cửa nên dù đã đóng được nhưng tiếng quát tháo vẫn lọt vào. Cũng không ai để ý, trong khi đang xô đẩy nhau, một người thứ tư đã bò vào trong hành lang. Khi đứng dậy, anh đã đứng cùng vị luật gia từ New York, người đã theo viên lục sự đi xuống từ trên thang gác xuống đến hành lang.

Họ đứng một bên viên lục sự đang đẩy ba tên say về nơi của chúng – trên hè phố. Khi anh ta quay nhìn quanh, người lục sự của ngân hàng nhìn thấy vị luật sư và người kế toán đã đi xuống khỏi tầng đệm cùng với nhau. Với những lời xin lỗi cuống cuồng, anh ta mời họ đi ra khỏi ngân hàng.

Khi đã ra đến ngoài phố, viên kế toán thở ra một tiếng.

– Tôi hy vọng không bao giờ phải làm thế này nữa, anh ta nói .

– Đừng lo, luật gia nói. Anh làm khá tốt đấy.

Họ nói bằng tiếng Do Thái, bởi vì viên kế toán không biết thứ tiếng nào khác nữa cả. Trên thực tế anh ta là một người làm cho ngân hàng ở Beershe’eva, và lý do duy nhất anh ta có mặt ở Vienna, trong công vụ đóng giả đầu tiên và duy nhất của mình, là do anh ta trông khá giống với người phá khoá, người giờ đây đã đứng bất động trong bóng tối của nhà vệ sinh trên tầng đệm. Anh ta sẽ phải nín thở đứng đó 12 tiếng đồng hồ.

Mike Martin đến Ar-Rutba vào giữa trưa. Anh mất 20 tiếng đồng hồ để di qua khoảng cách mà nếu đi bằng ôtô thì chỉ mất không hơn 6 tiếng.

Tại vùng ngoại ô của thành phố anh tìm thấy một người nông dân với một đàn dê và khiến anh ta có vẻ gì đó kỳ bí nhưng khá hạnh phúc khi được đề nghị bán bốn con trong số chúng với toàn bộ số dinar còn lại trong tay, với giá gấp đôi mà người nông dân có thể bán được ở chợ.

Những con dê cũng có vẻ sung sướng lại được đi ra sa mạc, ngay cả khi chúng giờ đây đã bị choàng dây buộc cổ. Chúng khó có thể đoán trước có thể chúng chỉ có ở đó để giải thích tại sao.

Mike Martin lại đi lang thang quanh sa mạc ở phía nam con đường dưới ánh mặt trời giữa trưa. Vấn đề của anh là không có la bàn – nó đang nằm lại với các loại đồ đạc của anh, ở bên dưới những tấm tôn trần nhà ở Mansour. Sử dụng ánh mặt trời và chiếc đồng hồ rẻ tiền của mình, anh tìm kiếm cố hết sức có thể được để đi được từ tháp phát thanh của thành phố để đến wadi nơi xe mô tô của anh đang được chôn giấu.

Lại mất 5 dặm lang thang nữa, bị chậm lại bởi lũ dê, nhưng chúng cũng đáng giá bởi đã hai lần anh nhìn thấy bọn lính đang nhìn chằm chằm vào anh từ con đường cho đến khi anh đi khuất. Nhưng chúng không làm gì cả.

Anh tìm thấy wadi bên phải vào lúc mặt trời đang xuống, nhận ra những dấu hiệu để lại trên các tảng đá gần đó, và anh đứng đó cho đến khi ánh sáng lóe lên trước khi bắt đầu tắt lịm. Những con dê sung sướng đi dạo nhởn nhơ.

Nó vẫn còn ở đó, được gói vào trong cái túi nylông, một chiếc Yamaha vượt địa hình 125 phân khối, toàn thân màu đen, với những cái giỏ để đựng thêm các bình xăng dự trữ. Cái la bàn được chôn ở đó, cộng thêm một khẩu súng ngắn và đồ ăn.

Anh gài khẩu súng tự động vào bên mình. Kể từ lúc đó, không còn vấn đề gì để sợ hãi nữa; không người nông dân Iraq nào có thể chạy loại máy móc này. Nếu anh bị bắt chợt, anh có thể bắn súng và trốn thoát.

Anh lái xe suốt đêm, cố tận dụng tối đa thời gian những chiếc Land-Rover không thể đi được. Với bụi cát anh có thể tăng tốc băng qua những chỗ bằng phẳng và lái chiếc xe về những chỏm đá của các wadi, sử dụng động cơ và chân để đẩy.

Nửa đêm anh đổ thêm xăng và dừng lại uống nước ăn vài viên đạm để trong cái túi. Rồi anh lái tiếp về phía nam để đến biên giới Arập Xêut.

Anh không hề biết khi nào thì vượt qua biên giới. Đó là cả một vùng đất hoang vu không dấu hiệu gì đặc biệt toàn đá và cát, hang hốc và đá vụn, và với chuyến đi hình zigzag anh đang thực hiện, không có cách nào biết được anh đã đi được bao nhiêu dặm đường.

Anh cho rằng mình đã sang được Arập Xêut khi anh đến Tapline Road, con đường cao tốc duy nhất ở vùng đó. Địa hình trở nên dễ đi hơn, và anh đi được tới 20 dặm một giờ khi anh nhìn thấy chiếc xe.

Anh không mệt mỏi, anh có thể phản ứng nhanh hơn, nhưng anh đang cảm thấy tê dại và suy nghĩ cũng chậm chạp đi.

Bánh trước chiếc xe lao vào dây thép, và anh ngã ra, rơi xuống cho đến khi chạm lưng xuống. Khi mở mắt nhìn lên anh nhìn thấy một khuôn mặt đang đứng phía trên và một họng súng thép.

– Bouge pas, mec. (Đừng có động đậy, anh bạn)

Không phải tiếng Arập. Anh cố vận động trí óc mệt mỏi của mình. Cái gì đó như là đã lâu lắm rồi. Haileybury, một thầy giáo kém may mắn nào đó của trường học đã cố dạy anh những thứ phức tạp rối rắm của tiếng Pháp.

– Ne tirez pas, (Đừng bắn) anh nói chầm chậm. Je suis Anglais. (Tôi là người Anh)

Chỉ có ba trung sĩ trong đội quân lê dương Pháp, và một trong số đó tên là Mccullin.

– Anh đang ở đâu ấy à? Anh ta nói bằng tiếng Anh. Rồi, anh tốt hơn là đừng có đâm vào xe chỉ huy chứ. Và tôi sẽ phải sửa pit tông thôi, nếu anh không có ý kiến gì.

Đội tuần tra Lê dương đang ở phía tây của vị trí được chỉ định của họ trong hàng lối Liên quân, đang đi kiểm tra Tapline Road để ngăn chặn những kẻ xâm nhập từ Iraq có thể có. Với trung sĩ Mccullin làm thông ngôn, Martin giải thích cho viên trung uý người Pháp rằng anh trở về từ một công vụ bên trong Iraq.

Điều này có vẻ dễ chấp nhận đối với đội quân Lê dương: làm việc sau các trận tuyến là một trong số các chuyên môn của họ. Tin tốt lành là họ có điện đàm.

Người phá khoá kiên nhẫn đợi trong bóng tối của phòng để chổi qua hết ngày thứ ba và cho đến đêm. Anh ta nghe thấy nhiều nhân viên vệ sinh nam đi vào phòng vệ sinh, làm việc thúc bách, và rời đi.

Qua tường anh có thể nghe thấy đôi khi thang máy kêu lạo xạo đi lên đi xuống. Anh ngồi lên trên cái cặp của mình, lưng dựa vào tường, và đôi khi liếc nhìn chiếc đồng hồ dạ quang của mình để xem giờ giấc trôi qua.

Khi quá năm giờ hơn gần sáu giờ anh nghe tiếng các nhân viên đi ra hành lang để về nhà. Anh biết là vào sáu giờ người gác đêm sẽ đến, viên lục sự sẽ tiếp anh ta, sau đó sẽ kiểm tra mọi nhân viên đi qua bàn của mình theo danh sách trong ngày.

Khi người lục sự đi về sau sáu giờ, người gác đêm sẽ đóng cửa trước lại và bật hệ thống còi báo động. Rồi anh ta sẽ ngồi xem chiếc vô tuyến xách tay luôn mang theo hàng tối và xem các chương trình trò chơi cho đến khi phải đi kiểm tra vòng một.

Theo đội yarid, ngay cả các nhân viên vệ sinh cũng bị giám sát. Họ chỉ làm việc các nơi chung – sảnh, cầu thang, và phòng vệ sinh – trong các đêm thứ hai, thứ tư, và thứ sáu, nhưng vào đêm thứ ba người phá khoá có thể ở đó mà không vấn đề gì Các ngày thứ bảy họ trở lại để lau dọn các phòng làm việc dưới sự giám sát của người lục sự, người lúc nào cũng sẽ kè kè bên cạnh họ.

Thói quen của người gác đêm có vẻ như bao giờ cũng vẫn thế. Anh ta đi kiểm tra toà nhà ba lần, kiểm tra mọi cánh cửa, vào mười giờ tối, hai giờ sáng và năm giờ sáng. Khoảng thời gian giữa thời điểm anh ta đến và lần đi kiểm tra đầu tiên, anh ta xem vô tuyến và ăn món súp mang theo. Trong khoảng thời gian trong dài nhất, giữa mười giờ và hai giờ, anh ta bật một chiếc đồng hồ báo thức để báo cho anh ta dậy vào lúc hai giờ sáng. Người phá khoá đợi để thực hiện vụ ăn cắp của mình trong khoảng thời gian này.

Anh ta đã từng tận mắt nhìn thấy phòng làm việc của Gemuetlich và cánh cửa quan trọng dẫn vào đó. Cánh cửa đó bằng gỗ dày nhưng thật may là không hề gắn thiết bị báo động. Cửa sổ thì có báo động, và anh ta đã nhận ra những sợi dây nhỏ giữa cái hộp và cái thảm.

Đúng mười giờ anh ta nghe thấy tiếng thang máy đi lên trên, nghĩa là người gác đêm bắt đấu vòng đi kiểm tra đầu tiên của mình các cánh cửa phòng làm việc, bắt đầu từ tầng trên cùng và đi xuống từng tầng một. Nửa tiếng đồng hồ sau, người đàn ông đứng tuổi đó kết thúc, thò đầu vào phòng vệ sinh nam, bật đèn lên để kiểm tra cái cửa sổ có chấn song và hệ thống báo động, đóng cửa lại, và quay trở về bàn của mình với trò giải trí ưa thích. Tại đó anh ta chọn xem chương trình trò chơi muộn.

Vào lúc 10 giờ 45 người phá khoá, trong bóng tối mịt mùng, rời khỏi phòng vệ sinh và đi lên thang gác cho đến tầng bốn.

Cửa phòng làm việc của Herr Gemuetlich làm anh ta mất đến mười lăm phút mới mở được. Cuối cùng khoá cũng quay, và anh ta bước vào trong phòng. Mặc dù anh ta đeo một dải băng trên đầu có gắn một chiếc đèn pin nhỏ xíu, anh vẫn phải lấy một cái khác, có vòng sáng toả rộng hơn để quan sát toàn bộ căn phòng. Trong ánh sáng của cái đèn, anh ta có thể tránh được hai sợi dây và lại gần cái bàn từ phía không có bảo vệ. Rồi anh ta tắt nó đi và chỉ còn dựa vào ánh sáng của cái đèn nhỏ như cây bút.

Khoá của ba ngăn kéo trên cùng không thành vấn đề – chỉ là những ngăn nhỏ bằng đồng già cả hàng trăm năm nay. Khi ba ngăn tủ đó đã được mở, anh ta thò tay vào và bắt đầu tìm kiếm một cái chốt, một cái nút hay lẫy. Không có gì hết cả. Phải đến một tiếng sau, ở đằng sau cái ngăn thứ ba ở dưới phía bên phải, anh ta mới tìm thấy. Khi anh ta nhấn vào đó, một tiếng cách nhỏ của ổ khoá vang lên, và một dải phía dưới của cái chân bàn mở ra chừng một cm.

Cái khay bên trong khá là hẹp, chỉ nhỏ hơn một inch, nhưng cũng đủ cho hai tờ giấy mỏng. Đó là bản sao của bức thư giao quyền chỉ dành cho các tài khoản dưới sự phụ trách của Gemutlich.

Người đột nhập lấy máy ảnh ra và bấm máy, một thiết bị gồm bốn thanh nhôm giữ cho máy ảnh đứng giữ đúng khoảng cách với tờ giấy bên dưới để có được độ nét tốt nhất.

Tờ giấy trên cùng là một miêu tả phương pháp vận hành của tài khoản do kẻ chỉ điểm mở trước đó vào buổi sáng, nhân danh một người khách hàng bí mật ở Mỹ. Người mà anh ta muốn tìm ở hàng thứ bảy. Số tài khoản đã được biết – Mossad đã chuyển tiền cho tài khoản của Jericho hai năm trước khi người Mỹ tiếp quản ông ta.

Để chắc chắn, anh ta chụp ảnh toàn bộ từ mọi hướng. Sau khi đã quay cái cachette trở lại vị trí ban đầu của nó, anh ta đặt nó lại và khóa lại toàn bộ các ngăn kéo và đi ra, đóng lại cửa căn phòng làm việc sau lưng mình. Vào lúc 1 giờ 10 phút anh ta quay trở lại phòng vệ sinh nam.

Khi ngân hàng mở cửa vào sáng hôm sau, người đột nhập để cho thang máy chạy lên chạy xuống một tiếng đồng hồ, biết rằng viên lục sự không bao giờ cần đi cùng với nhân viên đi vào các văn phòng của họ. Người khách hàng đầu tiên xuất hiện vào lúc 10 giờ 10 phút. Khi thang máy đi lên ngang qua anh ta, người đột nhập rút ra khỏi phòng vệ sinh, rón rén đi đến cuối hành lang, và nhìn xuống cầu thang. Chiếc bàn người lục sự không có ai; anh ta đang ở trên tầng đi theo người khách hàng.

Người đột nhập nhấn một cái chuông hai lần. Trong ba giây cửa trước có tiếng chuông. Người tiếp tân bật máy nói và hỏi:

– Ja?

– Lieferung, một giọng nói từ tốn trả lời. Cô ta nhấn nút mở cửa, và một người đưa hàng to lớn dễ mến đi vào trong hành lang, Anh ta mang đến một bức tranh sơn dầu gói trong một tờ giấy màu nâu và nói:

– Đây này, thưa cô, đã sạch sẽ để treo lại rồi đấy.

Phía sau anh ta cửa đóng lại. Trong khi nó đang đóng lại như thế, một bàn tay chặn nó lại và luồn vào đó một đoạn giấy. Cửa lại mở ra và không đóng được nữa.

Người đưa hàng dựng bức tranh sơn dầu cạnh bàn người tiếp viên. Bức tranh thật lớn, rộng năm fit và cao bốn fít. Nó ngăn cô ta không thể nhìn được về hướng hành lang.

– Nhưng tôi chẳng biết gì về việc này cả – cô ta phản đối.

Cái đầu của người giao hàng thò vào qua mép của bức tranh.

– Thì chỉ cần ký giấy biên nhận thôi mà, thưa cô, anh ta nói, và đẩy vào trước mặt cô ta một cái bảng với mẫu ký nhận.

Trong khi cô ta xem nó, người đột nhập đi xuống các bậc thang bằng đá và đi ra đến cửa.

– Nhưng mà nó nói là Phòng tranh Harzmann cơ mà, cô ta nhận xét.

– Đúng rồi. Ballgasse, số 14.

– Nhưng chúng tôi chỉ là số 8 thôi. Đây là ngân hàng Winkler. Phòng tranh phải đi nữa cơ.

Người giao hàng bối rối xin lỗi và đi. Viên lục sự quay trở lại trên những bậc thang đá. Cô ta giải thích việc vừa xảy ra. Anh ta cau có, quay chiếc ghế của mình về phía hành lang từ chiếc bàn tiếp tân, và lại chúi mũi vào với giấy tờ.

Khi chiếc trực thăng Blackhawk chở Mike Martin về căn cứ không quân ở Riyadh vào giữa ngày hôm đó, thì đã có sẵn tại đó một hội đồng chuẩn bị sẵn để đón anh. Steve Laing có mặt ở đó, cùng với Chíp Barber. Người mà anh không nghĩ mình sẽ gặp là chỉ huy của mình, đại tá Bruce Craig. Trong khi Martin còn ở Baghdad, việc diễu hành của những người SAS ở các sa mạc phía tây Iraq đã tăng lên với đầy đủ cả hai đội bay bên ngoài Hereford. Một cái còn ở lại ở Hereford để làm đội dự bị, đội kia là các đơn vị nhỏ hơn trong các phi vụ huấn luyện khắp thế giới.

– Anh tóm được rồi chứ, Mike? Laing hỏi.

– Phải, thông điệp cuối cùng của Jericho. Không thể gửi được bằng điện đàm.

Anh giải thích ngắn ngọn tại sao và chìa ra một tờ giấy mỏng ghi báo cáo của Jencho.

– Này anh bạn, chúng tôi đã rất lo lắng khi không thể có tin tức gì của anh trong suốt 48 tiếng đồng hồ vừa rồi đấy, Barber nói. Anh đã thực hiện được một chiến tích lớn, thiếu tá.

– Chỉ là một việc thôi mà, thưa các ngài, đại tá Craig nói. Nếu anh đã kết thúc với anh ta, có thể để anh ta quay về chỗ chúng tôi được không?

Laing đang nghiên cứu tờ giấy, dịch tiếng Arập theo cách tốt nhất có thể được. Ông nhìn lên.

– Tại sao lại phải hỏi, tôi cũng nghĩ thế. Với những lời cảm ơn chân thành nhất của chúng tôi.

– Đợi một phút nào, Barber nói. Thế anh sẽ làm gì với anh ta bây giờ hả, thưa đại tá?

– Ô, một cái thùng ở sân bay, thức ăn gì đó…

– Thế thì hãy tìm một ý tưởng tốt hơn đi, Barber nói. Thiếu tá này, thế một miếng bít tết và khoai tây chiên vùng Kansas thì thế nào, một giờ trong phòng tắm hơi, và một cái giường thật êm?

– Với những cái kỳ lưng phải không, Martin cười.

– Đúng. Đại tá, người của anh có một đoàn tùy tùng ở Hyatt dọc theo phố trong suốt 24 tiếng đồng hồ, những người ở nước chúng tôi. Đồng ý không nào?

– Tốt thôi. Thế thì ngày mai gặp lại vào giờ này nhé, Mike, Craig nói.

Trong chuyến đi ngắn về khách sạn dối diện đại bản doanh CENTAF, Martin đưa cho Laing và Barber một bản dịch thông điệp của Jericho. Laing ghi chép chăm chú.

– Điều này có nghĩa là, Barber nói. Các chàng trai phi công sẽ bay tới đó và thổi bay nó đi.

Điều này đòi hỏi Chip Barber kiểm tra lại người nông dân Iraq bẩn thỉu để mặc cho anh ta bộ quần áo đẹp nhất ở Hyatt, và khi anh ta đã mặc xong đồ, Barber rời đi để đến đường tới Hố Đen.

Martin có một giờ của mình để tắm rửa, xông hơi sạch sẽ và sử dụng bọt để cạo râu và gội đầu, và khi anh đi ra, bít tết và khoai tây chiên đã ở trên một cái khay trong phòng khách. Anh đang dùng dở bữa ăn của mình thì bị giấc ngủ xâm chiếm. Anh chỉ kịp lăn vào cái giường êm ái ở phòng bên cạnh và lăn ra ngủ.

Trong khi ngủ, một số việc đã xảy ra. Những thứ quần áo, giày dép, tất vớ mới toe được chuyển đến phòng cho anh.

Tại Vienna, Gidi Barzilai đã gửi các chi tiết cụ thể về tài khoản có đánh số của Jericho cho Tel Aviv, nơi một bản sao tương tự đã được chuẩn bị sẳn với từ ngữ rất chuẩn.

Karim gặp Edith Hardenberg khi cô rời khỏi nhà băng đi về nhà, mời cô đi uống cà phê, và giải thích anh phải trở về Jordan thăm mẹ anh đang bị ốm. Cô chấp nhận lý do đó, nắm tay anh, và bảo anh phải sớm quay trở lại với cô ngay khi nào có thể.

Các mệnh lệnh đã được Hố Đen truyền đi cho căn cứ không quân ở Taif nơi một máy bay do thám TR- 1 đã chuẩn bị sẵn để cất cánh cho một phi vụ ở tận cực bắc Iraq, để chụp thêm các bức ảnh của khu sản xuất vũ khí quan trọng ở As-Sharqat.

Phi vụ được gắn thêm một nhiệm vụ mới với bản đồ mới. đặc biệt dành cho việc đi thăm và chụp ảnh một vùng đất với một dải đồi nằm ở phía bắc Jebal và Hamreen. Khi người chỉ huy đội bay phản đối sự thay đổi đột ngột đó, anh ta được cho biết các lệnh đó được xếp vào loại “bí mật Jeremiah”. Sự phản đối liền chấm dứt.

Chiếc TR- 1 cất cánh ngay sau hai giờ, và đến bốn giờ, những bức ảnh đã xuất hiện trên các màn hình trong phòng họp dưới hành lang của Hố Đen.

Hôm đó trời nhiều mây và có mưa ở Jebal, nhưng với ra da hình ảnh mới theo nhiệt, thiết bị ASARSI không sợ mây, mưa, sương mù, tuyết và bóng tối, chiếc máy bay do thám vẫn có được các bức ảnh của mình. Chúng được nghiên cứu khi được đại tá Beatty của USAF và chỉ huy bay Peck của RAF mang tới, đó là hai chuyên gia phân tích hình ảnh do thám giỏi nhất của Hố Đen.

Cuộc họp lập kế hoạch đã bắt đầu vào 6 giờ. Chỉ có 8 người có mặt. Ngồi ghế chủ toạ là đại diện của tướng Horner, cũng có ý nghĩa quyết định tương tự nhưng vui vẻ hơn là tướng Buster Glosson. Hai sĩ quan tình báo, Steve Laing và Chip Barber, có mặt ở đó bởi vì họ là những người biết được mục tiêu và biết từ đâu có lời tiết lộ đó Hai nhà phân tích, Beatty và Peck, được triệu tập để giải thích các chú giải của họ về các bức ảnh vùng đó Và còn có thêm ba sĩ quan, hai người Mỹ và một người Anh, những người có thể ghi chép những sự việc xảy ra và đảm bảo điều đó

Đại tá Beatty khai mạc vấn đề với cái đã trở thành công thức của các cuộc họp.

– Chúng ta đang có một vấn đề, ông ta nói.

– Nói rõ xem nào, vị tướng nói.

– Thưa tướng quân, thông tin cung cấp cho chúng ta một điểm tham chiếu quan trọng. Nhưng đó chưa phải là tham chiếu của SATNAV, đang quay quanh vùng đất để khoanh lại vài yard vuông. Chúng ta đang nói tới một km vuông. Để có thể chính xác hơn, chúng tôi đã mở rộng địa điểm thành một dặm vuông.

– Thế thì sao?

– Và đã có rồi đây.

Đại tá Beatty chỉ lên trên tường. Gần như toàn bộ khoảng không gian mà một bức ảnh khổ lớn chụp được, với độ phân giải cao và được máy tính xử lý rõ, rộng mỗi chiều sáu fít. Tất cả mọi người nhìn chăm chú vào đó.

– Tôi chẳng nhìn thấy gì hết cả, vị tướng nói. Toàn là núi.

– Vâng, thưa tướng quân, đó chính là vấn đề. Nó không nằm ở đây đâu.

Sự chú ý tăng đến cực điểm. Tất cả đều suy nghĩ rất lung.

– Thế thì cái gì, vị tướng chậm rãi nói, có gì ở đó nào?

– Một khẩu súng, Laing nói.

– Một khẩu súng?

– Gọi là súng Babylon.

– Tôi nghĩ người của các anh đã có tất cả các thứ đó ở giai đoạn xây dựng.

– Đúng là thế thật. Có vẻ như ai đó đã vào.

– Chúng ta chưa từng làm trước đây. Trước ai cũng nghĩ là một quả tên lửa, hoặc một căn cứ máy bay chiến đấu. Không khẩu súng nào có thể bắn được một trọng tải lớn đến thế đâu.

– Cái này thì có thể, thưa tướng quân. Tôi đã kiểm tra với London. Một nòng súng dài hơn 180 mét, đường kính đến một mét. Trọng tải hơn nửa tấn. Tầm bắn 1000 km, theo cái được sử dụng. Và tầm bắn từ đây đến Tam giác?

– 470 dặm, tức là 750 km. Thưa tướng quân, liệu các phi công của ngài có ném được một quả đạn như thế không?

– Không.

– Các tên lửa Patriot thì sao?

– Có thể, nếu nó được đặt đúng chỗ và đúng thời điểm và rơi đúng lúc. Có khả năng là không đâu.

– Vấn đề là, đại tá Beatty xen vào, súng hay tên lửa, cũng không có ở đây đâu.

– Được chôn ngầm dưới đất giống như nhà máy ở Ai Qubai à? Barber gợi ý.

– Nó được nguỵ trang với một bãi rác ôtô ở trên, chỉ huy đội bay Peck lên tiếng. Ở đây thì chẳng có gì hết cả. Không đường sá, không lối mòn, không dường dây điện, không có bảo vệ, không sân bay trực thăng, không dây thép gai, không trại lính – chỉ là một vùng đồi và núi thấp hoang vu với rất nhiều thung lũng.

– Cứ cho là, Laing trả đũa, chúng sử dụng cùng trò ở Tarmiya – đẩy chu vi bảo. vệ ra thật xa, tít ở ngoài vùng đó?

– Chúng tôi đã thử như thế rồi, Beatty nói. Chúng tôi đã nhìn ra mọi hướng xa đến 50 dặm. Không có gì – không có bảo vệ.

– Thế chỉ là một chiến dịch thất vọng thôi à? Barber đề xuất.

– Không có cách nào đâu. Người Iraq luôn luôn bảo vệ những gì thuộc về mình, ngay cả người của họ cũng thế. Xem này…

Đại tá Beatty tiến lên trước đến bức ảnh và chỉ vào một nhóm lều.

– Một ngôi làng nông dân, ngay cạnh. Khói lò, chuồng dê, những con dê đang đi ăn cỏ ở thung lũng đây này. Còn có hai làng khác ở bên ngoài nữa.

– Cũng có thể họ đào cả quả núi, Laing nói. Các ông đã từng như thế ở núi Cheyenne rồi cơ mà.

– Đó là cả một loạt những hầm hào, đường ngầm, một loạt những phòng đằng sau các cánh cửa được gia cố, Beatty nói. ông đang nói về một nòng súng dài 180 mét. Hãy thử đặt nó vào trong một quả núi, ông sẻ thấy nó lồi lên khủng khiếp thế nào. Hãy nhìn vào đây, thưa các ngài, tôi có thể nhìn thấy bãi biển, cửa hàng, mọi khu dân cư đang ở dưới ngầm, nhưng một cái nòng súng như thế thì phải ở đâu đó chứ. Làm gì có.

Tất cả lại nhìn vào bức ảnh. Trong khuông giấy có ba ngọn đồi và một phần ngọn thứ tư. Cái lớn nhất không thể nhìn thấy bởi những cánh cửa chắc chắn hoặc đi ngang qua đường.

– Nếu ở đâu đó trong này, Peck lên tiếng, thì tại sao lại ném bom san phẳng cả một dặm vuông đó đi? Điều này có thể làm rụng xuống mọi quả núi phía trên thứ vũ khí.

– Ý kiến hay đấy, Beatty nói. Thưa tướng quân, chúng ta có thể sử dụng các Buff. Hãy cho nó đánh cả một dặm vuông này.

– Tôi có thể có một đề xuất không? Barber hỏi.

– Xin mời, tướng Horner nói.

Nếu tôi là Saddam Hussein, và tôi có một thứ vũ khí giá trị như thế, tôi sẽ phải có một người chỉ huy mà tôi có thể tin cậy Và tôi sẽ ra lệnh cho ông ta rằng nếu Pháo đài chịu bất kỳ sự không kích nào, ông ta phải bắn luôn. Nói tóm lại, nếu những quả bom đầu tiên rơi vu vơ – và một dặm vuông quả là một diện tích lớn đấy – thì phần còn lại có thể sẽ trở thành bình địa trong vòng một giây thôi.

Tướng Glosson chồm lên trước.

– Chính xác ông muốn nói gì, ông Barber?

– Thưa tướng quân, nếu Cú đấm của Thượng đê’ quả có ở trong những quả đồi này, nó sẽ được giấu bằng một chiến lược với một kỹ năng cực kỳ cao. Cách duy nhất là 100 phần trăm chắc chắn nó bị phá huỷ bởi một chiến dịch tương tự. Chỉ một máy bay thôi, bay đến bất thần, mang đến một cuộc tấn công, và bắn tung mục tiêu bằng cái nút nhấn bom đầu tiên và duy nhất.

– Tôi không biết bao lần đã nói điều đó, đại tá Beatty trở nên tức giận, nhưng chúng ta không biết cái nút đó ở đâu cả – một cách chính xác.

– Tôi nghĩ đồng nghiệp của tôi sẽ nói về việc xác định mục tiêu, Laing nói.

– Nhưng điều đó có nghĩa là phải có một máy bay khác,

Peck phản đối. Giống như những chiếc Buccanneer đã làm với những chiếc Tornado. Ngay cả người xác định mục tiêu trước hết cũng phải biết mục tiêu ở đâu đã chứ.

– Thì nó làm việc với tên lửa Scud, Laing nói.

– Chắc chắn rồi, người của SAS xác định các máy bắn tên lửa, và chúng tôi thổi bay chúng đi. Nhưng chỉ có thể làm được trên mặt đất mà thôi, hàng nghìn dặm từ những quả tên lửa với ống nhòm, Peck nói.

– Chính xác là như vậy.

Im lặng mất nhiều giây.

– Các anh đang nói, tướng Glosson nói, đến chuyện đưa người vào vùng núi để cho chúng tôi mục tiêu rộng mười yard vuông.

Cuộc tranh luận kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Nhưng vẫn phải quay lại với lời biện luận của Laing.

– Thứ nhất là tìm ra nó, rồi đánh dấu nó, rồi phá huỷ nó – và tất cả những cái đó phải sao cho người Iraq không phát hiện được cho đến khi đã quá muộn.

Quãng nửa đêm một hạ sĩ của Không lực Hoàng gia đi đến khách sạn Hyatt. Anh ta không thấy có trả lời ở cửa phòng họp, nên người quản lý đêm để anh ta vào. Anh ta đi vào phòng ngủ và lay vai một người đàn ông đang ngủ trong bộ đồ ngủ ở đầu giường.

– Thưa ngài, dậy đi. Ngài được điều động, thưa thiếu tá.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.