Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 15



Hạn cuối cho Saddam Hussein để rời khỏi Kuwait đã hết vào nửa đêm ngày 15 tháng Giêng. Trong một nghìn căn phòng, lều, tăng, và cabin trên khắp nước Arập Xêut, và ở Biển Đỏ cũng như vịnh Arập, những người đàn ông nhìn đồng hồ rồi nhìn nhau. Chẳng có gì mà nói cả.

Hai tầng bên dưới Bộ Quốc phòng Xêut, sau những cánh cửa thép có thể chống mọi quả đạn tăng trên đời, gần như có một cảm giác chán ngán. Sau tất cả các công việc, tất cả những gì đã được lên kế hoạch, chẳng còn gì để làm nữa cả – trong vài giờ. Giờ đây công việc đã đổ xuống vai những chàng trẻ tuổi. Họ đã có nhiệm vụ của mình, và họ có thể thực hiện trong bóng tối đường băng rất xa bản doanh của các vị tướng.

Vào 2 giờ 15 sáng, tướng Schwarzkopf đi vào gian phòng chiến tranh. Mọi người đều đang đứng. Ông đọc to một thông báo cho các đội quân, người đàn ông cầu nguyện, và vị chỉ huy nói: “Được rồi, để họ đi làm đi”.

Ngoài xa qua sa mạc, những người đàn ông đã vào việc. Lần đầu bay qua biên giới không phải những chiếc máy bay chiến đấu mà là một đội bay gồm tám chiếc trực thăng Apache thuộc về Sư đoàn Không quân 101 của quân đội. Nhiệm vụ của họ nhỏ nhưng là chủ yếu.

Về phía bắc biên giới nhưng không xa Baghdad là hai căn cứ rađa mạnh của Iraq, với những chiếc đĩa quan sát cả bầu trời vùng Vịnh từ đông sang tây sa mạc.

Những chiếc máy bay trực thăng đã được lựa chọn, dù có tốc độ thấp so với những chiếc máy bay siêu âm, bởi hai lý do. Đi thăm dò sa mạc, chúng có thể bay dưới tầm rađa và tiếp cận các căn cứ đó mà không bị phát hiện; hơn thế nữa, những người chỉ huy muốn có sự xác nhận của mắt con người rằng các căn cứ đó đã thật sự tồn tại, và ở rất gần. Chỉ những chiếc cánh quạt mới làm được diều đó. Có thể tốn nhiều mạng người nếu những máy rađa đó hoạt động được.

Những chiếc Apache làm được tất cả những gì được yêu cầu Chúng đã không bị phát hiện khi bắt đầu khai hoả. Tất cả đội bay đều có mũ đội gắn kính hồng ngoại, trông như những chiếc ống nhòm thòi ra từ phía trước. Chúng giúp phi công có tầm nhìn đêm hoàn hảo, để trong đêm tối mịt mùng với mắt thường anh ta có thể nhìn mọi thứ như thể trong một đêm sáng trăng.

Thoạt tiên họ dò các máy phát điện phục vụ máy rada, rồi các thiết bị liên lạc từ đó sự có mặt của họ có thể bị báo cáo cho các trận địa tên lửa xa hơn trong nội địa, và cuối cùng, họ bắn tung các dĩa rađa.

Trong chưa đầy hai phút họ đã bắn tới tấp 27 tên lửa có laser dẫn đường Hellfire, một loạt 100 quả rocket 70 ly, và 4000 vòng đạn pháo hạng nặng. Cả hai địa điểm ra đa đều bị phá huỷ.

Công vụ mở ra cả một lỗ hổng lớn trong hệ thống phòng không của Iraq, và qua lỗ hổng đó đã nhảy xổ vào cả phần còn lại của chuyến tấn công đêm này.

Những người nhìn thấy kế hoạch chiến tranh trên không của tướng Chuck Horner sau này đều cho rằng đó là một trong những kế hoạch giỏi nhất từng có. Nó bao gồm một cột trụ, chính xác đến từng bước và có đủ độ linh hoạt để đối đầu với mọi bất trắc cần đến thay đổi.

Bước một đã khá rõ ràng trong các mục tiêu và được chuyển sang ba giai đoạn khác. Đó là tiêu diệt mọi hệ thống phòng không của lraq và chứng tỏ sự vượt trội của không quân Liên quân? với nó họ đã bắt đầu, thành tối cao của không quân.

Trong ba giai đoạn còn lại tiếp theo trong vòng kỳ hạn 35 ngày tự đặt ra, máy bay của Liên quân sẽ phải có được thế thượng phong đè bẹp đối phương ở trên không. Khi đàn áp phòng không của Iraq, vấn đề cốt yếu là rađa.

Trong chiến tranh hiện đại, rada là cái quan trọng hàng đầu và là công cụ được sử dụng nhiều nhất, mặc cho sự chói sáng của tất cả những cái khác trong khí tài.

Rađa dò xét được các máy bay chiến đấu đang bay đến gần, rađa hướng lối cho máy bay của chính họ đến nơi cần đến; ra đa hướng lối cho các tên lửa phòng không; và ra đa hướng đường bắn cho pháo.

Phá huỷ ra đa khiến kẻ thù trở nên mù loà, giống như một võ sĩ quyền anh hạng nặng trên sàn đấu không có mắt. Anh ta có thể to lớn và vẫn rất khoẻ, anh ta có thể ra được những cú đấm kinh người, nhưng kẻ thù của anh ta có thể vòng xung quanh chàng Samson mù loà, nháy nhót và chơi những cú làm anh chàng khổng lồ mệt nhoài cho đến lúc trọng tài tuyên bố anh ta thua cuộc.

Với lỗ thủng to đùng ngay ở tầm khống chế hệ thống rada của Iraq, các máy bay Tornado và Eagle, những chiếc Aardvard F-111 và F-4G Wild Weasel sẽ xuyên qua chỗ hở đó, đến được các địa điểm rađa sâu hơn trong nội địa, đến được các căn cứ tên lửa do các căn cứ rađa đó hướng lối, nhắm vào các trung tâm chỉ huy nơi các viên tướng lraq đang ngồi, và thổi bay các địa điểm liên lạc qua đó các viên tướng cố truyền đạt mệnh lệnh cho các đơn vị bên ngoài.

Từ các tàu chiến Wisconsin và Missouri và chiếc San Jacinto ngoài Vịnh, 52 tên lửa hành trình Tomahawk được bắn ra trong đêm đó. Chúng do một tổ hợp ngân hàng dữ liệu được máy tính hoá và máy camera vô tuyến điện, những chiếc Tomahawk đến được các nơi, chiếm thế thượng phong tại đó. Khi đã đến nơi, chúng “nhìn” thấy mục tiêu, so sánh chúng với cái có trong bộ nhớ, xác định toà nhà chính xác, và bắn vào trong đó.

Wild Weasel là một phiên bản của Phanton, nhưng được chế tạo đặc biệt để tiêu diệt rada. Nó mang theo những HARM, những tên lửa chống xạ tốc độ cao. Khi một chiếc đĩa rađa loé sáng hoặc “phát sáng”, nó sẽ tạo ra các sóng điện từ, và để bị lộ. Nó không thể tránh thế được. Công việc của những HARM là tìm những sóng đó bằng các bộ cảm ứng của mình và đi thẳng đến trung tâm của rađa trước khi nổ tung.

Có thể máy bay chiến đấu lạ nhất trong số đó đang bay về bắc ở trên trời cao đêm đó là máy bay F-117A, được biết đến như máy bay chiến đấu Stealth. Toàn thân màu đen, nó được chế tạo với một hình dạng mà nhiều chiều của nó tránh được hầu hết các sóng rađa hướng lên vào nó và hấp thụ phần còn lại vào chính mình, chiếc chiến đấu Stealth không để những sóng rada đối nghịch trở về máy thu và do đó để lộ sự tồn tại của nó cho kẻ thù.

Là tàng hình, những chiếc F- 117A đêm đó đã bay qua bay lại không bị phát hiện qua các màn hình rađa Iraq để ném những quả bom 2000 pound do lazer dẫn đường rất chính xác vào 34 mục tiêu dính với hệ thống phòng không quốc gia. 13 trong số các mục tiêu đó là ở ngay ngoài Baghdad.

Khi những quả bom đó xuống đến mặt đất người Iraq sẽ loé hết cả mắt nhưng nhìn lên sẽ không thấy gì hết. Trong tiếng Arập, Stealth có nghĩa là shabah; có nghĩa là “ma”. Chúng đến từ căn cứ bí mật của Khamis Mushait sâu ở miền nam Arập Xêut, nơi chúng đã được chuyển từ nhà Tonopah, Nevada, cũng bí mật như thế. Trong khi những phi công Mỹ kém may mắn hơn phải sống trong lều trại, Khamis Mushait được xây dựng cách xa hàng dặm nhưng với bầu nhiên liệu rất lớn và hệ thống điều hoà nhiệt độ, nguyên nhân người ta để những chiếc Stealth ở đó.

Vì phải bay xa đến thế, có thể là những phi vụ đường xa nhất trong chiến tranh, đến sáu giờ bay từ khi cất cánh đến khi tiếp đất, và tất cả đều bí mật. Chúng bay mà không hề bị phát hiện qua một số trong các hệ thống phòng không dày đặc nhất trên thế giới – của Baghdad – và không một cái nào bị hề hấn gì, trong đêm đó cũng như những đêm khác.

Khi chúng đã làm xong điều phải làm, chúng liền bay đi, hành trình như những đợt sóng trên một mặt biển hiền hoà, và quay trở về Khamis Mushait.

Công việc nguy hiểm nhất của đêm đến với những chiếc Tornado của Anh. Nhiệm vụ của họ, và trong tuần tiếp đó cho đến khi không còn nữa, là “không chiến”, sử dụng những quả bom JP-233 to đùng của mình. Vấn đề của họ khó gấp hai. Người Iraq đã xây dựng những lá chắn tên lửa cực kỳ lớn. Tallil lớn gấp 4 lần Heathrow, với 16 đường băng và đường cho xe taxi có thể được sử dụng để cất và hạ cánh cùng lúc. Chỉ đơn giản là không thể tiêu diệt nó hoàn toàn ngay lập tức được.

Vấn đề thứ hai là về độ cao và tốc độ. Những quả bom JP- 233 phải được phóng ra từ một chiếc Tornado trong khi bay thẳng tuyệt đối và ở một độ cao nào đó. Ngay cả sau khi thả bom, những chiếc Tornado vẫn không có cách lựa chọn nào khác là bay qua mục tiêu. Ngay cả khi những chiếc rada đã bị hạ gục, thì những tay súng vẫn không hề: pháo chống máy bay, được biết đến như là A nhân ba, bắn đến chúng bằng những đợt sóng cuộn khi chúng lại gần, cho nên một phi công đã miêu tả những phi vụ đó là “bay qua những cái ống thép mềm”.

Những người ném bom không phải là những người duy nhất bay đêm đó. Đằng sau chúng và với chúng còn bay theo cả một đống công tác phục vụ đặc biệt khác nữa.

Những chiếc máy bay chiến đấu sức mạnh vượt trội bay qua lại trên những chiếc thả bom. Những lệnh của những người chỉ huy mặt đất của Iraq cho các phi công của mình – một số ít người được cất cánh đêm đó – đã bị những chiếc Raven của Mỹ và Prowler của Hải quân đè nát. Các phi công Iraq bay đêm đó không có chỉ dẫn bằng lời và không có rađa hướng lối. Một cách khôn ngoan, hầu hết đều bay về nhà.

Bao quát phần phía nam của biên giới là 60 chiếc tiếp nhiên liệu: KC-135 và KC-10 của Mỹ, KA-6D của Hải quân Mỹ và Victor và VC-10 của Anh. Công việc của chúng là nhận những chiếc máy bay chiến đấu đến từ Arập Xêut, cấp nhiên liệu để chúng đi làm nhiệm vụ, rồi gặp chúng trên dường chúng lui về để tiếp nhiên liệu nữa để về được nhà. Điều này nghe có vẻ thường, nhưng trên thực tế được làm trong bóng tối được miêu tả bởi một lái máy bay là “cố nhét spaghetti vào một cái lỗ nhỏ”.

Và bên ngoài Vịnh, nơi chúng đã ở đó 5 tháng nay, những chiếc Hawkeye E-2 của Hải quân Mỹ và những chiếc Sentry AWACS E-3 của USAF bay vòng vòng. ra đa của chúng hướng lên mọi máy bay của mình và của bên đối phương trên bầu trời, cảnh báo, khuyên nhủ, hướng lối, và nhìn ngó.

Vào lúc hoàng hôn, những chiếc rađa của Iraq đã gần như bị quét sạch, các căn cứ quân sự của nước này trở nên mù loà Và những trung tâm chỉ huy chính bị phá huỷ. Có thể mất đến bốn ngày đêm nữa mới có thể hoàn thành công việc, nhưng thế thượng phong về không lực đã thấy rõ. Sau đó có thể đến các trạm phát điện, các tháp thông tin, liên lạc điện thoại, các trạm hoãn, kho chứa máy bay, các tháp điều khiển, và tất cả những cái được coi là thiết bị để sản xuất và trữ vũ khí huỷ diệt toàn bộ.

Sau đó có thể đến sự “xuống cấp” có hệ thống dưới 50% lực lượng không quân của quân đội Iraq ở phía nam và tây nam biên giới với Kuwait, một điều kiện mà tướng Schwarzkopf nhấn mạnh trước khi ông có thể dùng quân trên bộ tấn công.

Hai nhân tố khi đó chưa được biết đến sau này có thể làm thay đổi tiến trình cuộc chiến. Một là quyết định của Iraq bắn một loạt tên lửa Scud vào Israell cái còn lại là một hành động nóng nảy của đại uý Don Walker của Đội bay chiến thuật số 336.

Bình minh đang lên vào buổi sáng ngày 17 tháng Giêng trên Baghdad đã bị rung chuyển rất mạnh. Các công dân không thể ngủ tiếp sau một chấn động vào lúc ba giờ sáng, và khi ánh sáng ban ngày đến, một số trong đó đã liều lĩnh ra ngoài để thám thính một cách tò mò một số địa điểm chính của thành phố. Họ sống sót qua đêm dường như đã là cả một sự kỳ diệu, vì họ không thể không nhận ra rằng 20 chỗ đang bốc khói đã được lựa chọn cẩn thận và được bắn với độ chính xác mà dân thường không hề bị nguy hiểm gì lớn.

Nhưng cảm giác sốc thật sự là giữa các quan chức. Saddam Hussein đã rời khỏi Dinh Tổng thống và đang trốn ở boong ke kỳ ảo lạ lùng của mình ở sau và dưới khách sạn Rashid, vẫn còn rất đông người phương Tây, chủ yếu là giới truyền thông.

Boong ke đã được xây dựng nhiều năm trước đây trong một khu chống được động đất, chủ yếu với công nghệ Thuỵ Điển. Các biện pháp an ninh của nó rất tinh vi và thực sự là một cái hộp ở trong một cái hộp khác, và bên dưới và xung quanh cái hộp bên trong là hàng loạt những sức mạnh để bảo vệ những người trong đó khỏi một quả bom nguyên tử, giảm bớt các xung lực có thể làm đảo lộn cả thành phố bên trên mà ở dưới chỉ còn thấy như một chấn động nhỏ.

Mặc dù đường vào phải đi qua cả một loạt những hệ thống ống nước ở dưới khách sạn, thì cấu trúc chính vẫn nằm dưới Rashid, cái đã được xây dựng có tính toán ở mặt đất phía trên như một nơi ở đặc biệt dành cho người phương Tây ở Baghdad.

Bất kỳ kẻ thù nào có ý định thâm nhập sâu bằng cách ném bom vào boong ke sẽ phải chơi Rashid trước. Dù cố gắng cách nào, những ống ngầm xung quanh Rais vẫn rất chắc chắn tạo ra những rung động ban đêm. Chầm chậm, mức độ của thảm hoạ sẽ đi vào trong mọi tâm trí.

Họ đã trông chờ tất cả vào một trận ném bom boong ke, cái đã làm cho các vị trí bị san phẳng và hàng nghìn người dân vô tội phải chết. Thảm hoạ này sẽ được giới báo chí đưa tin, sẽ được quay phim và chứng tỏ cho tất ca các khán giả rồ cả người vì sợ ở nhà. Do đó có thể bắt đầu làn sóng phản đối tông thông Bush và nước Mỹ trên toàn thế giới, có thể đạt đến một phiên họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và phiếu chống của Trung Quốc và Nga.

Rõ ràng rằng “Con của Chó” từ bên kia Đại Tây Dương không thể dám làm. Cho đến lúc này khi các vị tướng của Iraq đã đề phòng, những quả bom rơi lân cận nơi họ đã nhắm đến, nhưng đó là tất cả. Với tất cả các vị trí trọng yếu về quân sự ở Baghdad được xây dựng có chủ đích tại các khu dân cư đông đúc, sẽ là không thể đối với các thương vong dân thường để phải tránh. Và trong một lần đi vòng quanh thành phố 20 điểm chỉ huy, các địa điểm tên lửa, căn cứ rađa, và các trung tâm liên lạc bị bắn vào, những cái trong các toà nhà ở tầm ngắm đã sống hơn là các cửa sổ bị vỡ và thậm chí không bị hư hại gì quá nặng cả.

Giới cầm quyền phải tự thoả mãn với việc tự sáng tác một danh sách dân thường bị chết và kêu la rằng Không quân Mỹ đã bắn rụng như lá mùa thu. Phần lớn người lraq, trong nhiều năm bị tuyên truyền làm mê mụ, tin tưởng ở các báo cáo đầu tiên đó – trong một thời gian.

Các viên tướng chịu trách nhiệm phòng không biết rõ hơn. Rõ ràng với họ đã mất hầu hết các ra đa áo trước mọi chuyện, rằng các SAM của họ – các tên lửa đất đối không – đã bị mù, và liên lạc với các đơn vị bên ngoài đã bị cắt đứt hoàn toàn. Tồi tệ hơn nữa, những người vận hành ra đa sống sót đã làm thiệt hại lớn hơn do các máy bay thả bom chỉ đơn giản là không làm hiện lên trên màn hình. Những tên nói dối đã ngay lập tức bị tóm cổ.

Một số thiệt hại về dân thường trên thực tế cũng có xảy ra. Ít nhất hai tên lửa đạn đạo Tomahawk đã nổ trật mục tiêu. Một cái đã làm sập hai ngôi nhà và làm lật mái một nhà thờ, mà báo chí đã đưa tin vào buổi trưa.

Quả còn lại đã rơi vào đất trong phố và tạo ra một lỗ sâu hoắm. Trong buổi trưa đầu tiên xác một người phụ nữ đã được tìm thấy ở dưới đáy, bị nát nhừ bởi sức ép.

Những loạt thả bom tiếp tục trong ngày, đến nỗi cứu thương không được chuẩn bị về cáng, đưa đến nhà xác của bệnh viện gần nhất, và để nó lại đó. Bệnh viện lại gần với một trung tâm chỉ huy Không quân đã bị phá huỷ, và tất cả các giường đều có các nhân viên bị thương ở đó nằm. Nhiều xác người đã được đưa đến cùng nhà xác đó, tất cả đều chết vì bom. Người phụ nữ chỉ là một trong số đó.

Với các nguồn tin ở mục tin khẩn cấp, nhà bệnh học làm việc rất nhanh và đầy tò mò. Sự định dạng và nguyên nhân cái chết là những ưu tiên hàng đầu của ông ta. và ông ta không có thời gian để khám những bệnh nhẹ. Qua thành phố tiếng ì ùng của bom nổ có thể nghe thấy, và ánh chớp của lưới đạn phòng thủ cũng không ngừng. ông ta không nghi ngờ gì rằng tối và đêm có thể sẽ mang lại cho ông nhiều xác chết hơn.

Điều làm vị bác sĩ ngạc nhiên là tất cả các xác chết của ông đều là nhân viên Nhà nước, trừ người phụ nữ. Thứ bụi có trong vệt máu trên khuôn mặt đã nhừ nát của cô ta, đi kèm với chỗ cô ta được tìm thấy, cho thấy không có giải thích nào ngoài việc cô ta đang chạy thì quả tên lửa đã rơi xuống bãi đất và giết chết cô ta. Xác chết đã được gói lại, rồi đem đi chôn.

Chiếc xắc tay của cô ta được tìm thấy gần xác chết, và nó chứa một gói bột, son môi, và những cái thẻ của cô ta. Đó là Leila Al-Hilla, không nghi ngờ gì nữa là nạn nhân dân thường đầu tiên của đợt bom, nhà bệnh học kiệt sức đã lệnh đưa cô ta đi để chôn ngay lập tức.

Khám nghiệm tử thi mà ngày 17 tháng Giêng đó không thể thực hiện có thể cho thấy người đàn bà đã bị hiếp dâm nhiều lần và rất tàn bạo trước khi bị đánh một cách có hệ thống đến chết. Mãi nhiều giờ sau đó thứ bột trong hố bom mới được tìm thấy.

Tướng Abdullah Kadin đã chuyển từ văn phòng tráng lệ của mình ở Bộ Quốc phòng hai ngày trước. Không thể có chuyện ở lại đó để bị bom Mỹ băm nhừ, và ông ta dược chắc rằng Bộ có thể bị ném trúng và bị phá huỷ trước khi cuộc không chiến còn nhiều ngày nữa. ông ta đã đúng.

Ông đã về ngôi biệt thự của mình, mà ông có thể chắc chắn một cách có lý là khá không được biết tới – dù rất xa hoa – không hề nằm trên bản đồ mục tiêu của Mỹ. Về điểm thì ông lại tiếp tục đúng.

Ngôi biệt thự từ lâu đã được cung cấp với phòng liên lạc riêng, với nhân viên từ Bộ vận hành. Tất cả các máy móc liên lạc cho đại bản doanh chỉ huy của Quân đội xung quanh Baghdad đã được chôn ngầm, xây cáp quang, cái cũng ở ngoài tầm của những máy bay ném bom.

Chỉ các đơn vị xa mới được thông tin qua vô tuyến điện, với một dường dây nối – dĩ nhiên, là những đơn vị ở Kuwait.

Vấn đề của ông, khi bóng tối đã trùm lên Baghdad đêm đó, là không biết dùng cách nào để liên lạc với các vị chỉ huy Quân đội hay truyền lệnh gì cho họ. Họ có thể không tham dự vào cuộc không chiến, đã được lệnh phân tán xe tăng của mình càng trên diện rộng càng tốt, giữa những dãy cát hay chôn chúng xuống trong các boong ke ngầm sâu dưới đất và chờ đợi.

Vấn đề của ông ta đúng hơn là an ninh cá nhân, và ông ta không hề sợ người Mỹ.

Hai đêm trước, tỉnh dậy trong giường của mình với một bộ mặt nhàu nhĩ vì rượu arak như thường lệ, ông ta chui vào nhà tắm, ông nghĩ cánh cửa bị kẹt và xô thật mạnh, 200 pound cơ thể ông ta lao đánh ầm vào và cánh cửa mở tung ra.

Rất hung ác, nhưng Abdullah Kadin không phải đến từ một phố hậu gần Tikrit để có thể chỉ huy tất cả các xe tăng của lraq ngoài Đội Vệ binh, đã không leo lên bằng con đường huyết thống bên trong đảng Ba’ath, và đã không có được một vị trí được tin cậy trong Hội đồng Chỉ huy Cách mạng mà không có hàng đống khôn ngoan của con thú.

Ông ta đã im lặng nhìn chằm chằm vào nhân tình của mình, quấn mình trong một chiếc áo dài ngồi trên bồn cầu, tờ giấy là mặt sau của một hộp Kleenx, mồm cô ta thành hình chữ O vì kinh ngạc và hoảng sợ, chiếc bút vẫn còn lủng lẳng. Rồi ông đá vào chân cô ta và đấm vào hàm cô.

Khi cô ta bị nhúng đầu vào trong nước, ông ta có thời gian đọc báo cáo cô ta đang chuẩn bị và gọi khẩn cấp anh chàng Kemal trung thành từ chỗ của anh ta đi qua sân. Chính Kemal là người chịu trách nhiệm cho toàn bộ toà nhà.

Kađiri đã đọc đi đọc lại bản báo cáo cô ta gần như đã viết xong. Liệu nó có liên quan đến những thói quen và sở thích cá nhân của ông ta, một kẻ ghét thư từ, ông ta có thể đã đuổi và chỉ đơn giản là giết cô ta. Những kẻ xung quanh Rais cũng khá giống Rais. Ông cũng biết là Rais sẽ chẳng để ý đâu.

Điều đó còn tồi tệ hơn. Vẻ ngoài ông ta nói về những điều đã xảy ra trong chính phủ và trong Quân đội. Quá rõ là cô ta đang làm gián điệp. Ông cần biết cô ta đã làm thế trong bao lâu và đã báo những gì, và cơ bản hơn cả, là làm cho kẻ nào. Kemal đầu tiên sung sướng vô cùng, với sự cho phép của ông chủ. Không người đàn ông nào thoả mãn đến thế sau khi Kemal đã kết thúc cuộc hỏi cung. Mất hàng giờ. Rồi, Kadiri đã biết, Kemal đã có tất – chí ít, mọi điều cô gái giang hồ biết.

Sau đó, Kemal tiếp tục sự thoả mãn riêng của mình cho đến khi cô ta chết.

Kadiri đã được thuyết phục rằng cô ta không biết sự thật về người đàn ông đã trả tiền cho cô ta và thuê cô ta do thám ông, nhưng bức tranh đó đã đủ để vẽ ra Hassan Rahmani.

Sự mô tả của những vụ đổi chác thông tin lấy tiền trong phòng xưng tội của nhà thờ Thánh Joseph cho thấy người đàn ông rất chuyên nghiệp, và Rahmani rõ ràng là người như thế. Điều có thể bị nhìn thấy không làm Kadiri bận lòng. Tất cả những người xung quanh Rais đều bị nhìn thấy; trên thực tế, họ nhìn lẫn nhau. Các quy tắc của Rais rất đơn giản và rõ ràng.

Mọi người ở cấp cao đều bị theo dõi và bị báo cáo bởi ba trong số những người khác. Một sự phản bội có thể và có khả năng làm sụp đổ tất cả Do đó, ít kẻ phản bội có thể đi xa được. Một trong số những người đó tin tưởng có thể báo cáo về vấn đề, và điều đó có thể đến được tai Rais.

Để làm vấn đề thêm phức tạp, mỗi thành viên xung quanh đều đôi khi bị thử, để xem thử phản ứng của người đó. Một đồng nghiệp, được sử dụng để làm điều đó, có thể lôi kéo theo người bạn và làm anh ta liên luỵ.

Nếu người bạn đồng ý, thế là anh ta tiêu. Nếu anh ta thất bại không báo cáo được người đề nghị, anh ta cũng tiêu. Thế là cách nào cũng có thể là một sự khiêu khích – điều đó chỉ đơn giản là quá bất cẩn để mà làm khác. Do đó, tất cả đều báo cáo về những người khác.

Nhưng ở đây thì lại khác. Rahmani là giám đốc Phản gián. Liệu ông ta có báo cáo về chính mình, và nếu có thế, thì tại sao? Liệu đó có phải là một chiến dịch với sự hiểu biết và đồng tình của chính bản thân Rais, và nếu đúng thế. thì tại sao?

Ông ta đã nói gì? Viên tướng băn khoăn. Mọi điều đều rất kín đáo, hẳn nhiên rồi. Nhưng phản bội ư?

Cái xác ở trong toà nhà cho đến khi bom rơi xuống, khi Kemal đã tìm thấy một hố bom ở một bãi đất trống để đùn nó xuống. Viên tướng nhấn mạnh là cái túi xắc cần để bên cạnh đó. Hãy để cái thằng con hoang Rahmani đó biết điều gì đã xảy đến với kế hoạch chó má của hắn.

Khi đã quá nửa đêm, tướng Abdullah Kadiri lên cơn nóng sốt, rỏ nước vào arak. Nếu đó chỉ là Rahmani, thì ông ta có thể kết thúc tên con hoang. Nhưng bằng cách nào có thể biết cái thang đó dẫn đến đâu? Ông ta có thể cần cẩn trọng, cẩn trọng hơn nhiều so với trước. Những chuyến đi đêm vào thành phố cần kết thúc. Dù thế nào đi nữa, khi cuộc chiến tranh trên không đã bắt đầu, thì đã là thời gian để dừng lại rồi.

Simon Paxman bay về London. Không còn vấn đề gì nữa đế tiếp tục ở lại Riyadh. Jericho chắc hẳn đã bị đá bởi CIA, mặc dù sư đoàn vô hình ở Baghdad có thể còn chưa biết điều đó, và Mike Martin vẫn ở lại cho đến khi có thể trốn thoát ra sa mạc và tìm cách an toàn trốn qua biên giới.

Tiếp theo đó, Paxman có thể đặt tay lên tim cuộc họp vào buổi tối ngày 18 với tiến sĩ Terry Martin như là một sự trùng hợp thật sự. Anh ta biết Martin sống ở Bayswater, cũng như chính anh ta, nhưng đó là một khu ngoại ô rộng lớn với nhiều cửa hàng.

Với người vợ đã đi thăm mẹ ốm và chưa biết lúc nào quay về, Paxman đã đến nhà vào căn hộ trống không và một tủ lạnh rỗng tuếch, thế là anh ta đi mua sắm ở siêu thị mở cửa muộn ở Westbourne Grove.

Xe của Terry Martin suýt đâm thẳng vào anh ta khi anh ta đang đi qua góc của những ngăn hàng pasta và thức ăn gia súc Cả hai người đều la hoảng.

– Tôi có được phép biết anh không đấy? Martin hỏi với một nụ cười bối rối.

Lúc đó trong đường không có ai khác.

– Sao không chứ? Paxman nói. Tôi chỉ là một công chức bình thường đang đi mua đồ cho bữa tối thôi mà.

Họ cùng nhau đi mua đồ và thoả thuận đến ăn ở một cửa hàng Ấn Độ. Hilary, có vẻ như thế, cũng đang đi xa.

Paxman có thể, dĩ nhiên, không làm điều đó. Anh ta có thể không bao giờ cảm thấy bất tiện rằng người anh của Terry Martin đang ở trong một tình cảnh khá là nguy ngập và rằng anh ta, với những người khác, đã đẩy anh ta vào đó, điều đó có thể không làm anh ta bận tâm lớn rằng nhà học giả tin người có thể thực sự tin rằng người anh em yêu quý của mình đang được an toàn trong Arập Xêut. Mọi thứ đều nhấn mạnh rằng người kia không bận tâm đến cái loại việc đó. Nhưng anh ta lại làm thế.

Đó là một mối bận tâm khác. Steve Laing là thượng cấp của anh ở Nhà Thế kỷ, nhưng Laing chưa từng bao giờ đến Iraq. ông ta chuyên về Ai Cập và Jordan. Paxman biết Iraq – và tiếng Arập. Không như Terry Martin, dĩ nhiên, nhưng Martin là biệt lệ. Paxman biết khá đủ, qua nhiều chuyến đến thăm trước khi trở thành chỉ huy bàn Iraq, để tạo ra một sự kính trọng chân thành với trình độ các nhà khoa học lraq và sự giỏi giang của các kỹ sư của họ. Không có gì bí mật rằng phần lớn các viện kỹ thuật của Anh đều coi những người tốt nghiệp ở Iraq là giỏi nhất trong thế giới A rập.

Điều bận tâm đã đeo đẳng anh ta từ khi được các thượng cấp cho biết báo cáo cuối cùng của Jericho có thể không gì hơn là một thứ vô nghĩa chỉ đơn giản là sự lo lắng rằng, dù mọi thứ lệch lạc, lraq giờ đây có thể còn tiến lên xa hơn các nhà khoa học phương Tây đã chuẩn bị để tin.

Anh ta đợi cho đến khi hai suất ăn đã được dọn ra, được bao quanh bởi các lọ nhỏ gia vị mà nếu không có thì không món ăn Ấn Độ nào được là hoàn chỉnh cả, rồi nói:

– Terry này, anh ta nói, tôi sẽ làm một điều mà nếu nói ra có thể là cắt đứt sự nghiệp của tôi trong cơ quan đó.

Terry ngừng lại một chút.

– Có vẻ trầm trọng đó. Tại sao nào?

– Bởi vì tôi đã không báo cho anh.

Nhà học giả dừng lại khi đang gắp một mẩu xoài vào đĩa.

– Tôi không được coi là đáng tin nữa à?

– Chính Steve Laing đã bắt tôi phải làm thế đấy.

– Không phải. Vấn đề là – anh quá lo lắng đấy.

Paxman không được chuẩn bị để dùng những từ chửi thề của Laing.

– Có thể là thế. Đó là chuyện huấn luyện mà. Giới học giả không thích những thứ rắc rối dường như không có lời giải đáp.

– Còn chúng tôi thì phải tiếp tục lo lắng cho đến khi cái mẫu tự rắc rối đó bắt đầu có ý nghĩa. Câu đó có ý nghĩa gì khác không nhỉ?

– Có đấy, đó là những việc khác.

Paxman đã chọn món gà; Martin thích đồ nóng hơn, vindaloo. Vì anh biết món ăn phương Đông của mình, Martin uống trà đen, chứ không phải bia ướp lạnh, cái chỉ làm cho món ăn trở nên tồi tệ hơn mà thôi. Anh nháy mắt với Paxman qua khoé mắt.

– Được rồi. Thế lời thú tội to lớn là gì nào?

– Liệu anh có hứa là không ai biết nữa không?

– Dĩ nhiên rồi.

– Đã có một lời nói dối.

Paxman đã không có chủ định nhỏ nhất nào tiết lộ sự tồn tại của Jericho. Nhóm người biết có cá chìm ở Iraq rất nhỏ và nên chỉ là như thế.

– Liệu tôi có được nghe không đấy?

– Không. Đã bị khoá rồi. Đừng tiếp cận Sean Plummer. Ông ta đã phải chối, và điều đó có thể để lộ anh biết thông tin.

Martin ăn thêm raita để làm bớt vị cay của món cary.

– Thế cái mới đó là gì thế?

Paxman nói cho anh biết. Martin để rơi cái dĩa và mở mắt trừng trừng, đỏ hồng lên vì vị gừng.

– Liệu điều đó – liệu nó, trong bất kỳ trường hợp nào, có là đúng được không? Paxman hỏi.

– Tôi không biết. Tôi không phải nhà vật lý. Hắn ta đã nói thế à, phải không?

– Phải. các nhà khoa học về hạt nhân đã chỉ đơn giản là đồng ý điều đó không thể là sự thật. Rằng Saddam đã nói dối.

Thâm tâm, Martin nghĩ đó là một đoạn băng được nghe dở. Nó có thể như là một thông tin từ bên trong một cuộc gặp kín.

– Saddam nói dối, Martin nói, lúc nào cũng thế. Nhưng thường thì là với đám đông. Điều đó được nói ra trong đám thân tín của ông ta à? Tôi tự hỏi là tại sao? Một cách lên dây cót trước nguy cơ chiến tranh à?

– Các ông chủ nghĩ thế đấy, Paxman nói.

– Các vị tướng có được nói cho không?

– Không. Sự suy luận là, họ quá bận bịu để mà có thể ngay lập tức và không cần bị phiền nhiễu bởi cái gì đó chỉ đơn thuần là một sự rác rưởi.

– Thế anh muốn gì ở tôi, hả Simon?

– Tâm trạng của Saddam. Không ai có thể làm rõ điều đó. Không gì có thể được coi là có nghĩa ở phương Tây. Liệu ông ta có bẩn thỉu và cuội như cáo không?

– Trong thế giới của ông ta, thì là cái sau. Trong thế giới của ông ta, cái đó thì có nghĩa đấy. Sự kinh hoàng làm đảo lộn chúng ta không có nghĩa lý với ông ta đâu, và điều đó có nghĩa đấy. Những đe doạ và sự trừng phạt có nghĩa với ông ta. Chỉ khi nào ông ta cố gắng len chân vào thế giới của chúng ta – với những bài học PR ở Baghdad, cạo tóc đứa trẻ người Anh đó, chơi trò ông chú hiền từ, cái thể loại đó – chỉ khi đó ông ta mới cố tỏ ra một kẻ điên mà thôi. Trong thế giới riêng của ông ta thì ông ta không điên đâu. Ông ta sống sót, còn có quyền lực, ông ta giữ được lraq thống nhất, kẻ thù của ông ta thất bại và thua đau.

– Terry, chúng ta đang ngồi đây, còn đất nước ông ta thì đang được mạ bạc.

– Không vấn đề gì đâu, Simon ạ. Điều đó có thể thay thế được mà.

– Nhưng tại sao ông ta lại nói điều ông ta cần phải nói?

– Thế các ông chủ nghĩ thế nào?

– Rằng ông ta nói dối.

– Không đâu, Martin nói, ông ta nói dối với đám đông thôi. Còn với những kẻ thân tín của mình, ông ta chẳng việc gì phải làm thế đâu. Họ là của ông ta cơ mà, dù sao đi nữa. Hoặc nguồn thông tin này đã nói dối hoặc

Saddam chưa bao giờ nói điều đó; hoặc ông ta nói bởi vì ông ta tin là nó đúng.

– Lúc đó thì chính ông ta lừa dối ông ta?

– Cũng có thể chứ. Ai mà chẳng làm điều đó có thể tốt khi ông ta tìm ra. Nhưng nào, đoạn này có thể nghe được đấy. Một thứ có tính toán, được dựng ra để được nghe thấy.

Paxman không thể nói điều anh ta biết: rằng nó không phải thứ nghe trộm dược. Điều đó đến từ Jericho. Và trong hai năm dưới quyền của Israel và ba tháng dưới tay người Anh-Mỹ, Jericho đã chưa bao giờ sai hết cả.

– Anh vẫn còn nghi ngờ gì à? Martin nói.

– Tôi cho rằng có đấy, Paxman công nhận.

Martin nhún vai.

– Thứ linh tinh thôi, Simon ạ. Một câu trong một đoạn ghi âm được, một người bảo người kia câm mồm đi và gọi một đứa con của thần, một câu của Saddam về nhường bước và được xem như là thắng lợi – trong cuộc truy bắt của người Mỹ – và giờ đây là cái này. Chúng ta cần xâu chuỗi lại.

– Xâu chuỗi?

– Cọng rơm chỉ tạo nên được hình hài khi anh quấn nó xung quanh chuỗi này. Đã từng có cái gì đó khác như là cái thực sự trong đầu. Mặt khác, các ông chủ đã đúng đấy, và ông ta sẽ dùng vũ khí sinh học đã có được thực sự.

– Được rồi. Tôi sẽ tìm kiếm một đoạn.

– Còn tôi, Martin nói, đã không hề gặp anh trong buổi tối hôm nay, và đã chẳng nói gì hết cả.

– Cám ơn anh, Paxman nói.

Hassan Rahmani nghe về cái chết của điệp viên Leila của mình hai ngày trước khi điều đó xảy ra, vào ngày 19 tháng Giêng. Cô ta đã không xuất hiện để trao thông tin từ giường của tướng Kadiri theo kế hoạch, và lo sợ điều xấu nhất có thể xảy ra, anh ta đã đi kiểm tra lại sổ của các nhà xác.

Bệnh viện ở Mansour đã đưa ra bằng chứng, mặc dù cái xác đã bị chôn, với nhiều người khác từ các toà nhà quân sự, trong một cuộc thanh trừng hàng loạt.

Hassan Rahmani không còn tin rằng điệp viên của mình bị bom nổ trúng khi đang đi qua một khu đất hoang giữa đêm, rằng anh ta tin vào ma quỷ. Chỉ có những con ma duy nhất trên bầu trời thủ đô Baghdad là những chiếc máy bay ném bom vô hình của Mỹ mà anh đã đọc được trên các tạp chí phương Tây, và không có ma quỷ theo cách suy luận của lôgic. Do đó đó là cái chết của Leila Al-Hilla.

Kết luận duy nhất theo lôgic của anh ta là Kadiri đã phát hiện các hoạt động bên ngoài của mình và đã dừng lại. Điều đó có nghĩa cô ta có thể đã nói ra trước khi chết.

Điều đó có nghĩa là, với anh, Kadiri đã trở thành một kẻ thù hùng mạnh và hết sức nguy hiểm. Tồi tệ hơn thế, mối duy nhất của anh nối với các phiên họp kín của chế độ đã mất biến.

Liệu anh ta có biết rằng Kadiri đã từng lo đến chính anh, Rahmani có thể thấy thoải mái. Nhưng anh ta không hề hay biết. Anh ta chỉ biết rằng từ lúc này trở đi phải cực kỳ thận trọng.

Vào ngày thứ hai của cuộc không chiến, Iraq bắn loạt tên lửa đầu tiên vào Israel. Báo chí ngay lập tức thông báo chúng là những tên lửa Scud-Bs do Xô viết sản xuất, và cái tên đó sẽ đeo đuổi trong suốt cuộc chiến. Trên thực tế, không có tên lửa Scud nào hết cả.

Vấn đề của cuộc bắn giết là không hề điên rồ. lraq nhận ra khá rõ rằng Israel không phải là một đất nước được chuẩn bị để tiếp nhận số lượng lớn dân thường thiệt mạng. Ngay khi quả tên lửa đầu tiên rơi vào vùng ngoại ô thành phố Tel Aviv, Israel đã trả đũa bằng cách tham chiến. Đó chính là điều mà Baghdad mong muốn.

Trong Liên quân 50 nước tập hợp để chống Iraq có 17 quốc gia Arập, và nếu có điều gì làm chia rẽ từ lòng tin Hồi giáo, thì là sự thù ghét người lsrael. Iraq đã tính toán, có thể là đúng, rằng Israel có thể bị khiêu khích để tham gia cuộc chiến bằng một cuộc tấn công chống lại họ, các nước Arập trong liên quân có thể rút lui. Ngay cả Fahd, quốc vương của Arập Xêut và là người cầm trịch của hai vùng đất thánh, cũng có thể ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Những phản ứng đầu tiên của vụ bắn tên lửa vào Israel là chúng có thể mang theo chất độc sinh học hay mầm vi trùng gây bệnh. Đã như vậy, Israel không thể ngồi ngoài được nữa. Đã được nhanh chóng chứng tỏ rằng ngòi nổ chiến tranh đã bùng lên.

Nhưng hiệu ứng tâm lý trong lsrael còn to lớn hơn nhiều. Nước Mỹ ngay lập tức gây áp lực buộc Jerusalem không được bắn trả đũa. Liên quân, Itzhak Shamir được cho biết, có thể đề phòng giúp chuyện đó. Israel đã thực sự bắn trả đũa theo cách của mình bằng đợt những máy bay ném bom F- 15 nhưng được gọi lại khi vẫn trong không phận Israel.

Chiếc Scud thật sự là một quả tên lửa Xô viết to đùng, bướng bỉnh mà Iraq đã mua 900 quả nhiều năm trước đây. Nó có tầm bắn dưới 300 km và có trọng lượng gần 1000 pound. Nó không được dẫn đường, và ngay cả trong hình dáng nguyên thuỷ của mình nó cũng có thể, trong tầm bắn tối đa, đậu vào bất kỳ đâu trong phạm vi cách đích nửa dặm.

Theo quan điểm của Iraq, rõ ràng bề ngoài chẳng ích lợi gì để mua cả. Nó không thể với tới Teheran trong cuộc chiến Iran- Iraq, và chắc chắn là không thể nào bay đến Israel được, ngay cả khi được bắn đi từ điểm cực tây của Iraq.

Điều người Iraq làm trong lúc đó, với sự giúp đỡ của Đức, thật kỳ quặc. Họ đã cắt những quả Scud thành nhiều đoạn và sử dụng ba trong số chúng tạo ra những quả tên lửa mới. Để không gây chú ý nhiều quá vào đó, tên lửa Al-Husayn mới là một sự hỗn độn.

Bằng cách thêm vào Iraq đã tăng được tầm bắn lên tới 620 km có thể đến được (và trên thực tế đã đến được) Teheran và lsrael. Nhưng trọng lượng của nó đã được giảm xuống chỉ còn 160 pound. Sự hướng lối của nó, luôn sai hướng, giờ đây thật loạn xạ. Hai trong số chúng, được bắn đi vào Israel, đã không chỉ bắn trượt Tel Aviv, mà còn trượt cả nước đó và rơi ngay vào Jordan.

Nhưng với tư cách là một thứ vũ khí gây khủng bố thì rõ ràng nó có hữu hiệu. Ngay cả dù tất cả những quả Al-Husayn rơi trên Israel đã có trọng lượng giảm hơn bom 2000 pound rơi ở Iraq, thì nó lại làm cho dân chúng Israel một phen kinh hoảng.

Nước Mỹ trả lời bằng ba cách. Đúng 1000 phát được bắn ra để hạ những quả tên lửa đến và thậm chí còn với cả những cái phóng cơ động hơn. Pháo của những quả tên lửa Patriot của Mỹ được gửi đến Israel trong vài giờ với mục đích bắn hạ các quả tên lửa bay đến nhưng chủ yếu là với mục đích bảo Israel đứng ngoài cuộc chiến.

Và SAS, mà sau đó là lính Mũ nồi xanh của Mỹ, được gửi đến các sa mạc miền tây lraq để tìm các máy phóng tên lửa cơ động và hơn nữa là phá huỷ chúng với những tên lửa Milan của mình hay gọi máy bay đến bằng vô tuyến điện.

Những chiếc Patriot, mặc dù đã có được những ưu điểm nổi bật, chỉ có được những thành công hạn chế – nhưng đó không phải lỗi của chúng. Raytheon đã thiết kế Patriot để cho máy bay, chứ không phải tên lửa, và chúng đã được áp dụng quá hấp tấp cho một vai trò mới. Lý do chúng hiếm khi đạt được mục đích không bao giờ được để lộ.

Vấn đề là, khi mở rộng tầm bắn của tên lửa Scud bằng cách đổi chúng thành Al-Husayn, người Iraq cũng đã tăng tầm cao của chúng. Tên lửa mới này, đi vào không trung bên trong của đường bay hình parabôn của mình, nóng rực lên khi đáp xuống, một điều mà tên lửa Scud không bao giờ được thiết kế để trở thành như thế. Khi quay trở lại bầu khí quyển trái đất thì nó nổ tung. Cái rơi xuống Israel không phải toàn bộ quả tên lửa mà chỉ là một đám khói bụi mà thôi.

Chiếc Patriot, đang làm việc của mình, đi lên để ngăn chặn và tìm kiếm không mảnh kim loại nào được đi đến. Cho nên bộ não nhỏ bé của nó nói cái đã được lập trình để làm – đi đến cái to nhất. Thường thì nó chỉ tiêu tốn nhiên liệu, rơi ra ngoài tầm khống chế. Đầu đạn, nhỏ hơn nhiều và dính chặt vào đằng sau, chỉ rơi tự do mà thôi. Nhiều cái đã không hề nổ, và phần lớn khẩu đội pháo của lsrael bị ảnh hưởng thiệt hại.

Nếu cái được gọi là tên lửa Scud là một đòn khủng bố tâm lý thì Patriot lại là một thứ nâng cao tâm lý. Nhưng tâm lý có tác dụng, là giải pháp tốt để giữ Israel ở ngoài cuộc chiến.

Một phần khác của lời hứa là tên lửa đã cải tiến đáng kể đã sẵn sàng – được dựng lên vào năm 1994. Phần thứ ba ngay ở lsrael để chọn dược 100 mục tiêu phụ mà không lực Liên quân cần đến được. Các lựa chọn đã được thực hiện – chủ yếu là các mục tiêu do vị trí địa lý không có gì để làm với sự giải phóng Kuwait ở bên kia bán đảo.

Các máy bay ném bom của không lực Mỹ và Anh để chống tên lửa Scud có được rất nhiều thắng lợi, những lời tuyên bố.có ngay sự hoài nghi của CIA, đối với sự điên giận của tướng Chuck Horner và tướng Schwarzkopf.

Hai năm trước cuộc chiến tranh, Washington đã chính thức từ chối rằng một máy phóng tên lửa Scud di động đã bị phá huỷ bởi không quân – một đề xuất hiện nay vẫn còn có khả năng làm bấy kỳ phi công nào trở nên giận điên lên. Vấn đề là ở chỗ các phi công đã vô cùng thất vọng bởi maskirovka.

Nếu sa mạc phía nam của Iraq là một cái bàn bi-a chẳng có hình thù gì, thì các sa mạc tây và tây bắc có địa hình núi đá, dốc, và có tới cả nghìn wadis và gullies. Đó là vùng đất trên đó Mike Martin đã đi trong phi vụ đột nhập Baghdad. Trước khi phóng các tên lửa để tấn công, Baghdad đã tạo ra hàng đống máy phóng tên lửa Scud dỏm, và những cái đó được giấu giếm, cùng với những cái thật, ở khắp mọi nơi.

Thói quen là sản xuất chúng trong đêm, một ống kim loại cứng để trên một cái xe tải to, và vào bình minh một thùng dầu và vải trong ống. Xa hơn, các bộ cảm ứng của AWACS sẽ bắt được hơi nóng và coi đó là một bệ phóng tên lửa. Các phi công sẽ căn điểm đó để thả bom.

Những người không bị lừa bịp kiểu đó là người của SAS. Mặc dù chỉ một nhúm người, họ cũng lao vào các sa mạc phía tây trên những chiếc Land-Rover và xe mô tô, trong suốt những ngày nóng như đổ lửa và những đêm buốt giá, và theo dõi. Từ cách xa 200 yard, họ có thể thấy rằng đó thực sự là một máy phóng di động chứ không phải của giả.

Khi các máy phóng tên lửa thứ thiệt ra khỏi các chỗ cất giấu và bên dưới những cây cầu nơi chúng được giấu để tránh sự quan sát từ trên không trung, những con người lặng lẽ trong quân phục nhìn qua ống nhòm. Nếu có quá nhiều người Iraq quanh đó, họ sẽ bình thản gọi lên các đội bay bằng điện đàm. Nếu có thể thực hiện ở đó, họ bèn sử dụng chính những tên lửa Milan chống tăng của mình, tạo ra một tiếng nổ rất to khi đâm vào xe tăng của một Al-Husayn thứ thiệt.

Đã được nhận ra từ sớm có một đường bắc-nam vô hình chạy trong sa mạc. Ở phía tây con đường đó, tên lửa của lraq có thể đến được Israel; phía đông, là ngoài tầm. Công việc là khủng bố các đội bay Iraq để sao cho họ không dám đi thám thính về phía tây con đường này mà chỉ bắn từ phía đông và phải khuất phục trước sức mạnh vượt trội. Mất tám ngày, và rồi các cuộc tấn công bằng tên lửa vào Israel đã ngừng lại. Chúng không bao giờ lại tiếp tục nữa.

Về sau, con đường Baghdad-Jordan đã được sử dụng như một đường phân cách. Phía bắc đường là đường Scud Bắc, lãnh địa của các Lực lượng Đặc biệt Mỹ, đến trong những chiếc máy bay trực thăng bay được xa. Dưới con đường là đường Scud Nam, đại bản doanh của Không lực Anh. Bốn con người giỏi giang đã chết ở các sa mạc đó, nhưng họ đã làm công việc mà mình được gửi đến để làm, nơi hàng tỉ đôla công nghệ đã không thể làm gì được.

Vào ngày thứ tư của cuộc chiến trên không, ngày 20 tháng Giêng, đội 336 ra khỏi Al Kharz là một trong số những đơn vị đã không được chuyển xuống các sa mạc phía tây.

Nhiệm vụ của họ hôm đó là chở một tên lửa SAM lớn về phía tây bắc của Baghdad. Các SAM do hai đĩa rađa kiểm soát. Các cuộc tấn công bằng không quân trong kế hoạch của tướng Horner đã chuyển lên phía bắc. Với gần như toàn bộ căn cứ tên lửa và đĩa rađa ở phía nam một đường nằm ngang từ phía nam Baghdad đi ra, thời điểm đã tới để quét sạch không gian phía tây, phía đông. và bắc của thủ đô.

Với 24 chiếc Eagle chiến đấu trong đội, ngày 20 tháng Giêng đã trở thành một ngày nhiều nhiệm vụ. Chỉ huy đội bay, trung tướng Stever Turner, đã định vị nhóm 12 máy bay cho căn cứ quân sự. Một nhóm Eagle được biết đến với cái tên “gorilla”.

Gorilla được dẫn đầu bởi một trong số hai chỉ huy bay cao cấp. Bốn trong số 12 máy bay đang mang theo HARM, các tên lửa có gắn rađa được hướng lối từ một đĩa rađa. Tám chiếc còn lại chở hai quả bom dài, thuôn, hợp kim thép do laser hướng lối, có tên GBU-10-I. Khi các rađa đã câm tiếng và tên lửa bị mù, chúng có thể theo các HARM và làm thổi tung các khẩu đội hoả tiễn.

Dường như sẽ chẳng có điều gì bất thường xảy ra hết. 12 chiếc Eagle cất cánh thành ba nhóm mỗi nhóm bốn máy bay, tự tạo thành một hình thang rộng, và lên đến độ cao 1700 fít. Bầu trời xanh trong tuyệt vời, và sa mạc nâu sẫm phía dưới nhìn rất rõ.

Dự báo thời tiết về mục tiêu cho thấy có gió mạnh hơn ở Arập Xêut nhưng không hề nói gì đến một shamal, một trong số những cơn bão cát có thể làm mục tiêu biến mất trong vài phút. Phía nam biên giới, 12 chiếc Eagle gặp các máy bay tiếp nhiên liệu của mình, hai chiếc KC- 10. Mỗi chiếc tiếp nhiên liệu có thể cắm vòi cho sáu máy bay đang đói nhiên liệu, nên từng cái Eagle đi vào trạm sau các chiếc tiếp nhiên liệu và đợi khi bộ phận thả bom, nhìn chằm chằm vào chúng với cửa sổ Perspex chỉ cách có vài fít, “nón”‘ đang đợi tiếp xăng.

Cuối cùng, 12 chiếc Eagle đầy xăng cho nhiệm vụ và quay sang bắc hướng đến Iraq. Một AWACS trên Vịnh cho họ biết không hề có hoạt động thù địch nào trên không hướng đến họ hết. Đã có các máy bay chiến đấu Iraq trên không trung, thì Eagle đã có, ngoài bom, hai loại hoả tiễn không đối không; chiếc Air Interception 7 và chiếc AIM-9, được biết đến nhiều hơn với tên Sparrow và Sidewinder.

Căn cứ tên lửa ở đó, chính chỗ đó. Nhưng các ra đa không hoạt động. Nếu các đĩa rađa không vận hành ở chỗ đến của mình, họ có thể mở nó ngay lập tức để hướng lối cho các SAM trong khi tìm kiếm những kẻ đang đến. Ngay khi các rađa bắt đầu hoạt động, bốn chiếc Eagle mang HARM đã có thể phóng đạn, theo USAF hướng dẫn.

Dù cho chỉ huy quân Iraq có lo ngại cho tấm da của mình hay chỉ là vì quá khôn ngoan, người Mỹ không bao giờ thực hiện điều đó hết cả. Nhưng các rađa đó từ chối không chịu sống lại.

Bốn chiếc Eagle đầu tiên, do chỉ huy bay dẫn đầu, lao xuống mãi để khiêu khích các rađa bật lên. Chúng từ chối. Có thể là điên rồ đối với các máy bay chở bom để mà đi vào với các rađa vẫn im như tờ – liệu chúng có đột nhiên bừng lên mà không báo trước, các SAM có lẽ đã làm nguội những chiếc Eagle.

Sau 20 phút lao vào mục tiêu, cuộc tấn công đã bị huỷ. Các thành phần của gorilla đã bị gọi sang các mục tiêu thứ yếu.

Don Walker đã có một lời trao đổi nhanh với Tim Nathanson, trợ lý của mình, ngồi sau anh. Mục tiêu thứ yếu cho ngày hôm đó là một căn cứ Scud cố định ở phía nam Samarra, dù trong trường hợp nào cũng bị các máy bay ném bom viếng thăm bởi vì nó được biết đến như là một cơ sở khí độc. AWACS khẳng định không có hoạt động cất cánh nào từ hai căn cứ không quân lớn của Iraq ở đông Samarra và đông nam Balad. Don Walker gọi người cùng bay, và đội bay hai máy bay trực chỉ về hướng căn cứ Scud.

Mọi liên lạc giữa đội bay Mỹ đã được mã hoá bởi hệ thống Nhanh, đã làm tăng tốc độ đến nỗi bất kỳ ai có ý định nghe trộm sẽ không thể bắt được cùng những âm thanh như thế. Các mã hoá có thể được thay đổi hàng ngày nhưng rất quen thuộc đối với các lính bay của Liên quân.

Walker nhìn lướt xung quanh. Bầu trời trong sáng; nửa dặm cách chiếc máy bay đi cùng, Randy “R-2” Roberts, đang bay vòng quanh và hơi ở trên anh một chút, với wizzo Jim “Boomer” Henry ngồi ở đằng sau.

Trên địa điểm chiếc máy phóng tên lửa Scud cố định, Walker nhào xuống để nhận rõ mục tiêu. Trong cơn điên giận của mình, nó bị che lấp bởi mây đen do gió bụi sa mạc gây nên, một shamal đã nổi lên, tạo ra bởi gió sa mạc rất mạnh đổ xuống phía dưới.

Những quả bom có laser hướng lối của anh không thể trật mục tiêu, miễn là nó có thể theo hướng đã được lên mục tiêu từ chính đội bay của anh. Để lên được hướng đúng, anh phải nhìn thấy mục tiêu của mình.

Điên lên và đang dần hết nhiên liệu, anh quay đi. Hai lần thất vọng trong một buổi sáng thế là đã quá đủ. Anh ghét hạ cánh với đầy bom đạn như cũ. Nhưng không có chỗ nào để trút trên đường về ở phía nam hết cả.

Ba phút sau, anh nhìn thấy một khu công nghiệp rất lớn ở ngay dưới.

Cái gì thế Anh hỏi Tim. WSO kiểm tra trên bản đồ lược của mình.

– Gọi là Tarmiya.

– Chúa ơi, nó to quá.

– Ừ

Dù cả hai đều không biết, khu công nghiệp Tarmiya chứa tới 381 toà nhà và chiếm một khu vực rộng đến mười dặm vuông.

– Có trong danh sách không?

– Không thấy.

– Cứ chơi đi. Randy, chuẩn bị nhé.

– ừ chơi đi, người cùng bay với anh nói qua không trung.

Walker chúi chiếc Eagle xuống 10.000 fít. Khu công nghiệp trải ra rộng ngút ngát. Trong trung tâm là một toà nhà mênh mông, kích cỡ của một sân vận động.

– Vào đi

– Don, chơi thôi chứ.

Hạ xuống 8.000 fít, Walker kích hoạt hệ thống hướng lối bằng laser và hướng về cái nhà máy khổng lồ ở dưới ngay trước mặt anh. Màn hình trước mắt chỉ ra khoảng cách đang ngắn dần lại và cho anh vài giây để bắn. Khi đã đạt đến số không, anh nhấn nút thả bom, giữ mũi mình hướng vào mục đích đang đến.

Loé laser lên trước hai quả bom là hệ thống PAVEWAY. Dưới sự phóng ra của anh là môđun hướng lối tên là LANTIRN. LANTIRN chỉ ra một đường vô hình hướng tới mục tiêu, nơi đường đó phản ngược lại để tạo ra một kiểu sóng điện từ hướng ngược về.

Chiếc mũi PAVEWAY những cái hình chóp cảm ứng được cái giỏ đó, đi vào trong, và theo đường ống đi xuống và đi vào trong cho đến khi chạm được một cách chính xác nơi đường đó hướng đến.

Cả hai quả bom đều thực hiện được công việc của mình. Chúng nổ tung dưới mái nhà máy. Nhìn thấy chúng nổ, Don Walker lại lao lên, trượt xuống Eagle, và lao ngược lên 25.000 fít Một giờ sau, anh và người bay cùng, sau một lần tiếp nhiên liệu giữa đường, bay về Al Kharz.

Trước khi trượt xuống mũi, Walker nhìn thấy chớp sáng bùng lên của hai vụ nổ và một cột khói lớn nổi lên, và anh nhìn liếc về đám mây bụi tiếp theo quả bom nổ.

Điều anh không nhìn thấy là hai quả bom này đã nổ bùng ở một đầu nhà máy, để một mái nhà chổng ngược lên vào không khí như lá buồm một con thuyền trên biển.

Anh cũng không quan sát thấy cơn gió sa mạc mạnh sáng đó – cũng giống như cái đã tạo ra cơn bão cát thổi bay địa điểm Scud – làm nốt phần còn lại. Nó làm lật mái của nhà máy, làm tung nó về đằng sau như mở một hộp cá xác đin, như những tờ mảnh thép bay tung toé về đủ các hướng.

Quay về căn cứ, Don Walker, cũng giống như tất cả các phi công khác, được lui về. Đó là một quá trình đáng ngán với mọi phi công, nhưng cần phải hoàn thành. Chịu trách nhiệm là sĩ quan tình báo đội bay, thiếu tá Beth Kroger.

Không ai cho là gorilla có được thắng lợi, nhưng mọi phi công đều đã có được mục tiêu thứ yếu của mình, trừ một cái. Những vũ khí nóng của họ người sĩ quan đã bỏ mục tiêu thứ yếu của mình và tấn công hú hoạ một chỗ khác.

– Các anh làm cái đó vì quỷ quái gì vậy? Kroger hỏi.

– Bởi vì nó rất lớn và trông có vẻ quan trọng.

– Nó có trong Danh Sách Nhiệm vụ đâu nào, cô lên tiếng.

Cô chỉ vào mục tiêu đã được lựa chọn, vị trí chính xác và miêu tả của nó, và báo cáo về thiệt hại do bom và cùng với sự lưu ý của TACC – Trung tâm Quản lý Chiến thuật Bay, cái chia sẻ căn cứ của CENTAF dưới đại bản doanh Không quân Arập Xêut với các nhà phân tích của Hố Đen ở Riyadh.

– Nếu làm nổ tung một nhà máy đóng nước hay một nhà máy sản xuất thức ăn trẻ em, thì các anh liệu hồn đấy, cô ta cảnh báo Walker.

– Cô cũng biết đấy, Beth, cô rất đẹp khi cô nổi giận, anh chọc tức cô.

Beth Kroger là một sĩ quan có sự nghiệp tốt. Nếu cô ta để bị phỉnh phờ, thì cô thích đại tá trở lên cơ.

– Đại uý anh đi lạc đề rồi đấy, cô nói với anh, và đi để cất bản báo cáo của mình.

Walker nhún vai và đi về nghỉ. Cô ta nói đúng, dù sao đi nữa. Nếu anh chỉ tính đến việc trại trẻ mồ côi lớn nhất thế giới. Khi nó xảy ra, thì người ta không bao giờ nói Don Walker chỉ cái anh đã chạm phải sáng hôm đó.

Nhưng đó không phải một trại trẻ mồ côi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.