Triều đình tạm giấu chuyện thừa tướng Tần Cối vừa qua đời sợ lòng dân
sinh biến. Lúc bấy giờ trong thành Lâm An có một vị tú tài tên Hồ Địch
biệt danh là Mộng Điệp từ ngày thấy cha con Nhạc Phi bị hại, trong lòng
vô cùng uất ức nên lúc nào cũng nói:
“Trời đất có riêng, quỉ thần chẳng công “.
Rồi mỗi khi cầm đến cây bút là viết lên hai câu ấy.
Hôm ấy hay tin Hắc Man Long đem quân đánh thấu đến Lâm An quyết báo thù cho Nhạc Phi, Miêu tướng buộc triều định phải đem nộp gian thần Tần Cối mới chịu lui binh, nếu không nhất định đánh thốc vào thành: Hồ Địch lòng
mừng vô hạn liền reo lên:
– Thế thì sung sướng cho ta biết bao nhiêu!
Hồ Địch sai gia nhân đi thám thính từng giờ từng phút để kịp thời chứng kiến cái cảnh hành hình bọn gian thần cho hả giận.
Qua bữa sau, gia tướng trở về phi báo:
– Vương Võ đã bị Hắc Man Long giết chết rồi, bây giờ Miêu binh đã đến
đóng tại Thê Hà Lãnh, Trương Tuấn phải đích thân ra thành nghênh chiến.
Hồ Địch hay được tin ấy lại càng sung sướng hơn nữa, mong sao
Trương Tuấn chết luôn về tay Miêu binh để bớt lũ gian thần, nên sai gia
nhân đi thám thính tiếp.
Sau đó lại nghe triều đình khiếp đảm đem
lương thảo và bạc tiền dâng nạp cho Hắc Man Long, hứa mười hôm nữa sẽ
bắt gian thần hiến nạp.
Hồ Địch nhảy nhót reo mừng lấy làm toại chí, cả ngày uống rượu ăn uống vui chơi một mình để chờ tin mừng.
Chiều hôm ấy Hồ Địch đã say mèm, bỗng thấy gia đinh chạy về phi báo:
– Nay Hắc Man Long đã bị Trương Tuấn đánh chạy về Hóa ngoại rồi, triều
đình gia phong thêm quan tước và thưởng cho Trương Tuấn vàng bạc châu
báu rất nhiều.
Hồ Địch nghe nói, đang cầm chai rượu trong tay, tức mình đập vỡ nát lúc nào không hay, rồi đang say nghiêng ngửa vẫn lấy
bút viết ra một bài thơ; nguyên văn:
“Trướng khước gian thần trường thiệt thệ,
Luyến thương trung hiếu khổ mưu di,
Thiên tào mặc mặc duyên vô báo,
Địa phủ minh minh định hữu ti.
Huỳnh các chú hòa thiện tải hận,
Thanh y hành tửu lượng quân bi,
Ngu sinh nhược đắc Diêm la tố,
Định bắt gian thần vạn kiếp bì”
Lời thư của Hồ Địch đầy oán, ý nói đứa gian thần hãm hại người trung lương
mà thiên tào không báo ứng, địa phủ cũng làm ngơ, chắc thiên địa thiên
vị lũ gian này rồi’ Phải chi Hồ Địch này làm chức Diêm Vương nhất định
sẽ cắt da xẻ thịt lũ gian cho biết mặt.
Viết rồi đọc lởn một hồi cho hả hơi, mới đưa vào đèn đốt cháy.
Sau đó Hồ Địch lại rót rượu uống cho đến say mèm không còn biết trời đất gì nữa, miệng thì cứ than trời trách đất hoài không ngớt.
Uống riết
một hồi, Hồ Địch dựa ngang thành ghế, nhắm nghiền đôi mắt, rồi mơ màng
trông thấy dưới bàn có hai con quỉ vùng nhảy xổ ra, quát lớn:
– Diêm Vương ra lệnh đòi ngươi, phải theo ta lập tức.
Hồ Địch hỏi:
– Diêm Vương ra lệnh đòi ta có việc gì?
– Đừng hỏi nhiều lời hãy theo ta đến đó sẽ biết. Vừa nói, hai con quỷ kéo lôi Hồ Địch đi. Hồ Địch biết không thể cưỡng nổi đành phải ngoan ngoãn
bước theo.
Khi gia nhân bưng cơm lên thấy chủ mình nằm ngả trên
thành ghế, bước lại rờ xem thì thấy Hồ Địch đã tắt thở, trên ngực chỉ
còn chút ấm ấm thôi.
Gia nhân thất kinh chạy xuống phi báo.
Bà tú kinh hoàng chạy vào đỡ chồng lên giường kêu khóc thảm thiết, nhưng
vẫn không thấy tỉnh lại. Cả nhà đều lăn ra khóc than, lo sắm quan quách
nhưng thấy ngực ông tú Hồ Địch còn nóng nên chưa dám liệm, chỉ đứng xung quanh cái thây xem chừng mà thôi.
Nói về Hồ Địch theo hai con quỉ ra khỏi cửa, mỗi con
quỉ kèm một bên kẹp Hồ Địch phi nhanh, vượt qua một dãy đồng không mông
quạnh gió thổi lạnh lùng. ước độ dặm đường đến một nơi thành quách nguy
nga, có dân chúng qua lại buôn bán đông đúc.
Hai con quỉ dắt Hồ
Địch đi thẳng vào thành, nơi đây chợ búa, phố phường nhộn nhịp. Đi một
đoạn nữa, đến trước một cái đền cao lớn, sơn phết rực rỡ, phía trên có
bốn tấm bảng đề bốn chữ rất to: “Linh Diệu Chi Phủ” trước cửa đền đứng
vô số bọn đầu trâu mặt ngựa, đứa cầm cang xa, đứa cầm thiết chùy.
Hồ Địch trong lòng khiếp sợ, dừng chân lại. Một con quỉ đứng giữ Hồ Địch, còn con kia đi trước bẩm báo.
Giây phút sau hắn trở ra bảo Hồ Địch:
– Diêm Vương đòi ngươi vào.
Hồ Địch nghe nói tay chân bủn rủn, nhưng cũng liều nhắm mắt đưa chân, theo hai con quỉ đi ngay vào chốn điện hình.
Đến nơi, Hồ Địch ngước mắt nhìn thấy trên cao một vị Đại Vương áo mão rỡ
ràng, hai bên có sáu vị thần áo xanh, đai xám, giày rộng mũ cao đứng
hầu, mỗi người đều cầm một quyển sổ trên tay. Phía dưới, đứng hầu có
trên năm trăm người, ai nấy đều có nanh vuốt dữ dằn, mắt lộ răng lồi
càng thấy càng ghê sợ.
Hồ Địch vừa bước tới quỳ trước thềm, Diêm Vương đã lên tiếng quát hỏi:
Mi là học trò lẽ ra phải tôn kính trời đất mới phải, sao lại oán trách trời đất, chê bai quỉ thần?
Hồ Địch dõng dạc đáp:
– Tôi đây vốn dòng Hầu Tấn song cũng có học đạo thánh hiền, lẽ đâu lại dám oán hận trời đất, chê bai thần thánh?
Diêm Vương nói:
– Mi thường bảo trời đất có riêng, quỉ thần chẳng công, lại làm thơ có
câu: “Thiên Tào mặc mặc duyên vô báo, Địa phủ minh minh định hữu ti”
sao mi bảo mi không oán trời, trách đất?
Hồ Địch nghe hỏi mới nhớ lại bài thơ trong lúc mình uống rượu say làm ra, nên vội vàng sụp lạy mà nói:
– Chỉ vì tôi thấy Nhạc Phi đã hết lòng vì dân vì nước, lại bị gian thần
hãm hại, thế mà lũ gian thần chẳng những không bị trừng phạt mà còn
ngang nhiên hưởng phú quí vinh hoa cho nên khi uống rượu say, nóng giận
mới ca thán như vậy, xin Đại Vương dung thứ.
Diêm Vương nói:
– Được rồi, bây giờ hãy làm cho ta một tờ cung trạng, nếu ngươi luận phải lý, ta sẽ cho ngươi trở về dương thế sum họp với vợ con, bằng từ lý
không thông thì đừng mong thoát khỏi chốn địa ngục này.
Nói rồi,
sai quỉ đem giấy mực đến. Hồ Địch cúi đầu vâng dạ rồi múa bút thảo một
hồi xong ngay. Bọn quỉ tiếp lấy đem dâng cho Diêm Vương. Diêm Vương bảo
tả hữu đọc lớn lên cho mọi người đều nghe. Một viên đội mũ thẻ ngang
đứng một bên tiếp lấy tờ cung trạng hắng giọng đọc:
“Phụng
dĩ hỗn độn vị phân, diệt võ sinh nhi vô tử, âm dương ký phán, phương hữu quỉ dĩ hậu thần vị Tang môn truyền nhân quả chi kinh, tri địa ngục
thiết luân hồi chi báo, thiện giả phước, ác giả họa, lý sở đương nhiên,
trực chi thăng khuất chỉ trầm, diệc phi mầu hĩ. Cái ngu hiên chi dị
loại, nhược u hiển chi thù đồi thị đĩ bất đắc kỳ binh tắc minh, phi điểm danh nhi điều tự, cam vọng phi pháp bất đạo chi giới, cố la tội dĩ
chiến khiên, xuất ư tự nhiên bổn hồ thiên tính. Thiệt niệm mà âu độc phụ thơ, tảo hiệu công danh chi chi, trưởng thừa sư huấn, tạm vô kinh vĩ
chi tài, phi duy rộng đồng quản chi hào, nghĩ giục giáp thiên môn chi
dục, mỗi túc hưng dạ mị thường cùng lý dĩ tu thân; đọc Khổng thánh chi
vi ngôn, tư cử trực chi thố uổng;’ quan Vương Khuê xác mận, tưởng khích
trước dĩ vương thanh; lập trung trinh dục hiệu tòng quân, khăn suy lão
cam đồng bồ liễu; thiên cao địa hạo tri bán thế chi hành tàng, nhựt cư
nguyệt chư kiến nhất tâm chi diệu dụng, duy tôn hiền nhi tợ bửu; đệ kiến ác nhi như cừu, văn Nhạc Phi phụ tử chi oan, dục truy cầu nhi tử tránh, đỗ Tần Cối phu thê chi ác, cánh nguyện đắc nhi sinh thân; nhân Đông San tán túng hổ chi ngôn, trí bất thú thất hồi loan chi vọng; thương trung
thần thần nhi bị hại hận tặc tử dĩ toàn chung, thiên đạo vô tri, quỉ
thần an tại, tỷ gian nịnh sinh ư hiếu hạnh, lệnh liền triết tử ư vô cô,
bán quỉ võ thần ty trượt kề chi sỉ, háo hiền ố nhịn thiết phi hu trượt
chi nho, thị giai chí chánh chi tâm yên hậu thiên tư chi ý, ẩn tam bôi
chi cuồng được phủ bát cú chi bĩ ngâm, tuy mao đại thông, thiệt vị công
thần, duy thần giám chi”.
Xin tạm dịch:
Lúc sơ khai còn hỗn độn thì đâu có sự sống chết?
Về sau âm dương phân biệt mới có quỉ thần; cửa Phật có truyền nhân quả,
mới biết rõ địa ngục, thiên đàng là chỗ luân hồi báo ứng.
Làm lành hưởng phúc, làm dữ gặp họa là lẽ thường. Ngay thì được tự đo cất lên,
gian thì phải nhận xuống không thể sai lệch. Nhưng vì trên đời ngu hiền
cách biệt, sáng tối cách xa nên mới sinh ra nhiều nỗi bất bình buộc lòng phải nói, chớ không phải nói đề chuộng danh, cầu khen. Cũng không phải
sợ phép mà câm miệng; ấy là lẽ tự nhiên vốn tại tính trời vậy.
Từ
lúc nhỏ tôi đã đọc sách của cha tôi để lại, sẵn có chí công danh, lởn
lên theo thầy học tập, nhưng hổ vì không tài kinh vĩ. Chẳng phải lộng
bút khoe khoang, chứ thật tình ý muốn chắp cánh bay lên trời, đêm nằm
suy gẫm quyết chí trau dồi, học lời Khổng thánh hiền theo ngay bỏ gian.
Xem lời luận của Vương Khuê thường gạn đục khỏi trong, lập tiết trung
trinh muốn bắt chước cây “tông” cây “trước”. Giá tấm lòng son cam chịu
như cây “liễu” cây “bồ”. Trời cao đất dày có biết hành động của tôi
chăng? Nhật nguyệt hai vầng có thấu nỗi lòng này diệu dụng: Chỉ vì xem
người hiền như châu báu, xem việc dữ như cừu thù nên oan tình của cha
con Nhạc Phi tôi động lòng muốn chết theo, thấy vợ chồng Tần Cối độc ác
muốn ăn tươi nuốt sống. Chúng luận câu ”thả cọp” tại chốn Đông Song,
làm cho Nhị Đế hết trông về Nam Đại.
Thương người ngay bị hại,
giận đứa nịnh hiển vinh. Thiên địa không hay, quỉ thần chẳng biết; để
đứa gian sống yên vô sự, người hiền chết ức chết oan. Tôi chê thần, nhạo quỉ chẳng phải như kẻ sĩ trớ trêu, ghét nịnh ưa hiền không sánh với bọn nho gia giễu cợt.Quả là lòng ngay thẳng chẳng chút cong queo. Uống ba
chén rượu vịnh vài vận đau buồn, tuy làm tội lớn, song với lẽ công bằng.
Đến đây lời nói đã cùng, xin thần linh phán xét!
Diêm Vương nghe nói cười ha hả:
– Loài hủ nho giỏi tài hùng biện thật. Tuy lòng ngươi ưa lành ghét dữ
cũng khá khen, song trong bài thư ngươi có câu: Nhược đắc Diêm la tố,
nghĩa là nếu ngươiđược làm vua Diêm Vương. quả thật ngươi hủy ta đến
thậm tệ. Ta thử hỏi, ngươi mà được làm Diêm Vương thì ngươi bỏ ta ra chỗ nào?
Hồ Địch đáp:
– Xưa ông Hàm Cầm Hổ có nói rằng: Sống
làm Thượng Trụ Quốc, chết làm Diêm La Vương và ông Khấu Lại Công, Giang
thừa tướng cũng thường nói lời ấy, sách sử hãy còn rành rành hơn nữa vua Diêm Vương là người thánh nhân quân tử trên cõi dương gian xuống, chấp
nhặt làm chi việc ấy? Tôi đây tuy chẳng dám sánh với ba ông ấy, song về
phương diện lòng ngay, dạ thẳng cũng dám bì theo chút đỉnh.
Diêm Vương lại hỏi:
– Nếu Diêm Vương thay đổi thì người cũ đi đâu?
Hồ Địch đáp không nghĩ:
– Nếu có thay đổi tất nhiên người cũ phải đầu sinh lên dương thế làm vương công đại nhân.
Diêm Vương nghe đến đây cười xòa nói:
– Tên này nói rất chí lý, song những hạng cuồng sinh này nếu không cho
hắn thấy tất nhiên không tin lẽ báo ứng của trời đất, rồi suốt đời hắn
không biết kiêng dè.
Nói rồi Cho gọi Lục Y đem tấm Bạch Giản đến.
Hồ Địch thấy trên tấm bạch giản có đề tám chữ: “Hữu ngưỡng phổ lược địa
ngục minh quan”.
Diêm Vương dặn tên Lục Y:
– Mi hãy dắt Hồ Địch đi xem việc báo ứng khắp hết các cửa ngục nhé!
Lục Y lĩnh mệnh dẫn Hồ Địch bước xuống Tây Lang thẳng ra phía sau điện
chừng ba dặm. Nơi đây vách tường cao hằng mấy trượng, xây bằng đá trắng, lấy sắt làm cửa, phía trên có đề bốn chữ: “Phổ lược chi ngục”.
Lục Y bước tới gõ cửa, thình lình bên trong có mấy tên quỉ Dạ Xoa nhảy bổ ra chộp bắt Hồ Địch, Lục Y trợn mắt hét:
– Hãy buông ra lập tức, người nho sinh này không có tội, ta vâng lệnh đem người này đến đây để xem cho tường tận việc báo ứng đó thôi?
Vừa nói vừa đưa tấm Bạch Giản cho quỉ Dạ Xoa xem. Quỉ Dạ Xoa trông thấy Bạch Giản vội buông Hồ Địch ngay và nói:
– Tôi tưởng là tội nhân, ai ngờ là nho sinh, xin người chớ chấp.
Sau đó bọn quỉ đứng nép sang một bên, Lục Y dắt
Hồ Địch đi thẳng vào trong. Đây là nơi rộng rãi ước chừng hơn năm mươi dặm vuông, mặt trời soi bóng lờ mờ, hơi lạnh thấu xương. Phía Đông là ngục
Phong Lôi, phía Nam là ngục Hỏa Xa, phía Tây là ngục Kim Cang, phía Bắc
là ngục Minh Lãnh. Không biết bao nhiêu là đàn ông, đàn bà, kẻ mang
gông, người mang xiềng đi tới, đi lui chật ních.
Lục Y dẫn Hồ Địch đến trước một cái cửa, vừa nhìn vào đã thấy hơn hai mươi người trần
truồng bỏ tóc xõa, tay chân đều bị đóng đinh dính cứng trên giường sắt,
cổ bị mang gông sắt, toàn thân bị dấu roi tra khảo nứt nẻ, máu mủ xông
ra tanh hôi ghê gớm chẳng ai dám lại gần.
Lục Y chỉ một người phía dưới nói với Hồ Địch:
– Tần Cối kia kìa, hắn đã bị bắt xuống đây rồi, còn bọn Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập và Trương Tuấn chẳng bao lâu cũng bị quả báo tại đương gian rồi sẽ
bị bắt xuống đây hành tội như vậy.
Rồi Lục Y giơ tay chỉ mấy người còn lại những bộ xương trắng hếu, nói:
– Ngươi có biết bọn này là ai không? Bọn này không ai xa lạ chính là bọn
Chương Đôn; cha con Thái Kinh, Vương Phố, Châu Nại, Cảnh Nam, Ngô Trọng
Thắng, Mạc Trù, Phạm Quỳ toàn là lũ gian ác thảy đều bị tội tại đây Diêm Vương có dạy phải dùng âm hình khảo chúng cho ngươi xem, vậy hãy xem
đây.
Nói rồi Lục Y gọi hơn ba mươi tên quỉ dẫn bọn Tần Cối đến
ngục Phong Lôi trói vào cây cột đồng; rồi một tên quỉ tốt lấy roi đánh
vào chiếc vòng một cái, đột nhiên đao thương bay đến đâm Chém chúng túi
bụi. Bọn Tần Cối mình mẩy nát như trái mồng tơi, trong giây phút, nghe
sét đánh xuống ầm ầm, bọn Tần Cối nát bấy ra như tương, máu chảy tràn
trề. Rồi bỗng một luồng ác phong thổi tới, quyện chung quanh mấy cái
thây một
hồi. Lạ thay, mấy cái thây nát được hoàn y lại như cũ.
Lục Y nói với Hồ Địch:
– Sét đánh tức là âm lôi, còn gió thổi là Nghiệt phong đấy.
Nói rồi lại sai quỉ ít dẫn bọn Tần Cối qua phía ngục Kim Cang, trói vào nơi giường sắt, Quỉ đầu trâu tu miệng thổi một cái, nổi lên một luồng Hắc
phong thổi tới cuồn cuộn, đao kiếm bay tới chém xả vào mình máu tuôn lai láng.
Sau khi quỉ đầu trâu hô lên một tiếng, gió đao ngừng lại
hắn liền dẫn tội nhân sang ngục Hỏa Xa. Ở đây, bọn quỉ Dạ Xoa cầm đinh
ba chực sẵn vứt bọn Tần Cối bỏ lên xe rồi lấy quạt lớn phất qua một cái, tức thì hỏa xa chạy như bay, lửa cháy rần rần, trong giây phút cả bọn
đều bị cháy thành tro Quỉ tốt lấy một thứ nước gì thối lắm đem tưới vào, mấy cái thây lại hoàn nguyên như cũ.
Sau đó chúng lại dẫn qua
ngục Minh Lãnh, bọn quỉ xách bọn Tần Cối ném xuống nước,nước lạnh thấu
xương rồi lấy dao dần xương thịt nát bấy, đoạn lấy câu móc, móc lên đem
vào chỗ cũ, lấy đinh đóng hai tay chân vào cây trụ đồng, rồi lấy đầu sôi xối vào khắp thân mình, đói thì cho ăn đao sắt, khát cho uống nước
đồng.
Lục Y nói với Hồ Địch:
Cứ ba ngày bọn gian thần này
phải chịu hình phạt trong các ngục ấy một lần, sau ba năm chúng phải đầu thai lên dương thế làm trâu dê, heo chó cho người ta phanh thây xẻ thịt ăn. Còn vợ Tần Cối nay mai đây cũng bắt xuống hành tội ba năm rồi mới
đầu thai lên dương gian làm lợn nái, để đẻ heo con cho thiên hạ dùng,
cuối cùng hắn cũng không khỏi bị phân thây xẻ thịt, còn bọn Tần Cối kia
phải làm loài súc vật trên năm mươi kiếp.
Hồ Địch nói:
– Tội ấy bao giờ mới hết?
Lục Y đáp:
– Tội ấy bị hành hạ đời đời kiếp kiếp, chẳng biết bao giờ hết!
Vừa nói vừa dắt Hồ Địch qua phía Tây Viên. ở đấy có một cái cửa nhỏ đề bốn
chữ: “Gian hồi chi ngục”, người ta thấy hơn trăm người mang gông xiềng,
hình thù gần giống như thú, gươm đao bị găm đầy mình.
Hồ Địch nói:
– Bọn ấy bị tội gì vậy?
Lục Y đáp:
– ấy là bọn gian tướng lừa vua dối bề trên, phá nước hại dân, cứ ba ngày
chịu hình phạt một lần rồi cũng đúng ba năm đầu thai làm súc vật như bọn Tần Cối vậy.
Nói rồi, lại dắt Hồ Địch qua phía Nam Viên đến trước khung cửa nhỏ, ở đây cũng có đề chữ: “Bất trung nội thần chi ngục”.
Trong ấy hơn mấy ngàn con trâu, con nào con nấy đều có dây sắt xỏ mũi, buộc vào cây trụ sắt, bốn phía đều nhóm lửa để nướng.
Hồ Địch lấy làm lạ, hỏi:
– Trâu mà có tội gì, lại hành phạt đến thế?
Lục Y đáp:
– Chớ nên hỏi vội, hãy bình tĩnh xem thì biết.
Nói rồi khiến ngục tốt lấy quạt lớn quạt lửa lên, chỉ trong giây phút lửa
cháy phừng phừng, bầy trâu nóng quá kêu rống lên, da thịt chảy nứt ra,
bỗng nghe trong lửa nổ lên một tiếng, da trâu vàng mất hết để lộ ra hình người trần truồng trông rất thảm hại. Lục Y lại sai quỉ Dạ Xoa quăng
vào vạc dầu, da thịt tiêu hết chỉ còn những bộ xương trắng, trông dễ sợ
làm sao!
Giây phút sau, quỉ tốt lấy nước phun vào, tự nhiên hình người trở lại như cũ.
Lục Y nói với Hồ Địch:
– Bọn này trước kia cũng là những hoạn quan, trải qua mấy đời vua như bọn Thập Thường Thị đời Hán, bọn Lý Phụ Quốc, Cừu Si Lương, Vương Thủ
Trùng, Điền Lệnh Tư đời Đường; bọn Diêm Văn ưng, Đông Quán đời Tống,
chúng được nuôi dưỡng ở trong cung cấm, ăn đồ ngọc thực, mặc áo cẩm y đã không lo đều ơn chúa lại học thói khi quân giết hại trung thần, hiếp
người lương thiện, làm khổ sở muôn dân nay phải báo ứng đời đời kiếp
kiếp.
Nói rồi, dắt Hồ Địch qua nơi Đông Bích thấy đàn ông, đàn bà
mấy ngàn, không tấm chăn manh áo che thân, kẻ bị nấu dầu, người bị mổ
ruột, kẻ ngồi bàn chông người bị cắt lưỡi kêu khóc inh tai nhức óc. Lục Y đưa tay chỉ và nói:
– Những bọn này phần đông là bọn tham quan Ô
lại, nhiễu quốc hại dân, không biết thảo ngay, nghịch cha dối chúa, lại
gian dâm, ăn hối lộ, hoặc ăm trộm, ăn cướp của người ta nên phải tội như vậy.
Hồ Địch xem đến đây điểm một nụ cười khoái trá nói:
– ừ có như vậy mới hả giận ta chứ!
Lục Y dắt Hồ Địch trở lại Linh Diêu điện, Diêm Vương hỏi:
– Tên cuồng sinh kia, ngươi đã thấy rõ quả báo chưa?
Hồ Địch cúi đầu đáp:
– Vâng, tôi đã trông thấy tường tận. Thế mới gọi là thiên địa vô tư, quỉ thần minh sát chứ!
Diêm Vương lại nói:
– Nay ngươi trông thấy đã rõ ràng, vậy ngươi hãy làm một bài phê phán vợ
chồng Tần Cối ta xem nào. Hồ Địch vâng mệnh múa bút viết ngay một bài
luận tội vợ chồng Tần Cối rồi dâng lên.
Diêm Vương xem xong vỗ tay cười ha hả, lớn tiếng khen:
– Tên học trò này quả là kẻ cuồng trực.
Hồ Địch lại bẩm:
– Đứa gian thần đền tội chính mắt tôi trông thấy rõ ràng, song còn Nhạc
Hầu trung nghĩa lại bị hãm hại, chẳng biết lúc này người ở tại đâu?
Diêm Vương nói:
– Ngươi khỏi cần phải đòi hỏi việc ấy, ta đã cho ngươi thấy rõ địa ngục
để thấy Tần Cối bị hình phạt như thế nào tất nhiên ta phải cho ngươi
thấy Nhạc Phi để ngươi khỏi thắc mắc nữa chứ. Ta tin cho ngươi biết
rằng, ta đã cho người đi thỉnh hồn Nhạc Phi và Ngột Truật xuống đây đặng đối án Tam Tào để ngươi hiểu rõ. Nguyên vì lúc trước vua Đạo quân Hoàng Đế nhân tiết Nguyên đán tế trời, người viết tờ biểu lại chấm chữ ngọc
lộn lên chữ đại thành thử chữ “Ngọc hoàng Đại để’ hóa ra chữ “Vương
Hoàng khuyển đế”. Vì vậy Ngọc Hoàng nổi giận sai con Xích Tu Long xuống
đầu thai làm Ngột Truật để nhiễu loạn giang sơn nhà Tống.
Còn Nhạc Phi nguyên là Đại Bàng điểu chỉ vì mổ chết con nữ Thổ Bức nên đức Phật
Như Lai phạt xuống phàm trần, oan hồn nữ Thổ Bức lại đầu thai xuống làm
vợ Tần Cối tại Đông Song để báo cái thù ấy.
Tần Cối chính là con
Cù Long cũng bị Đại Bàng điểu mổ trúng tại Cửu khúc Hoàng Hà, hắn dâng
nước làm hại huyện Thang âm phạm thiên triều nên bị đày xuống đầu thai
để bao thù.
Việc oan oan tương báo như vậy, nhưng Vương thị tham
dâm tư thông với Ngột Truật, còn Tần Cối tàn hại trung lương nên phải bị địa ngục hành hình. Còn Nhạc Nguyên soái đang ở nơi thiên tước phủ, nay mai đây sẽ đặng dương gian phong tặng muôn thuở thơm danh.
Diêm Vương giải thích cho Hồ Địch nghe một hồi rồi sai tả hữu đi mời Nhạc Nguyên soái và Ngột Truật đến.
Mấy phút sau đã thấy Nhạc Nguyên soái cùng Nhạc Vân, Trương Hiến đến, tiếp
theo sau là tứ hoàng tử Phiên bang Ngột Truật, Diêm Vương bước xuống
nghênh tiếp lên điện, phân ngôi chủ khách mời ngồi.
Diêm Vương nói:
– Nay chỉ vì gã cuồng si kia chẳng biết việc chi quả báo, thường oán
trách trời đất tư vị, quỉ thần chẳng công, vả chính Nhạc công và Hoàng
tử đây cũng chưa rõ thấu được cội nguồn của mình nên ta mới mời hai
người xuống đây để đối án Tam Tào cho rõ, để tỏ rằng thiên địa quỉ thản
chí công vô tư, duy việc báo ứng chỉ sớm muộn mà thôi.
Ngừng một lát, Diêm Vương đem việc nhân quả đầu đuôi thuật hết một hồi, rồi nói:
– Nhạc công tử, Trương tướng quân đây đều là Lôi Phủ Linh quan hạ giới,
chẳng bao lâu đây cũng sẽ có ngọc chỉ gia phong quý vị.
Dứt lời
Diêm Vương sai quỉ tốt xuống chốn Phong Đô dẫn Tần Cối đến. Tần Cối bị
xiềng xích đầy mình, quì gục đầu trước điện. Diêm Vương quát bọn đầu
trâu mặt ngựa đè Tần Cối xuống đánh hai mươi roi đồng, máu tuôn lai láng rồi sai dẫn vào địa ngục.
Mọi việc xong xuôi, Diêm Vương trầm giọng bảo:
– Nay việc nhân quả đã rõ ràng, vậy xin Nguyên soái hãy trở về Thiên Tước phủ nghỉ ngơi, còn Hoàng tử trở lại dương trần làm xong công việc của
mình. Riêng tên Hồ Địch này vì không biết mà mắc lỗi lầm, hơn nữa là
người chính trực đáng khen nên ta cho trở về dương thế và cho ngươi được hưởng thọ thêm một kỷ nữa.
Lúc bấy giờ cha con Nhạc Phi và Ngột
Truật mới hay việc trước của mình, liền từ biệt Diêm Vương ra đi. Diêm
Vương cũng bước xuống điện đưa ra khỏi cửa rồi mới trở lại ngồi trên
điện.
Bỗng thấy quan Công tào bước đến tâu:
– Hồ Địch xuống đây đã lâu, nếu trễ chừng ba khắc nữa thì cái thây phải rã, khó mà cứu sống lại được.
Diêm chúa nói:
– Thế thì mau mau bắt con Cấp khước cho hắn cưỡi về
Quỉ tốt vâng lệnh dắt đến một con ngựa, rồi nhanh như chớp bế xốc Hồ Địch
để trên lưng ngựa, đoạn quất con ngựa một roi con ngựa vụt chạy nhanh
như bão. Hồ Địch kinh hồn hoảng vía nằm mọp trên lưng ngựa ghì chặt đây
cương hai mặt nhắm nghiền không dám cựa quậy.
Chỉ trong nháy mắt
con ngựa bay đến một hòn núi cao, Hồ Địch len lén hé mắt nhìn thấy hai
bên đều vực sâu thăm thẳm, chính giữa có một con đường đi rất hẹp, lòng
đầy kinh hãi, tay chân bủn rủn ngồi không vững, thình lình trật yên té
nhào xuống vực, giựt mình thức dậy mồ hôi ướt dầm, mở mắt ra thấy mình
nằm ngủ trên giường, còn cả nhà thì lăn ra khóc lóc thảm thiết.
Hồ Địch nói:
– Ta sống lại rồi, khóc lóc làm chi.
Cả nhà vui mừng khôn xiết, lập tức bỏ hết các đồ tang chế, xúm lại hỏi thăm.
Hồ Địch chết ba ngày mới sống dậy, ai nấy đều lấy làm lạ. Sau khi Hồ Địch
húp vài muỗng cháo, kể hết mọi chuyện mình thấy dưới âm ty cho mọi người nghe, ai nấy đều sợ hãi nói với Hồ Địch:
– Tần Cối mới chết hôm qua thế mà hắn đã bị hành tội dưới địa ngục rồi thật là đáng sợ!