Thiếu tướng Hassan Rahmani ngồi trong văn phòng riêng của mình ở toà nhà Mukhabarat ở Mansour uể oải quan sát các sự kiện của hai mươi tư giờ trước đó.
Việc các trung tâm quân sự và quân giới chủ chốt của đất nước anh ta đã bị xơi tái một cách có hệ thống bởi những quả bom và hoả tiễn không làm anh ta lo ngại. Những tiến triển đó, anh đã tiên liệu từ nhiều tuần trước, chỉ đơn giản làm gần lại hơn sự xâm chiếm của Mỹ và sự rơi khỏi ghế của con người đến từ Tikrit.
Đó là cái anh ta đã lên kế hoạch, đã chờ đợi, và dự định một cách tự tin, không mảy may nghi ngờ vào cái ngày giữa tháng Hai năm 1991 là sẽ không đến. Rahmani là một người rất thông minh, nhưng cũng không thể là một quả bóng pha lê không tì vết.
Vụ ném bom lúc rạng đông ngày hôm trước vào nhà máy chế tạo bom nguyên tử ở Al Qubai, được hướng lối chính xác đến nhường ấy mà không ai hiểu nổi, đã làm lung lay sức mạnh của tinh hoa Baghdad đến tận gốc rễ.
Trong vài phút sau khi hai máy bay ném bom của Anh bay đi, những tay súng sống sót đã liên hệ trực tiếp với Baghdad để báo cáo về vụ tấn công. Khi nghe về sự kiện, tiến sĩ Jaafar Al-jaafar đã trực tiếp lên xe và lái đến điểm đó để kiểm tra về đội ngũ dưới đất của mình. Ông ta giận dữ đến điên người và vào buổi trưa đã phàn nàn một cách cay đắng với Hussein Kamil, dưới lệnh của người này Bộ Công nghiệp và Công nghiệp hoá Quân sự toàn bộ chương trình nguyên tử được đặt ở đó là một chương trình, nhà khoa học báo cáo lại với người con rể của Saddam, rằng ngoài tổng cộng chi phí trị giá 50 tỉ đôla trong suốt một thập kỷ đã tiêu đến 8 tỉ đôla, và vào lúc sắp đạt được thắng lợi thì lại bị phá huỷ. Liệu Nhà nước còn có thể bảo vệ người của mình được nữa hay không?
Nhà vật lý lraq có thể đã nhảy dựng lên trên cao năm fit và bị đốt cháy như một con muỗi, nhưng trong điều kiện ảnh hưởng của ông ta lớn đến chừng đó, và lời lẽ của ông ta cứ thế dâng trào.
Hussein Kamil bị xúc phạm báo cáo cho bố vợ của mình, người cũng dã rơi vào một cơn điên giận khủng khiếp. Khi điều đó xảy ra, cả Baghdad run lên cho cuộc sống của mình. Các nhà khoa học dưới lòng đất đã không chỉ sống sót mà đều thoát ra ngoài được, vì nhà máy còn có một đường hầm hẹp dẫn đến nửa dặm dưới sa mạc và kết thúc trong một cái thangmáy có đường ray gắn vào tường.
Những người đó đã lên mặt đất theo con đường đó, nhưng không thể nào di chuyển được máy móc nặng nề qua cùng đường hầm và thang máy đó. Thang máy chính và đường tiếp tế hàng hoá đã bị thổi tung khỏi mặt đất sâu đến 20 fít. Tái tạo lại nó có thể mất đến hàng tuần – những tuần mà Hassan Rahmani ngờ rằng Iraq không có nổi.
– Liệu đã kết thúc vấn đề đó chưa, anh ta chỉ đơn giản bị nghi, vì đã lo lắng sâu sắc con người đó từ cuộc họp ở cung điện trước khi cuộc không chiến bắt đầu, khi Saddam đã để lộ sự tồn tại của thiết bị “của ông ta”.
Cái giờ đây đang làm Rahmani lo sợ là cơn điên giận kinh khủng của người đứng đầu Nhà nước. Phó tổng thống Izzat Ibrahim đã gọi anh lên ngay sau buổi trưa ngày hôm trước, và vị chỉ huy Tình báo không bao giờ biết đến người thân cận nhất của Saddam đang ở trong tình trạng đó.
Ibrahim nói với anh ta Rais đang điên lên, và khi điều đó xảy ra, máu có thể chảy như suối. Chỉ điều đó mới làm đè nén được cơn giận của người đến từ Tikrit. Phó tổng thống cho rằng anh – Rahmani – có thể phải tạo ra chứng cứ, và thật nhanh. “Chính xác thì chứng cứ nào, ông đã nghĩ ra chưa?” anh ta hỏi Ibrahim. “Hãy tìm cho ra”, Ibrahim gào lên vào tai anh ta, “cách nào đó mà họ hiểu được”.
Rahmani đã có quan hệ với bạn bè mình trong Quân đội. những người đã nói chuyện với các tay súng, và các báo cáo đã hướng đến một điểm: quân Anh đã cử đến hai chiếc máy bay. Đã có hai cái nữa bay cao hơn, nhưng kết luận là những cái đó chỉ là nguỵ trang; chắc chắn chúng đã không hề thả quả bom nào hết.
Từ Quân đội, Rahmani đã nói chuyện với đơn vị Lập kế hoạch Không quân. Quan điểm của họ – và nhiều trong số sĩ quan đã được huấn luyện của phương Tây – là không có mục tiêu nào với mức độ quan trọng về quân sự lại chỉ được gửi đến có hai máy bay. Không bao giờ như thế hết.
Vậy là Rahmani suy luận, nếu người Anh không nghĩ bãi rác ôtô là một đống rác rưởi bỏ đi, thì họ nghĩ nó là cái gì? Câu trả lời có khả năng nằm ở hai giặc lái người Anh bị rơi. Cá nhân mà nói, anh thích tự trực tiếp tiến hành các cuộc xét hỏi, chắc chắn rằng với một số thuốc kích thích anh có thể buộc họ nói thật trong vài giờ.
Quân đội đã khẳng định họ đã bắt được viên phi công và viên hoa tiêu sau ba giờ truy đuổi, sâu trong sa mạc, một bị bỏ lại do vỡ mắt cá. Thật không may, một chi tiết từ AMAM đã làm quay ngược mọi thứ với tốc độ đáng kể và đã mang theo những người bay. Không ai lý luận gì với AMAM hết. Do đó hai người Anh giờ đây đang ở chỗ Omar Khatib, và chỉ Allah mới có thể rủ lòng thương đến họ.
Bị mất cơ hội tuyệt vời tạo ra thông tin do những viên giặc lái trao cho, Rahmani nhận ra anh ta có thể phải tạo ra cái gì đó Câu hỏi là – ai? Chỉ một điều có thể đủ là cái Rais mong muốn. Và ông ta muốn gì? Tại sao, một sự phản bội. Rồi một sự phản bội. Vấn đề then chốt có thể là máy phát. Anh ta cầm máy nói và gọi thiếu tá Mohsen Zayeed, chỉ huy lĩnh vực nghe trộm của đơn vị anh, người chịu trách nhiệm nghe ngóng các cuộc truyền tin bằng radio. Đã là lúc cần nói chuyện lại.
Hai mươi dặm về phía tây Baghdad có một thị trấn nhỏ tên là Abu Ghraib, một địa điểm rất khó nhận diện và cho đến giờ vẫn không hề được biết đến nếu vì hiếm khi được nhắc đến trong Iraq. Bởi vì ở Abu Ghraid có một nhà tù lớn, được dành gần như tuyệt đối để sử dụng cho những cuộc hỏi cung và những vụ thanh trừng về chính trị. Vì lẽ đó, nó được trang bị người và được điều hành không phải bởi một cơ quan tù quốc gia mà là Cảnh sát Mật, AMAM.
Vào thời gian Hassan Rahmani đang gọi chuyên gia nghe lén của mình, một chiếc Mercedes dài màu đen đang lại gần những cánh cửa gỗ dày cộp của nhà tù. Hai người gác, nhận ra người trong xe, hú lên vào những cái cổng và mở chúng ra. Vừa đúng lúc, người đàn ông trong xe có thể trả lời với sự bạo tàn lạnh lùng đối với những ai cả gan làm chậm ông ta một giây phút vì lơ là công việc. Chiếc ôtô đi vào, những cánh cửa đóng lại. Khuôn mặt ở ghế sau nhận ra những nỗ lực của những người gác mà không để lộ ra nét vẻ gì. Không bao giờ có biểu hiện nào hết.
Trước những bậc thang dẫn lên toà nhà văn phòng chính, xe dừng lại, và một người gác khác đi đến mở cửa sau xe. Tướng Omar Khatib xuống xe, giản dị trong bộ quân phục barathea vừa khít, và rảo bước lên các bậc thang. Những cánh cửa nhanh chóng được mở ra cho ông ta ở mọi lối. Một sĩ quan cấp dưới, trợ tá của ông ta, cầm theo chiếc cặp công tác của ông ta.
Để lên được văn phòng của mình, Khatib sử dụng chiếc thang máy lên đến tầng năm và là tầng cao nhất, và khi ông đã ở lại một mình, ông ta yêu cầu mang cà phê Thổ Nhĩ Kỳ lên và bắt đầu nghiên cứu giấy tờ. Các báo cáo của ngày miêu tả chi tiết tiến bộ trong việc khai thác những thông tin cần thiết từ những người ở tầng dưới.
Đằng sau vẻ mặt lạnh lùng của mình, Omar Khatib cũng lo lắng như tất cả các đồng nghiệp của mình ở khắp Baghdad.
Không giống như Rahmani, người hưởng giáo dục từ Anh quốc, biết nhiều ngôn ngữ, và không khí cởi mở gần như trở thành đáng ngờ, Khatib có thể tính đến lợi thế cơ bản của mình là đến từ Tikrit. Đã lâu đến thế ông ta làm công việc này do Rais giao phó, và làm rất tốt, luôn giữ dược những lời tâm tình để bảo đảm không xảy ra bạo loạn, ông ta an toàn.
Nhưng hai mươi tư giờ vừa qua đã gây xáo trộn rất nhiều. Cả ông ta cũng đã nhận được cú điện thoại ngày hôm trước, nhưng từ người con rể, Hussein Kamil. Cũng giống như Ibrahim đối với Rahmani, Kamil cũng mang đến những tin tức về sự tức giận vô bờ bến của Rais qua sự kiện ném bom Al Qubai và đề nghị có những bằng chứng.
Không giống như Rahmani, Khatib đã có trong tay những người Anh. Đó là lợi thế một mặt, và là sự nguy hiểm ở mặt khác. Rais muốn biết, và nhanh, bằng cách nào các tay lái máy bay này biết được trước phi vụ – chỉ là bằng cách nào mà Liên quân lại biết được nhiều đến thế vế Al Qubai, và bằng cách nào họ có được những thông tin đó.
Điều đó phụ thuộc vào ông ta, Khatib, để tạo ra các thông tin. Những người của ông ta đang làm việc với các tay lái trong suốt 15 tiếng đồng hồ, kể từ bảy giờ sáng hôm trước, khi họ đến Abu Ghraib. Cho đến giờ, bọn điên đó vẫn vững vàng.
Từ sân bên dưới cửa sổ của ông ta vang đến âm thanh của một sự va động, một sự va chạm, và một tiếng lướt nhỏ. Lông mày Khatib nhăn lại, rồi nở ra khi ông ta nhớ lại. Trong cái sân trong dưới cửa sổ của ông ta một người Iraq bị treo cổ tay trên một cái giá chữ thập, những ngón chân tươm máu của anh ta chỉ cao quá làn bụi 4 inch. Gần đó có một cái vại, trước màu sáng, giờ đã chuyển sang thấm hồng.
Mỗi người gác và lính tráng đi ngang qua sân đều nhận lệnh phải đứng lại, cầm lên một trong hai cái roi mây từ cái bình, và đi một vòng ra sau lưng người đàn ông bị treo, đánh vào giữa cổ và đầu gối. Một hạ sĩ đứng gần đó trông coi. Người đó là một tay thương gia ngu xuẩn dám nói tổng thống là con một mụ đĩ , kẻ giờ đây đang học, dù có hơi muộn, cách thức các công dân kính trọng Rais.
Vấn đề gây nhức đầu là ông ta vẫn còn ở đây. Nó chỉ ra sự bẩn thỉu mà những tầng lớp lao động này có. Người thương gia đã phải chịu đựng hơn 500 cái đánh, một kỷ lục đầy ấn tượng. ông ta có thể chết trước cái thứ một nghìn – không ai có thể chịu đến một nghìn – nhưng như thế đã là thú vị lắm rồi. Điều thú vị khác là rằng người đàn ông đã bị tố cáo bởi đứa con mười tuổi của ông ta. Omar Khatib nhấm nháp tách cá phê của mình, đung đưa cây bút nạm vàng, và cúi xuống giấy tờ của mình.
Nửa giờ đồng hồ sau, có một tiếng gõ bí ẩn vào cánh cửa phòng.
– Vào đi, ông ta gọi, và nhìn ra để kiểm tra. ông ta cần có tin mới, và chỉ một người có thể gõ cửa thẳng chứ không cần qua viên sĩ quan cấp dưới ở ngoài.
Người đi vào to lớn, và ngay cả mẹ anh ta cũng khó có thể bảo anh ta đẹp trai. Khuôn mặt bị rỗ chằng chịt dấu ấn của bệnh đậu mùa, và hai vết sẹo tròn chạy xuống đang giật giật. Anh ta đóng cửa lại và đứng im, đợi lệnh.
Dù anh ta chỉ mới là một trung sĩ, thì thực ra anh ta không chỉ có cấp hàm thấp như thế, vì anh ta là một trong số rất ít mà viên tướng cảm thấy có sự tin cậy đồng đội. Một mình giữa đám nhân viên nhà tù, trung sĩ Ali được phép ngồi khi có mặt ông ta, khi được mời lên.
Khatib chỉ cho người đàn ông cái ghế và mời anh ta một điếu thuốc. Viên trung sĩ ngồi xuống và nhả khói từ từ; công việc của anh ta rất nặng nhọc và mệt mỏi, điếu thuốc là một giờ nghỉ đầy may mắn. Lý do Khatib nhân nhượng thứ tình cảm bà con từ một người ở cấp bậc thấp như vậy là vì anh ta thực sự có một sự ngưỡng mộ vô bờ với ông ta. Khatib nắm bắt được sự hiệu quả trong sự đánh giá cao của mình, và viên trung sĩ được ông ta ưu ái là người không bao giờ phản lại ông ta. Bình tĩnh, có phương pháp, một người chồng và người cha tốt, Ali thực sự là một tay chuyên nghiệp.
– Tốt chứ? ông ta hỏi.
– Viên hoa tiêu kín, rất kín, thưa ngài. Viên phi công… Anh ta nhún vai. Một tiếng hay là hơn rồi đấy.
– Tôi nhắc lại cho anh là cả hai chúng đều phải hé răng. Ali, bắt buộc đấy. Và những câu chuyện của chúng phải ăn khớp với nhau. Chính Rais đang tin tưởng vào chúng ta đấy.
– Ông thì có thể, thưa ngài. Tôi nghĩ trong vòng mười phút ngài sẽ có được câu trả lời của mình. Viên hoa tiêu trước, và khi viên phi công học được điều gì đó, hắn ta sẽ làm theo.
– Tốt lắm.
Khatib nhổm lên, và viên trung sĩ mở cửa cho ông ta. Cùng nhau họ đi xuống qua tầng trệt đến khu nhốt người thứ nhất, nơi thang máy dừng lại. Có một lối đi hướng đến các tầng ngầm dưới đất. Dọc theo lối đi là những cánh cửa bằng thép, và đằng sau chúng, đang thu lu trong còng, là bảy người Mỹ, bốn người Anh, một người Italia, và một phi công lái máy bay Skyhawk của Kuwait.
Ở tầng tiếp theo dưới sâu hơn có nhiều xà lim hơn, tại đó có hai người mới bị bắt. Khatib nhìn qua lỗ khoá trong cánh cửa xà lim thứ nhất. Một ngọn đèn duy nhất đang chiếu sáng xà lim, những bức tường của nó rất chắc chắn và có màu máu sẫm. Giữa phòng, trên một cái ghế văn phòng bằng nhựa, một người đàn ông đang ngồi, gần như trần truồng, trên ngực bê bết vết nôn mửa, máu và nước dãi. Đôi tay của anh ta bị trói giật ra sau, và một mặt nạ đen ngòm không trổ lỗ mắt phủ lên mặt anh ta. Hai người của AMAM trong bộ đồ giống hệt với trung sĩ Ali đang lắc người đàn ông trên ghế, tay của anh ta chạm xuống những ống nhựa xếp dưới sàn, những cái thêm vào trọng lượng mà không làm giảm độ nhạy. Họ đang đứng quay lưng, nghỉ một lúc. Trước khi dừng, họ đã tập trung vào ống quyển và xương bánh chè.
Khatib gật đầu và chuyển sang phòng tiếp theo. Qua lỗ khoá ông ta có thể trông thấy người tù thứ hai không bị bịt mắt. Một con mắt hoàn toàn nhắm nghiền, con ngươi lòi thịt của lông mày và má đầy máu. Khi anh ta mở miệng, có lỗ hổng do hai chiếc răng bị gẫy gây ra, và một luồng máu trồi lên trên môi anh ta.
– Tyne, viên hoa tiêu thì thầm, Nicholas Tyne. Trung úy bay. Năm ôi một ôi chín sáu tám.
– Viên hoa tiêu đó, viên trung sĩ thì thầm.
Khatib thì thầm trả lời, “Ai trong số người của anh biết nói tiếng Anh?”
Ali chỉ – người ở bên trái.
– Bảo anh ta ra ngoài này.
Ali đi vào xà lim của viên hoa tiêu và đi ra với một trong số hai tra xét viên. Khatib nói chuyện một lúc với người này bằng tiếng A rập. Người đàn ông gật đầu, trở vào xà lim, và đeo mặt nạ lên mặt viên hoa tiêu. Chỉ sau đó Khatib mới cho phép mở cả hai cánh cửa xà lim.
Người biết nói tiếng Anh cúi xuống đầu Nicky Tyne và nói qua lần vải. Tiếng Anh của anh ta có âm sắc rất nặng nhưng có thể hiểu được.
– Tốt rồi, trung uý Bay, đúng đó. Với anh, đã qua rồi. Không còn phải chịu đựng nữa đâu.
Viên hoa tiêu trẻ tuổi nghe thấy câu nói. Cơ thể anh ta như thể rùng lên vì đau đớn.
– Nhưng bạn của anh, anh ta không được may mắn như thế. Anh ta đang chết đấy. Thế là chúng tôi có thể chuyển anh ta vào bệnh viện – những mảnh vải trắng, các bác sĩ, mọi thứ anh ta cần; hoặc chúng tôi có thể kết thúc công việc của mình.
Lựa chọn của anh đấy nhé. Khi anh nói cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ ngừng ngay và đưa anh ta vào bệnh viện. Khatib gật đầu hướng đến hành lang với trung sĩ Ali, người đi vào xà lim bên kia. Từ cánh cửa mở những âm thanh của tiếng nhựa cọ vang lên. Rồi viên phi công bắt đầu hét lên.
– Tốt rồi, đầu đạn? Nicky Tyne hét lên dưới lớp vải. Dừng lại đi, lũ con hoang các người! Đó là một kho khí độc.
Tiếng đánh đập ngừng lại. Ali xuất hiện, thở hổn hển, từ xà lim của viên phi công.
– Ngài đúng là thiên tài, thưa Sayid tướng quân.
Khatib nhún vai khiêm tốn.
– Đừng bao giờ đánh giá thấp tính đa cảm của người Anh và người Mỹ, ông ta nói với học trò của mình. Hãy mang những người phiên dịch đến đây. Ghi vào mọi chi tiết, dù là nhỏ nhất. Khi có bản dịch rồi, mang lên văn phòng cho tôi.
Quay trở lại phòng của mình, tướng Khatib gọi một cú điện thoại tiếng đến Hussein Kamil. Một tiếng đồng hồ sau, Kamil gọi lại. Bố vợ anh ta đã bình tâm trở lại; một cuộc họp có thể được triệu tập, khả năng là đêm nay. Omar Khatib có thể sẽ phải chuẩn bị để sẵn sàng đến cuộc họp.
Tối đó, Karim lại tiếp tục ve vãn Edith, một cách dịu dàng và không chút ma mãnh nào, lần này về công việc của cô.
– Em có bao giờ thấy buồn chán ở ngân hàng không, em yêu?
– Không, đó là một công việc thú vị. Sao anh lại hỏi thế.
– À, anh cũng không biết nữa. Chỉ để hiểu bằng cách nào em lại có thể nghĩ nó là hấp dẫn. Với anh, nó chắc là công việc nhàm chán nhất trên đời đấy.
– Nhưng mà không phải thế đâu.
– Thôi được rồi. Thế hấp dẫn ở chỗ nào?
– Anh biết đấy, quản lý các tài khoản, đặt các đầu tư, những việc tương tự như thế. Đó là một công việc quan trọng.
– Chẳng nghĩa lý gì hết cả. Cứ như là nói “Chào buổi sáng, vâng thưa ngài, không thưa ngài, dĩ nhiên thưa ngài” với hàng đống người đến và ra để rút một cái séc 50 silinh. Chán lắm.
Anh đang nằm ngửa trên giường của cô. Cô đang đi lại và đến nằm bên cạnh anh, choàng tay anh qua vai cô, bằng cách đó họ có thể sát vào nhau. Cô thích sát vào nhau.
– Thỉnh thoảng anh thật là ngốc, Karim ạ. Nhưng em yêu anh ngốc nghếch như thế. Ngân hàng Winkler không phải một ngân hàng phát hành – nó là một ngân hàng buôn bán.
– Thì khác nhau thế nào?
– Bọn em không có tài khoản séc, khách hàng với sổ séc đi ra đi vào. Không làm việc theo cách đó đâu.
– Thế thì bọn em kiếm tiền sao được, vì có khách đâu.
– Dĩ nhiên có tiền chứ, nhưng là với các tài khoản rút tiền.
– Anh chẳng bao giờ có cái nào như thế cả, Karim thừa nhận. Chỉ có một tài khoản vãng lai nhỏ thôi. Dù sao anh vẫn thích tiền mặt hơn.
– Anh không thể có tiền mặt khi anh nói đến hàng triệu. Người ta sẽ ăn cắp của anh. Nên anh phải cho vào một ngân hàng và đầu tư chúng.
– Em muốn nói là ông già Gemuetlich có đến hàng triệu đồng? Tiền của người khác?
– Phải, hàng triệu ấy chứ.
– Siling hay đôla?
– Đôla, đồng bảng, hàng triệu.
– Tốt, anh không thể tin cậy ông ta với tiền của anh được.
Cô ngồi dậy, hơi bị tức.
– Ngài Gemuetlich hoàn toàn trung thực. ông ấy không bao giờ nghĩ đến chuyện làm như thế đâu.
– Có thể là không, nhưng người khác thì có thể chứ. Xem nào – nói thử xem, anh biết một người có một tài khoản ở Winkler. Tên anh ta là Schmitt. Một hôm anh đến và nói: Chào buổi sáng, Ngài Gemuetlich, tên tôi là Schmitt, và tôi có một tài khoản ở đây. Ông ta nhìn vào sổ của mình, và nói: Phải, anh có. Thế là anh nói: Tôi thích rút toàn bộ ra. Thế là khi anh chàng Schmitt thực sự đến, chẳng còn cái quái gì hết cả. Chính vì thế tại sao anh lại thích tiền mặt hơn đấy.
Cô cười phá lên vì sự ngây thơ của anh và kéo anh lên, nói thì thầm vào tai anh ta:
– Không thể thế được đâu. ông Gemuethch có thể biết được anh chàng Schmitt quý giá của anh. Cách nào đi nữa, ông ấy cũng phải tự xác minh.
– Hộ chiếu có thể làm giả. Thì bọn Palestine quỷ quái chẳng suốt ngày làm thế còn gì.
– Anh ta còn cần có một chữ ký nữa, với cái đó thì có mẫu
– Thế thì, anh sẽ tập ký giả chữ ký của Schmitt.
– Karim, em nghĩ anh sẽ trở thành một tên tội phạm một ngày nào đó. Anh xấu tính lắm.
Cả hai cười vang lên vì ý tưởng đó.
– Cách nào đi nữa, nếu anh là người nước ngoài và sống bên ngoài, anh có khả năng có một tài khoản được đánh số. Chúng là hoàn toàn không thể bắt chước được.
Anh nhìn xuống vào cô từ một khuỷu tay, lông mày nhăn
– Là cái gì thế?
– Một tài khoản đánh số
– Mmmmm.
Cô giải thích nó hoạt động như thế nào.
– Điên quá nhỉ, anh nói khi cô kết thúc. Bất kỳ ai cũng có thể đến và tuyên bố là chủ. Nếu Gemuetlich chưa từng bao giờ nhìn thấy người chủ thật…
– Có những quy trình nhận diện chứ, anh ngốc. Những mật mã hết sức phức tạp, các phương pháp chữ viết, các cách thức chắc chắn mà các chữ ký phải được định vị – tất cả những thứ đó để kiểm tra rằng người đó thực sự là chủ của tài khoản đó Trừ khi tất cả họ thông đồng với nhau – với chữ viết – ông Gemutlich sẽ không hợp tác đâu. Thế cho nên giả danh là không được đâu
– Thế ông ta hẳn là phải có trí nhớ khủng khiếp lắm nhỉ.
– Ôi, anh quá là ngốc nghếch đấy. Phải viết ra chứ. Thế anh có cho em đi ăn tối không?
– Em có đáng thế không?
– Anh biết là em có mà.
– À thế thì được. Nhưng anh muốn một thứ ăn tại chỗ.
Cô bối rối. “Tốt thôi, thì đặt một chỗ đi”.
– Anh muốn nói là em ấy.
Anh với lên và nắm lấy cổ tay của bộ đồ ngủ của cô, kéo cô với một ngón tay đằng sau lên giường. Cô vùng vẫy một cách sung sướng. Anh trườn lên người cô và bắt đầu hôn. đột nhiên anh ta ngừng lại. Cô ngẩng nhìn cảnh giác.
– Anh biết anh sẽ phải làm gì rồi, anh thì thầm trong hơi thở, anh sẽ thuê một cái két an toàn, vào trong kho của ông già Gemuetlich, và nhìn các mật mã. Rồi anh sẽ lấy tiền đi với chúng.
Cô cười phá lên với suy nghĩ anh đã không thay đổi suy nghĩ cả trong lúc làm tình.
– Không thế được đâu. Mmmmm. Làm nữa đi.
– Có chứ.
– Aaaa. Không được đâu.
– Có Những thứ an toàn suốt ngày bị phá. Hãy đọc báo hàng ngày mà xem.
Cô luồn bàn tay khám phá của mình xuống dưới, và mắt cô mở to ra.
– Ooooo, thế là tất cả với em đấy ư? Anh là người đàn ông thật dáng yêu, kỳ vĩ, khoẻ khoắn, Karim, và em yêu anh. Nhưng ông già Gemuetlich, theo cách anh gọi ông ấy, có thông minh hơn anh một chút đấy…
Một phút sau, cô không còn quan tâm xem Gemuetlich thông minh cỡ nào nữa.
Trong khi nhân viên Mossad đang làm tình ở Vienna, Mike Martin đang dựng đĩa vệ tinh của mình khi sắp tới nửa đêm và ngày 11 tháng Hai sắp sửa chuyển sang ngày 12. Iraq thế là chỉ còn cách ngày tấn công theo lịch tám ngày vào ngày 20 tháng Hai. Phía nam biên giới, dải đất phía bắc của sa mạc A;rập Xêut chất đầy những trại tập trung lớn nhất của người và vũ khí, súng ống, xe tăng, và các kho được chia ra thành những phần rất nhỏ của vùng đất kể từ Thế chiến hai.
Gió nóng không ngừng thổi từ không khí, dù phần lớn các mục tiêu trong danh sách đầu tiên của tướng Horner đều đã được thăm hỏi, có khi còn đến hai lần hoặc hơn. Mặc dù sự dấn sâu vào các mục tiêu mới tạo nên bởi hàng rào Scud ngắn ngủi trên đất Israel, kế hoạch không chiến thiên tài đã vào guồng. Mọi nhà máy được biết cho sản xuất vũ khí đều đã bị thổi tung, trong số đó có 12 cái mới thêm vào nhờ thông tin của Jericho.
Không lực Iraq đã rõ ràng ngừng tồn tại. Hiếm khi có những máy bay chiến đấu chống trả, họ không chọn cách đối đầu với những chiếc Eagle, Hornet, Tomcat, Falcom, Phantom và Jaguar của Liên quân, quay trở về căn cứ của mình và vào giữa tháng Hai không còn bận tâm đến việc thử nữa. Một số máy bay chiến đấu và thả bom đã được gửi một cách có suy tính cẩn thận sang Iran, nơi họ đã ngay lập tức bị đánh bật.
Ở cấp độ cao nhất, những người chỉ huy Liên quân có lẽ không hiểu nổi tại sao Saddam đã chọn cách gửi đội tốt nhất của mình sang kẻ thù cũ. Lý do là vì sau một thời điểm nào đó ông ta đã chắc chắn đoán rằng mọi quốc gia trong vùng không còn lựa chọn nào khác là quay mũi kiếm vào mình; vào lúc đó ông ta có thể dùng lại không quân của mình.
Vào lúc đó hiếm khi tìm được một cây cầu nào chưa bị đánh phá trên khắp đất nước hay một trạm sản xuất điện nào còn vận hành được.
Vào giữa tháng Hai, một nỗ lực thêm nữa của Liên quân đã được hướng đến Quân đội Iraq ở nam Kuwait và trên biên giới giữa Kuwait và Iraq.
Từ đông sang tây biên giới bắc Xêut với đường cao tốc Baghdad-Barsa, các Buff vẫn đang truy diệt pháo binh, xe tăng, các khẩu đội tên lửa, và các vị trí đặt quân bộ binh. Những chiếc Thunderbolt A-10 của Mỹ, được đặt biệt hiệu do sự khủng khiếp trên bầu trời của chúng là “những con chó bay”, đang lùng kiếm và sẽ tiếp tục làm tốt nhất có thể – tiêu diệt xe tăng. Những chiếc Eagle và Tornado cũng đang định vị nhiệm vụ “xử lý xe tăng “.
Điều mà các vị tướng của Liên quân ở Riyaôh không biết được là 40 cơ sở được cho là sản xuất vũ khí tiêu diệt hàng loạt vân còn được giấu bên dưới sa mạc và đồi núi, hoặc các căn cứ không quân Sixco vẫn còn an toàn.
Kể từ khi chôn vùi được nhà máy Al Qubai, tâm trạng đã nhẹ nhàng hơn giữa bốn vị tướng biết thực sự nó chứa đựng gì, cũng như giữa những người của CIA và SIS đóng ở Riyadh.
Đó là một tâm trạng được phản ánh trong thông điệp ngắn gọn mà Mike Martin nhận được đêm đó. Những người chỉ huy anh ở Riyadh đã bắt dầu thông báo cho anh về thắng lợi của điệp vụ Tornado dù bị mất một máy bay. Đợt chuyển tin đi đến chỗ khen ngợi anh đã ở lại ở Baghdad sau khi đã được phép rời đi và về toàn bộ phi vụ. Cuối cùng, anh được cho biết không còn nhiều việc để làm. Jericho có thể được chuyển cho một thông điệp cuối cùng, để thông báo Liên quân rất vui nhận được thông tin của anh ta, và toàn bộ tiền của anh ta đã được trả, và mối quan hệ này có thể dược xây dựng lại sau chiến tranh. Sau đó, Martin được cho biết, anh thực sự đã có thể trốn khỏi đó vì sự an toàn của chính mình để về Arập Xêut trước khi điều này không thể làm được nữa.
Martin đóng lại máy của mình, gói nó và chôn xuống đất dưới sàn, và nằm trên giường của mình trước khi ngủ. Thật thú vị anh nghĩ. Các quân đội sẽ không vào Baghdad. Thế còn Saddam thì sao nhỉ – đâu là mục đích của việc này? Một cái gì đó dã thay đổi rồi.
Nếu biết về cuộc họp sẽ diễn ra tại đại bản doanh của Mukhabarat chưa đến một dặm cách đó, thì giấc ngủ của Mike Martin không thể dễ dàng được.
Về những vấn đề kỹ thuật có bốn mức – thông thạo, rất tốt, xuất sắc và tự nhiên. Cấp cao nhất nằm ở trên mọi kỹ năng và đi vào một lĩnh vực nơi mọi kiến thức kỹ thuật được hỗ trợ bởi một cảm giác bẩm sinh, một bản năng tốt, giác quan thứ sáu một sự giỏi giang với chủ đề và máy móc không thể viết trong các sách hướng dẫn.
Về vấn đề phát thanh, thiếu tá Mohsen Zayeeh là một người bẩm sinh. Khá trẻ, với những đường nét ngây thơ làm cho anh ta có vẻ như là một sinh viên năm đầu, Zayeed sống, ăn, và thở với công nghệ phát thanh Nơi ở của anh ta đầy những tạp chí mới nhất từ phương ‘Tây, và khi anh ta bắt gặp một thiết bị mới có thể làm tăng hiệu quả bộ phận nghe trộm điện đàm của mình, anh ta thế nào cũng đòi mua bằng được. Bởi vì nó có giá trị với anh ta, nên Hassan Rahmani luôn cố kiếm cho anh ta.
Không lâu sau nửa đêm, hai người đàn ông ngồi trong văn phòng của Rahmani.
– Có tiến triển gì không? Rahmani hỏi.
– Tôi nghĩ là có đấy, Zayeeh trả lời. Ở đây này, tốt thôi – không nghi ngờ gì quả là về cái đó. Vấn đề rắc rối là, hắn ta sử dụng những cú chuyển nhanh không thể bắt kịp. Chúng chạy nhanh quá. Gần như, nhưng khá đấy. Với kỹ năng và kiên nhẫn, ai đó có thể tình cờ tìm ra một cái, ngay cả thậm chí nó chỉ dài có vài giây thôi.
– Anh đến gần đâu rồi? Rahmani hỏi.
– à, tôi đã theo được các tần số phát đến một dải khá hẹp với tầm sóng siêu dài, làm cho dễ hơn. Nhiều ngày trước, tôi đã gặp may. Chúng tôi đang đổi theo một dải hẹp ngoài tầm: và nó đột nhiên xuất hiện. Nghe nhé.
Zayeeh bật một cái đài và bấm nút Play. Một đống hỗn độn âm thanh tràn ngập văn phòng. Rahmani tỏ ra bối rối.
– Nó đấy à?
– Đó là mật mã, dĩ nhiên.
Dĩ nhiên rồi, Rahmani nói. Anh có phá được không?
– Gần như chắc chắn là không. Họ đã đóng mã bằng một con chíp silicon duy nhất, đi kèm với mạch siêu nhỏ phức tạp.
– Có giải mã được không? Rahmani tỏ ra chán nản; Zayeeh sống trong thế giới riêng của anh và nói với ngôn ngữ thân mật.
Anh ta đã thực hiện một nỗ lực lớn để cố và nói thẳng lên cho sĩ quan chỉ huy của mình.
– Đó không phải là một mật mã. Để nghe được cái đống này với tốc độ ban đầu của nó có thể cần đến một con chíp silicon tương tự như thế. Những cái của đó giá hàng triệu đấy
– Thế điểm mấu chốt là gì?
– Vấn đề là, thưa ngài, là – tôi có ý hay rồi.
Hassan Rahmani cúi xuống tò mò.
– Một ý hay?
– Đợi nhé. Và đoán được không nào? Bức thông điệp được gửi vào lúc nửa đêm, 30 giờ trước khi Al Qubai bị oanh tạc. Tôi đoán là, các chi tiết của nhà máy hạt nhân ở trong đó. Còn có gì đó hơn nữa.
– Tiếp tục đi.
– Hắn ở trong này.
– Trong Baghdad?
Thiếu tá Zayeeh mỉm cười và gật đầu. Anh ta đã giữ tin tốt nhất của mình đến tận phút cuối cùng. Anh ta muốn được khen.
– Không, thưa ngài, hắn ta ở trong quận Mansour. Tôi đã khoanh được bốn km vuông rồi.
Rahmani suy nghĩ rất lung. Thế thì hẹp thật, thật sự là hẹp. Điện thoại kêu. Anh ta nghe trong vài giây, rồi đặt máy và đứng lên.
– Tôi bị gọi đi họp rồi. Điều cuối cùng. Còn cần nghe trộm được bao nhiêu lần nữa anh mới có thể làm rõ chúng? Đến một toà nhà, hay thậm chí một ngôi nhà?
– Nếu may mắn, tôi nghĩ tôi có thể tóm hắn nhanh thôi, nhưng với lần đầu tiên tôi nghĩ tôi có thể tìm thấy hắn. Cầu cho hắn gửi một bức thông điệp dài, nhiều giây trên không trung. Rồi tôi sẽ có thể đưa cho ông một khu vực diện tích chỉ vài trăm mét vuông thôi.
Rahmani thở ra thật mạnh và đi xuống đến chiếc xe đang chờ sẵn.
Họ đến địa điểm họp với Rais trong hai chiếc xe bus bịt bùng. Bảy vị bộ trưởng trong một chiếc, chiếc còn lại gồm sáu vị tướng và ba trùm tình báo. Không ai biết nơi mình sẽ đến, và qua kính trước người lái xe chỉ đơn giản là đi theo chiếc xe mô tô.
Chỉ khi chiếc xe bus dừng lại tại một cái sân có tường bao bọc nơi 9 người trên chiếc xe thứ hai mới được phép xuống. Mất 40 phút lái xe vòng vèo. Rahmani cho rằng họ đang ở vùng nông thôn, cách Baghdad khoảng 30 dặm. Không hề có tiếng ồn ào xe cộ đi lại và những ngôi sao trên bầu trời chiếu lên những nét mờ nhạt của một ngôi biệt thự lớn cửa sổ màu đen.
Trong căn phòng khách chính bảy vị bộ trưởng đang ngồi đợi Các vị tướng ngồi vào chỗ được chỉ định và im lặng. Các vệ binh chỉ chỗ cho tiến sĩ Ubaidi của Tình báo Nước ngoài, Hassan Rahmani của Phản gián, và Omar Khatib của Mật. vụ 3 chỗ ngồi đối diện với cái ghế bành rộng duy nhất có đệm dành cho Rais. Người đàn ông đã gửi tin cho họ đi vào mấy phút sau đó.
Tất cả đứng lên và được vẫy tay để ngồi xuống. Với một số người, đã trên ba tuần nay họ mới được gặp lại tổng thống. ông có vẻ mệt mỏi, mắt quầng thâm và cái cằm cau có tỏ rõ nhiều điều.
Không rào trước đón sau, Saddam Hussein đi thẳng vào việc của buổi họp. Họ đã bị một trận ném bom – tất cả đều đã biết, kể cả những người trước đó chưa hề biết về một nơi tên là Al Qubai.
Địa điểm bí mật đến nỗi ở Iraq không có quá 10 người biết đích xác nó ở đâu. Giờ nó đã bị ném bom. Chỉ có thể là người ở cấp cao nhất và một số kỹ thuật gia cao cấp được. đến thăm đó mà không bị bịt mắt hoặc trong những chiếc xe bịt bùng, trước. khi nó bị đánh bom.
Im lặng trong phòng. sự im lặng chết chóc. Các vị tướng – Radi của bộ binh, Kadin của đội Hải quân, Ridha của Pháo binh, và Musuli của Công binh, và hai người khác, chỉ huy Đội Vệ binh Quốc gia và chỉ huy Nhân sự – nhìn chằm chằm vào chiếc thảm trước mặt họ.
– Đồng chí của chúng ta, Omar Khatib, đã hỏi cung hai viên phi công người Anh, Rais gằn giọng. Giờ thì ông ta có thể giải thích điều gì đã xảy ra.
Không ai dám nhìn thẳng vào Rais, giờ đây mọi cặp mắt đổ dồn vào thân hình manh khánh của Omar Khatib.
Đồ tể vẫn nhìn thẳng vào đoạn giữa người đứng đầu Nhà nước, chiếu thẳng khuôn mặt của mình qua căn phòng.
– Bọn phi công đã phun ra, ông ta lạnh lùng nói. Chúng đang trên đường về phía bắc. Chúng đã được chỉ huy chúng cho biết không quân Liên quân đã nhìn thấy có xe tải, xe tải Quân đội, di chuyển ra vào một khu bãi rác ôtô. Từ đó, Bọn con của Chó đã có cảm giác cái kho được nguỵ trang một kho vũ khí, đặc biệt một nơi dành cho đầu đạn chứa khí độc. Nó không được quan tâm đặc biệt lắm và không hề nghĩ rằng có phòng không ở đó Cho nên chỉ có hai máy bay được gửi đến để thực hiện nhiệm vụ, cùng với hai chiếc khác bay trên chúng để hướng dẫn mục tiêu Không hề có sự đề phòng trước sẽ có pháo phòng không, bởi vì chúng không hề nghĩ là có. Chúng – viên phi công và viên hoa tiêu – chẳng biết gì hơn thế cả.
Rais ngoái đầu về phía tướng Farouk Ridha.
– Đúng hay sai, Rafeek?
– Như thế cũng là bình thường, Sayid Rais, người đàn ông, chỉ huy pháo binh tại các địa điểm SAM nói, khi chúng gửi đầu tiên là các máy bay chiến đấu có hoả tiễn đến để bắn các điểm phòng không, rồi mới có máy bay ném bom đến đánh mục tiêu. Chúng thường xuyên làm như thế. Với một mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu. chẳng bao giờ có chuyện chỉ có hai máy bay không tiếp viện đến đâu.
Saddam suy nghĩ về câu trả lời, đôi mắt đen của ông ta không hề để lộ chút nào suy nghĩ của ông. Đó chính là một phần của quyền lực ông có được đối với những con người này; họ không bao giờ biết dược ông ta sẽ phản ứng như thế nào.
– Có khả năng nào, Rafeek Khatib, rằng bọn đó định giấu anh điều gì, rằng chúng có biết nhiều hơn những điều chúng nói?
– Không. thưa Rais. Chúng đã được… thuyết phục để hợp tác toàn bộ.
– Thế là vấn đề đã xong rồi đấy à? Rais trầm tĩnh hỏi.
Cuộc tấn công đó chỉ là một đòn hú hoạ của chúng và chúng đã gặp may?
Những cái đầu gật xuống trong cả phòng. Tiếng hét vang lên làm tất cả trở nên tê liệt.
– Sai? Tất cả các ông đều sai?
Trong một giây giọng nói đó đã trở về với mót lời thì thầm bình tĩnh, nhưng sự sợ hãi nó gây ra thì vẫn lơ lửng. Tất cả mọi người đều hiểu rằng sự dịu dàng của giọng nói có thể là báo trước cho những điều kinh khủng nhất, những hình phạt ghê gớm nhất.
– Chẳng có xe tải nào hết cả. xe tải Quân đội ấy. Xin lỗi những tên phi công trong trường hợp chúng bị bắt nhé. Còn có cái gì khác nữa, có không?
Phần lớn mọi người toát mồ hôi hột dù diều hoà nhiệt độ vẫn chạy. Vẫn thường xuyên là như thế, kể từ buổi bình minh của lịch sử, khi thủ lĩnh của một bộ lạc gọi tất cả vào chỗ của phù thủy và tất cả run sợ trước nguy cơ chiếc gậy chỉ thẳng vào mình.
– Có một kẻ phản bội, Rais thì thào. Có một kẻ bán đứng chúng ta. Ai đó là kẻ phản bội, kẻ đó dám chống lại ta.
Ông ta im lặng trong vài phút, để cho họ run lên. Khi ông ta tiếp tục nói, ông ta nhìn về phía ba người đang đứng trước mặt mình đầu kia căn phòng.
– Tìm hắn đi. Tìm hắn và mang hắn về đây cho ta. Hắn ta sẽ biết được những hình phạt cho những tội lỗi như thế. Hắn ta và gia đình hắn ta.
Rồi ông ta đi thẳng ra khỏi phòng, cùng với viên vệ sĩ riêng của mình. 16 người đàn ông rời phòng không ai nhìn ai, không thể bắt được cái nhìn của một ai. Như thế có thể là một sự hy sinh. Không ai muốn trở thành đồ tế. Ai cũng lo sợ cho mình, nếu chẳng may dấu hiệu đó tỏ ra là như thế.
Mười lăm người trong số đó đi cách xa người còn lại, cây gậy của viên thầy cúng, cái kẻ tên là Al-Mu’azib, Đồ tể. Ông ta có thể tạo ra vật tế.
Rahmani im lặng. Không có thời gian để nêu lên những làn sóng đài. Những chiến dịch của anh là rất tinh tế, tinh vi, dựa trên sự dò xét và trí thông minh thực sự. Điều cuối cùng anh cần làm là làm sao bọn AMAM không phá đám những điều tra của anh.
Trong tâm trạng kinh hoàng các vị bộ trưởng và tướng lĩnh quay trở lại vào màn đêm và về với những nhiệm vụ của mình.
– Ông ta không giữ chúng trong hòm an toàn ở văn phòng đâu, Avi Herzog, tức Karim nói, với Gidi Barzilai chỉ huy của mình trong một bữa sáng muộn mằn vào buổi sáng hôm sau.
Cuộc gặp an toàn, trong căn hộ của Barzilai. Herzog đã không gọi điện, từ một bốt điện thoại công cộng, cho đến khi Edith Hardenberg đã chắc chắn yên vị trong ngân hàng. Ngay sau đó, đội yarid đã tới. theo anh ta đến cuộc hẹn để chắc anh ta không bị theo dõi. Nếu anh ta có đuôi, họ sẽ phát hiện ra. Đó là chuyên môn của họ.
Gidi Barzilai chồm lên trước qua cái bàn gỗ, mắt sáng lên.
– Làm tốt đấy, chú nhóc xinh trai. Thế là bây giờ tôi biết ông ta không giữ mật mã. Nhưng vấn đề là chúng ở đâu?
– Trong bàn ông ta.
– Bàn? Cậu điên rồi. Ai chẳng có thể mở một cái bàn.
– Thế ông đã nhìn thấy nó chưa?
– Bàn của Gemuetlich? Chưa.
– Nhìn bề ngoài nó rất lớn, rất đẹp và rất cổ. Thật sự là một thứ đồ cổ đấy. Có một ngăn riêng, do người làm bàn đầu tiên tạo ra, rất bí mật, rất khó tìn, mà Gemuetlich nghĩ là an toàn hơn bất cứ chiếc két sắt nào. Ông ta tin một tên trộm có thể tìm đến két sắt chứ chẳng bao giờ nghĩ đến cái bàn của ông ta. Ngay cả khi một tên trộm mò vào bàn, hắn ta cũng sẽ chẳng thể tìm thấy cái ngăn đâu.
– Và cô ta Không biết nó ở đâu à?
– Không. Chưa từng thấy nó mở ra. Ông ta luôn tự tay khoá nó trong văn phòng khi ông ta cất giấu gì đó.
Barzilai suy nghĩ.
– Thằng cha lỏi thật. Chẳng bao giờ mình nghĩ được chuyện đó cả. Cậu biết đấy, có khả năng là hắn đúng.
– Tôi đã ngừng công việc của mình được chưa?
– Chưa, Avi, chưa đâu. Nếu cậu đúng, cậu đã làm rất tốt đấy Nhưng vẫn phải tiếp tục, phải đóng vai tiếp. Nếu bây giờ cậu biến, cô ta sẽ nhớ lại cuộc nói chuyện vừa rồi, chắp nối lại và sẽ nhìn ra đấy. Hãy tiếp tục với cô ta, và đừng bao giờ nói gì về ngân hàng nữa.
Barzilai suy nghĩ về vấn đề. Không ai trong đội của ông ở Vienna này đã từng nhìn thấy cái két, nhưng có một người đã từng.
Barzilai gửi một bức điện được mật mã rất kỹ cho Kobi Dror ở Tel Aviv.
Kẻ chỉ điểm được đưa vào và ngồi trong phòng cùng với một nghệ sĩ. Kẻ chỉ điểm không đa tài lắm, nhưng anh ta có một kỹ năng rất đặc biệt: có một trí nhớ cực tốt. Trong năm giờ anh ta ngồi nhắm mắt và nhớ lại về cuộc phỏng vấn anh ta thực hiện với Gemuetlich trong khi đóng vai một luật sư đến từ New York. Nhiệm vụ chủ yếu của anh ta là tìm các chỗ đặt hệ thống báo động trên cửa sổ và cửa ra vào, tìm một két sắt trên tường. những đường dây điện – mọi thứ thủ thuật để giữ cho căn phòng được an toàn. Những cái đó anh ta đã ghi chép và báo cáo. Cái bàn không thu hút anh ta nhiều lắm.
Nhưng ngồi trong căn phòng dưới đại lộ Vua Saul nhiều tuần sau đó, anh ta có thể nhắm mắt lại và nhìn thấy lại mọi thứ.
Từng dòng một, anh ta miêu tả cái bàn cho người nghệ sĩ. đôi khi kẻ chỉ điểm có thể nhìn vào bản vẽ, sửa lại, và tóm tắt. Người hoạ sĩ làm việc với mực ấn Độ với một chiếc bút nét nhỏ và tô màu chiếc bàn với màu nước. Sau năm tiếng đồng hồ người hoạ sĩ đã có được một mảnh giấy vẽ chi tiết trên đó có bức tranh tô màu của một cái bàn đang ở trong văn phòng của Herr Wolfgang Gemuetlich ở Ngân hàng Winkler ở Ballgasse, Vienna.
Bức tranh đến tay Gidi Barzilai trong một phong thư ngoại giao từ Tel Aviv đến Đại sứ quán Israel ở áo. Ông có nó trong hai ngày.
Trước đó một sự kiểm tra trong danh sách các sayanim khắp châu Âu đã làm nảy ra sự tồn tại của Monsier Michel Levy, một nhà sưu tập đồ cổ ở đại lộ Raspail, Paris, được coi là một trong số các chuyên gia hàng đầu về đồ gỗ cổ điển tại châu Âu.
Không cần đợi đến đêm ngay 14 tức là ngày tại Vienna, Barzilai đã nhận được bức vẽ màu, còn Saddam Hussein lại triệu tập lần nữa cuộc họp với các bộ trưởng, tướng lĩnh và chỉ huy tình báo của mình.
Lần này cuộc họp vẫn được triệu tập theo yêu cầu của chỉ huy AMAM Omar Khatib, người đã thông báo tin thắng lợi của mình qua con rể Hussein Kamil của Rais, và lại là một ngôi biệt thự giữa đêm sâu.
Rais bình thản bước vào phòng và ra hiệu cho Khatib báo cáo về những kết quả của mình.
– Tôi có thể nói gì đây, Sayid Rais? Viên chỉ huy Cảnh sát mật giơ cả hai tay lên và để chúng rơi xuống như thể tuyệt vọng hoàn toàn. Đó là một kiệt tác trong việc biểu lộ nỗi thất vọng.
Rais đã đúng, còn tất cả chúng ta đều sai. Vụ ném bom Al Qubai quả thực không phải là một sự tình cờ. Có một kẻ phản bội, và chúng tôi đã tìm ra hắn.
Một sự kinh ngạc to lớn lan đi trong phòng. Người đàn ông ngồi trên chiếc ghế có nệm cao nhấc lưng hướng về bức tường không có cửa sổ phải giơ tay lên để ngừng những sự tán dương lại Cũng phải mất một lúc trật tự mới được lập lại.
– Ta có nói đúng không nào? nụ cười muốn nói: chăng phải lúc nào ta cũng đúng sao?
– Làm thế nào mà anh phát hiện ra thế, hả Rafeek? Rais hỏi.
– Một sự phối hợp giữa may mắn và công tác điều tra,
Khatib khiêm tốn lên tiếng. Thật là may mắn, chúng ta đều biết đó là món quà của thánh Allah, người luôn mỉm cười với Rais.
Tiếng đồng tình lại vang lên trong căn phòng.
– Hai hôm trước cuộc tấn công của bọn ném bom của lũ Beni Naja, một chốt giao thông đã được lập lên trên một con đường gần đó. Đó là một điểm canh thường lệ do người của tôi điều hành để quản lý những đi lại của bọn người sa mạc, buôn lậu hàng hóa… Các số xe đều bị ghi lại. Hôm kia tôi đã kiểm tra chúng và phát hiện phần lớn trong số những chiếc xe đó đều là xe địa phương – xe hơi cũng như xe tải. Nhưng một cái rất đắt tiền, được đăng ký ở Baghdad này. Chủ nhân đã bị tìm ra, một người có thể có lý do để đến thăm Al Qubai. Nhưng một cú điện thoại đã chắc chắn anh ta không đến cơ sở đó. Tại sao, tôi tự hỏi, liệu anh ta có ở khu vực đó không?
Hassan Rahmani gật đầu. Đó là công tác điều tra cơ đấy. Và cũng chẳng hề giống với Khatib vẫn thường xuyên chỉ biết chém to kho mặn.
– Thế tại sao hắn lại ở đó? Rais hỏi.
Khatib ngừng lại để tăng hiệu ứng lời nói của mình.
– Để ghi chép chi tiết về bãi rác ôtô, đê xác định khoảng cách từ vị trí đánh dấu gần nhất và những thứ khác mà Không quân cần để có thể tìm ra.
Một tiếng thở phào vang lên trong cả căn phòng.
– Nhưng điều xảy ra sau đó, Sayid Rais. Thoạt tiên tôi mời thằng cha đến gặp tôi ở trụ sở AMAM để nói chuyện thẳng thắn.
Đầu óc Khatib quay trở lại về cuộc đối thoại thẳng thắn tại trụ sở dưới tòa nhà của AMAM ở Saadun, Baghdad, khu nhà được biết đến với cái tên Nhà tập.
Thường thì Omar Khatib để những người dưới mình tiến hành hỏi cung, chỉ tự mình làm tùy vào mức độ nghiêm trọng và giám sát kết quả. Nhưng lần này là một vấn đề có tính tế nhị cao mà ông ta đã phái tự mình thực hiện, không cho ai khác bước qua cánh cửa cách âm của căn phòng hỏi cung.
Từ nền của căn xà lim có hai cái cùm đê cách nhau một yard, và từ chúng có treo hai sợi dây xích móc vào một thanh gỗ cứng. Hai cổ tay của người bị tình nghi bị buộc vào thanh gỗ thế là anh ta bị treo bằng tay cách nhau một yard. Vì không được đứng trên chân mình, anh ta cảm thấy đau khủng khiếp.
Chân anh ta bị treo cách sàn bốn inch, mắt cá chân bị buộc vào một thanh gỗ dài một yard. Người tù bị treo thành hình chữ X khiến cho mọi bộ phận cơ thể anh ta đều đau đớn; Anh ta bị treo giữa phòng, có thể bị đánh từ mọi hướng. Omar Khatib để chiếc roi mây trên chiếc bàn bên cạnh và đi vòng ra trước mặt anh ta. Tiếng thét hãi hùng của người đàn ông sau 50 đòn đầu tiên đã ngừng lại, để bật ra những tiếng rền rĩ van lơn. Khatib nhìn chằm chằm vào mặt anh ta.
– Anh điên lắm, anh bạn của tôi ạ. Anh có thể kết thúc tất cả những chuyện này dễ dàng lắm mà. Anh đã phản bội Rais, nhưng ông ấy sẽ tha thứ thôi. Tôi chỉ cần lời khai của anh.
– Không, tôi xin thề. có thánh Allah . . . Allah vĩ đại, tôi chẳng hề phản bội ai hết.
Người đàn ông rên rỉ như một đứa trẻ con, nước mắt ràn rụa trên mặt. Anh ta thật mềm yếu, Khatib nhận ra như vậy; việc này sẽ không tốn mấy thời gian nữa.
– Có chứ, anh đã phản bội. Có thánh Allah – anh có biết như thế có nghĩa là thế nào không?
– Có chứ ạ, người đàn ông thì thầm.
– Và anh biết ở đâu thì được an toàn không?
Khatib nâng đầu gối lên đánh thật mạnh về phía trước. Người đàn ông muốn tránh nhưng không nổi. Anh ta nôn ọc cả người mềm oặt ra.
– Có – gì?
– Có thưa sayid.
– Tốt hơn rồi đấy. Thế Cú đấm của Thượng đê được giấu ở đâu nào – kẻ thù chúng ta không thể biết được chúng phải không nào?
– Không, sayidi, đó là một bí mật.
Bàn tay Khatib vung lên và chìa ra trước mặt người tù.
– Manyouk, manyouk. thế bằng cách nào máy bay kẻ thù lại có thể đến đánh bom và phá hủy của chúng ta vào sáng sớm?
Người tù mở to mắt, cơn choáng đã làm anh ta quên đi sự hổ thẹn của lời lăng nhục. Trong tiếng A-rập manyouk có nghĩa là người đóng vai đàn bà trong các cặp tình nhân đồng tính luyến ái nam.
– Nhưng không thể thế được. Chỉ có rất ít người biết được về Al Qubai…
– Nhưng kẻ thù lại biết… Chúng đã phá hủy chúng.
– Sayidi, tôi thề đấy. không thể được đâu. Chúng không bao giờ có thể tìm ra. Người xây dựng nó, tướng Badri, đã nguy trang nó rất kỹ mà…
Cuộc hỏi cung tiếp tục thêm chừng nửa giờ nữa cho đến khi có kết luận cuối cùng.
Khatib bị chính Rais cắt dứt dòng hồi tưởng.
– Thế kẻ phản bội là ai vậy?
– Tên kỹ sư, tiến sĩ Salah Siddiqui, thưa Rais.
Một khoảng im lặng. Tổng thống chậm rãi gật đầu, như thể ông đang nghi ngờ toàn bộ con người này.
– Có thể hỏi, Hassan Rahmani nói, thằng cha nó làm việc cho ai?
Khatib liếc một cái nhìn nham hiểm về phía Rahmani và ngừng một lúc.
– Điều đó thì hắn không chịu nói, sayid Rais.
– Nhưng hắn sẽ nói, sẽ nói thôi, tổng thống nói.
– Sayid Rais, Khatib thì thầm, tôi e rằng tôi phải báo cáo rằng vào cuối cuộc hỏi cung này, kẻ phản bội đã chết.
Rahmani chồm lên, quên hết cả nghi thức.
– Thưa tổng thống, tôi phải phản đối. Điều này cho thấy một sự kém năng lực đến khó tin. Tên phản bội hẳn phải có đường dây liên hệ với kẻ thù, con đường mà hắn ta đã gửi đi các thông tin. Chúng ta sẽ không thể biết được.
Khatib ném vào anh một cái nhìn của lòng thù hận cháy bỏng mà Rahmani, người đã đọc Kipling khi còn là một đứa trẻ ở trường của ông Hartley. nhớ đến Krait, con rắn đã kêu lên “Cẩn thận, ta chết dây”.
– Ông có thể nói gì nào? Rais hỏi.
Khatib ngẩn người! “Sayid Rais, tôi phải nói gì ư? Những người phục vụ dưới quyền tôi yêu kính ngài như cha đẻ của họ vậy – không, còn hơn thế nữa. Họ có thể chết cho ngài. Khi họ nghe nói rằng thằng cha này phản bội… thật quả là không sao chịu nổi.”
Ngu thế cơ chứ, Rahmani nghĩ. Nhưng Rais lại chậm rãi gật đầu. Đó là kiểu nói mà ông ta rất thích nghe.
– Có thể hiểu được chứ, Rais nói. Những việc như thế đã xảy ra đấy. Còn anh, thưa tướng quân Rahmani, anh chỉ trích đồng nghiệp của mình, thế anh đã có thành công nào chưa? Có thể thấy rằng Rahmani không mấy quan tâm đến Rafeek, “đồng chí”. Anh cần phải thận trọng, rất thận trọng.
– Có một máy phát tại Baghdad này, sayid Rais.
Anh chuẩn bị nói điều thiếu tá Zayeed đã cho anh biết. Anh nghĩ cần thêm vào câu cuối cùng. – thêm một lần chuyển tin nữa, nếu chúng tôi tóm được, tôi nghĩ chúng tôi sẽ tóm được tên gửi chúng đi”. – nhưng anh quyết định có thể chờ đợi thêm.
– Thế thì sau khi kẻ phản bội đã chết: Rais nói, tôi có thể nhắc lại với anh điều tôi đã nói hai ngày trước. Cú đấm. của Thượg đế đã không bị phá hủy, thậm chí còn không bị chôn vùi. 24 giờ sau vụ ném bom, tôi đã lệnh chuyển nó ra chỗ khác an toàn hơn.
Mất nhiều giây những tiếng vỗ tay mới chấm dứt như đám đông đang ngưỡng mộ người chỉ huy thiên tài của mình.
Ông ta nói với họ vũ khí đã được chuyển đến Pháo đài, nơi không thể với đến. và từ Qa’ala nó có thể được phóng ra, để thay đổi toàn bộ lịch sử, vào ngày đầu tiên, chiếc ủng đầu tiên của bộ binh Mỹ bước lên vùng đất thánh Iraq.