Em có biết một loài chim không chân? Suốt
cả đời nó chỉ có thể bay trên bầu trời, bay mỏi cánh thì ngủ trong gió, cả đời
chỉ một lần hạ xuống đất, đó chính là lúc nó từ giã cõi đời.
__
“A Phi chính chuyện” __
Chuyện
đã qua không thể lấy lại
Thành phố Penang ở Malaysia có
ngọn núi Bukit Bendera, đó là điểm cao nhất thành phố, cũng là thắng cảnh nghỉ
mát nối tiếng. Đứng trên điỉnh có thể nhìn thấy cảnh trời xanh biên biếc và bãi
cát trắng phau dưới chân núi, buổi tối có thể thưởng ngoạn cảnh biển đèn tráng
lệ muôn màu của thành phố. Dòng xe nườm nượp như nước chảy trên cầu vượt Penang kéo
dài đến tận cửa ô thành phố, ánh đèn
sáng rực từng điểm chi chít, nhìn xa tựa như dải ngân hà cuộn chảy, cảnh sắc
thần tiên như mộng ảo, nhưng mỗi lần đứng trên đỉnh núi, Triệu Thành Tuấn cơ hồ
không ngắm cảnh thành phố lên đèn, mà thường ngửa mặt ngắm sao trời. Anh vốn
tưởng đứng trên cao sẽ gần bầu trời hơn một chút, nhưng không phải, anh phát
hiện bất luận đứng cao bao nhiêu, giữa anh và bầu trời vẫn là khoảng cách tít
tắp vô cùng vô tận như thế. Bầu trời sao thăm thẳm vũ trụ bao la khôn cùng, con
người bé nhỏ như hạt cát, dưới một bầu trời sao như thế, ai có thể nhìn thấy
ai. Nhiều lúc anh tự hỏi, rốt cuộc mình muốn thấy gì, muốn thấy vẻ hùng vĩ vô
tận của vũ trụ hay là muốn chiêm ngưỡng những vì sao xa lắc, những vì sao lấp
lánh như ánh sáng của tình yêu đắm say, anh có thể nhìn rất rõ nhưng không thể
chạm tới.
Xuất thân như anh không có tư cách hướng về tình yêu, sự sinh tồn phải đặt lên
trên hết. Trong mắt bao người, anh sinh trưởng trong một gia đình giàu sang rất
mực, sống cuộc đời nhung lụa, được hưởng nền giáo dục tốt nhất, vệ sĩ người hầu
không thiếu, một cuộc sống vương giả như vậy, chắc hẳn anh rất hạnh phúc, nhưng
thực sự có phải như thế?
Không ai biết, anh đã phải giẫm lên băng tuyết để sinh tồn. Đúng như mẹ đã dạy
anh từ nhỏ, học cách nhẫn nhịn, cho dù trên chữ “nhẫn” là con dao, cũng phải
nhịn, nếu không chỉ có chết đói.
Cha qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi lúc anh bốn tuổi, em gái khi đó chưa đầy
một tuổi, mẹ không thể làm việc, chỉ sống nhờ vào tiếp tế của người thân, nhưng
nguồn tiếp tế đó rất nhanh chóng mỗi ngày một ít, lại còn liên tục có chủ nợ
đến gõ cửa đòi tiền, bởi vì trước khi qua đời cha phải gánh
một tội danh oan uổng, toàn bộ tích lũy không đủ chi trả đền bù tổn thất, vậy
là gia đình lâm vào cảnh nợ nần chồng chất.
“Cha con trong sạch, con phải nhớ điều này.” Mẹ nói vậy. Về sau Triệu Thành
Tuấn mới biết, không phải cha chết do tai nạn mà là tự sát, ông chủ ý lao vào
một thân cây to, chiếc xe bẹp dúm.
Triệu Thành Tuấn lúc đó còn quá nhỏ, vẻ đau buồn của mẹ và cảnh ngộ túng bấn
hàng ngày để lại trong anh ấn tượng không thể phai mờ. Anh chỉ biết, khi ba mẹ
con đã rơi vào khốn cảnh, một người đàn ông là Chương Thế Huân đi vào căn nhà nát
của họ, chính là ông chủ công ty cha anh làm việc lúc còn sống, ông ta đến đưa
cho mẹ tiền trợ cấp.
Nửa năm sau, mẹ tái giá với ông ta.
Không còn cách nào khác, một phụ nữ cô quả với hai đứa con nhỏ, không việc làm,
nợ ngập đầu, mặc dù Lưu Khoản Ngọc rất muốn tự vẫn theo chồng, nhưng không đành
lòng nhìn hai đứa con vô tội chết đói. Lại thêm Triệu Thành Tuấn từ nhỏ ốm yếu
nhiều bệnh, bà không chỉ phải duy trì sinh kế mà còn phải chữa bệnh cho con,
không còn con đường nào khác buộc phải tái giá, cho nên sau này khi đã lớn,
Triệu Thành Tuấn không hề oán trách mẹ.
Chương Thế Huân là con trai thứ hai cúa chủ tịch tập đoàn Hồng Hải Chương thị.
Ở thành phố Penang, Chương
gia là đại gia tộc có thực lực hùng hậu, sản nghiệp đồ sộ, quan hệ nội bộ gia
tộc cũng hết sức phức tạp. Chương Thế Huân đã trải qua một cuộc hôn nhân, có với vợ trước một con trai, về
sau vợ ốm chết, ông bận lo sự nghiệp không có thời gian tái hôn, mãi đến khi
ông nắm quyền điều hành tập đoàn Hồng Hải, gây dựng nền tảng ổn định mới bắt
đầu tính chuyện tìm mẹ kế cho con trai Chương Kiến Phi. Còn tại sao ông lựa
chọn Lưu Khoản Ngọc – mẹ của Triệu Thành Tuấn, một thời đã khiến đại gia tộc họ
Chương và thiên hạ bàn tán xôn xao? Bởi vì cha của Triệu Thành Tuấn trước đây
là trợ lý đắc lực của Chương Thế Đức, con trưởng nhà họ Chương. Anh em Chương
Thế Đức, Chương Thế Huân nhiều năm đấu đá tranh giành ác liệt, tạo thành hai
phe đối lập, tại sao Chương Thế Huân lại cưới vợ góa của người trợ lý dưới
quyền anh trai mình? Nguyên nhân không ai biết…
Triệu Thành Tuấn trở thành con của Chương Thế Huân lúc chưa đầy năm tuổi, em
gái hơn một tuổi. Hai mươi năm nay, mẹ nhẫn nhục sống trong Chương gia, cuộc
sống dưới con mắt người ngoài là ăn sung mặc sướng thực chất muôn vàn tủi nhục.
Triệu Thành Tuấn luôn bắt gặp mẹ lén lau nước mắt. vẻ đau buồn nhẫn nhịn đó của
bà bây giờ nhớ lại anh vẫn thấy xót xa. Chương gia có rất nhiều tiểu thư, mệnh
phụ, ai cũng sắc sảo, lắm tiền, Lưu Khoản Ngọc thân cô thế cô bị ức hiếp cơ hồ
là lẽ đương nhiên, hồi đó Triệu Thành Tuấn chi mong mình mau lớn để bảo vệ mẹ
đáng thương, trong giấc ngủ anh cũng nằm mơ có ngày mình tự thân lập nghiệp.
Sự vượt lên của Triệu Thành Tuấn không hề dựa vào thế lực gia tộc như người
ngoài vẫn tưởng, anh thực sự tay trắng lập nghiệp. Mặc dù Chương Thế Huân coi
anh như con đẻ, không ngờ khi anh tốt nghiệp trung học ông đột ngột qua đời vì cơn tai biến mạch máu não. Chương gia vốn dĩ
chưa bao giờ hết sóng ngầm lại dấy lên cuộc phân tranh ác liệt, nếu không nhờ
thái độ kiên quyết của Lưu Khoản Ngọc, anh em Triệu Thành Tuấn tuổi vị thành
niên đã bị đuổi khỏi Chương gia.
Theo dự định trước đây của Chương Thế Huân, khi Triệu Thành Tuấn tốt nghiệp đại
học sẽ để anh và Chương Kiến Phi cùng tiếp quản sự nghiệp của gia tộc, ai ngờ
trời không chiều lòng người, sau khi ông qua đời, cả Chương gia rơi vào cơn ác
mộng phân tranh. Anh cả Chương Thế Đức lập tức chiếm đoạt vị trí của em trai,
ông ta biết rõ con trai mình Chương Gia Minh là công tử ăn chơi nối tiếng thành
phố Penang, chưa
tốt nghiệp đại học, chỉ biết vung tiền hưởng lạc, vẫn không do dự đưa vào vị
trí ngự trị kế nghiệp, giao cho chức tổng giám đốc Hồng Hải.
Chương Kiến Phi tốt nghiệp trước Triệu Thành Tuấn hai năm, do là trưởng nam của
Chương Thế Huân nên được trao một chức vụ tượng trưng ở Hồng Hải, sau đó Chương
Thế Đức cử anh sang chi nhánh Thượng Hải cho khuất mắt. Hai năm sau, Lưu Khoản
Ngọc buồn phiền qua đời, Chương Thế Đức không còn sĩ diện gì nữa, không ngần
ngại hất anh em Triệu Thành Tuấn ra khỏi Chương gia, còn cắt viện trợ kinh tế,
với lý do Chương gia không nuôi con cho kẻ khác, càng không thể giao sản nghiệp
cho người ngoài.
Khi mẹ ốm nặng, Triệu Thành Tuấn thực ra đã nghĩ đến kết cục này, cho nên hầu
như khá bình tĩnh đón nhận. Lúc đó còn khoảng một năm nữa anh mới tốt nghiệp
đại học, bị cắt nguồn kinh tế, anh chỉ có thể vừa học vừa làm, một mình làm thêm mấy việc, vừa gửi tiền cho em gái vừa phải trả
tiền học phí cao ngất ngưởng của Đại học Cambridge, cũng may cuối cùng
vẫn gắng được đến lúc tốt nghiệp. Triệu Thành Tuấn lặng lẽ trở về thành phố Penang, thuê
một ngôi nhà sống với em gái, đồng thời bắt đầu hành trình lập nghiệp khó khăn,
chỉ nhớ lúc bi đát nhất, anh phải ngủ trong kho hàng, bữa ăn hàng ngày chỉ có
bánh mỳ, may vẫn chưa đến nỗi lang thang ngoài đường. Còn Chương Kiến Phi không
hề biết chuyện, lúc đó đang ở Thượng Hải bận rộn yêu đương và kết hôn với cô
gái anh si mê.
Người Chương Kiến Phi muốn cưới là một cô gái Trung Quốc tên Mao Lệ, là em gái
của Mao Tấn, bạn cùng trường với anh em họ. Mao Tấn người Trung Quốc, một gã
trai vô cùng phóng khoáng, điều kiện gia đình rất tốt, cha kinh doanh chuỗi nhà
hàng ở Thượng Hải, nghe nói là đại gia ẩn danh, nếu không sao có thể chu cấp
cho Mao Tấn một cuộc sống đế vương ở Anh quốc.
Hồi đó bọn họ có những ngày tuyệt đẹp ờ trường Cambridge, mỗi khi không phải lên lớp là cả ba hẹn nhau đi ăn,
đánh bóng. Có một dạo lại thêm trò mạt chược. Mao Tấn là người khơi ra trò đó
đầu tiên, nhưng điều khiến Mao Tấn đau đầu là, mặc dù anh ta dạy Triệu Thành
Tuấn và Chương Kiến Phi chơi mạt chược, nhưng khi họ đã biết cách chơi, anh ta
lại không sao thắng nổi họ. Phần lớn là Chương Kiến Phi thắng, bao gồm cả chơi
bài tây, cờ tướng, nếu không thắng thì là do Chương Kiến Phi cố tình thua. Mao
Tấn tức điên, lần đó tại phòng của Triệu Thành Tuấn, anh ta lại thua. Mao Tấn
điên tiết ném bộ bài trong tay:
“Không chơi nữa, không chơi nữa, đi uống thôi.”
Vào quán bar, mọi
người vừa uống vừa tán gẫu. Bọn con trai tụ tập không thể không đề cập tới chủ
đề con gái, khi nói đến mỹ nữ muôn hình muôn vẻ của các nước, Mao Tấn lập tức
nổi hứng: “Ở nước mình, con gái Thượng Hải là đẹp nhất, nhưng trong những người
đẹp Thượng Hải tôi gặp chưa thấy ai đẹp bằng em gái tôi…”
“Cậu có em gái?” Chương Kiến Phi ngạc nhiên, trước đây chưa thấy Mao Tấn nói
đến.
“Đúng, tôi có một em gái, các cậu có muốn xem không?” Mao Tấn nói xong, rút ví,
bên trong kẹp một bức ảnh màu khổ nhỏ, đó là một thiếu nữ chừng mười mấy tuổi,
đứng cạnh khóm hoa, người gầy gò, vẫn còn nét trẻ con, tóc xõa chấm vai, nổi
bật khuôn mặt nhỏ nhắn trắng như tuyết, ánh mắt vui cười nhìn phía trước. Thực
ra xét toàn diện không phải đẹp lộng lẫy, các đường nét thậm chí còn chưa rõ,
nhưng đôi mắt có sức cuốn hút như ma lực, ánh nhìn chăm chú, đi thẳng vào trái
tim khiến người ta bất chợt nín thở.
“Không nói khoác chứ, đây mà là em gái anh? Chẳng giống chút nào.” Triệu Thành
Tuấn không tin.
Chương Kiến Phi cũng không tin, ngơ ngẩn nhìn bức ảnh: “Em gái cậu… thật…
thật chứ?”
Mao Tấn bật cười: “Sao lại không? Chẳng lẽ tôi lấy ảnh của người khác bảo là em
gái? Em tôi đẹp lắm, bên ngoài còn đẹp hơn ảnh, các cậu gặp khắc biết.”
Chương Kiến Phi hích tay Triệu Thành Tuấn: “A Tuấn, đừng khoe em gái nữa nhé,
em gái Mao Tấn còn đẹp hơn Tiểu Mai.”
Triệu Thành Tuấn nhìn bức ảnh, vẻ tư lự: “Đúng, em cứ nghĩ Tiểu Mai đẹp nhất, không
ngờ lại có người đẹp hơn, mười mấy tuổi đã đẹp thế này, lớn lên phải biết…”
“Tiểu Mai là ai?” Mao Tấn không hiểu anh em họ nói gì.
Chương Kiến Phi nói: “Là em gái Triệu Thành Tuấn.”
“Ừ, Tiểu Mai có lẽ lớn hơn một chút.” Vừa nói đến em gái, Triệu Thành Tuấn mắt
sáng lên âu yếm, có vẻ cậu rất cưng cô em. Mỗi người một câu, không hiểu sao
lại nói về chuyện cưới xin, Mao Tấn hỏi: “Nghe nói đàn ông Mã Lai có thể lấy bốn vợ, có
thật không? Vậy tôi phải đi Mã Lai tậu bốn cô vợ mang về mới được.”
Triệu Thành Tuấn phì cười: “Anh đừng tưởng bở, phải theo đạo Islam mới
được lấy bốn vợ.”
Mao Tấn quay đầu hỏi Chương Kiến Phi: “Còn cậu, định lấy mấy
vợ?”
Chương Kiến Phi dường như vẫn còn ngơ ngẩn: “Cả đời, tôi chỉ lấy một người
thôi.” Khi nói vậy, anh đang ngơ ngẩn nhìn bức ảnh em gái Mao Tấn, đột nhiên
nói: “Mao Tấn, gả em gái cho tôi nhé.”
Mao Tấn lắc đầu
nguây nguẩy: “Không được, tôi rất yêu cô em này, tôi không nỡ gả nó sang tận Mã
Lai, hơn nữa, sau này cậu lấy thêm vợ thì làm thế nào?”
Chương Kiến Phi vẻ trang nghiêm, nói như thật: “Tôi chỉ lấy mỗi cô ấy thôi.”
Lần đầu tiên Chương Kiến Phi nhìn thấy Mao Lệ là vào dịp hè năm đó, anh và
Triệu Thành Tuấn về Thượng Hải nghỉ hè. Mao Tấn tận tình khoản đãi, ba người đã
lâu mới gặp, không thể thiếu bia rượu hát hò. Địa điểm lựa chọn là một nơi giải
trí cao cấp, Mao Tấn còn gọi thêm mấy bạn học nữa. Tổng cộng bảy, tám
người, đang nhậu nhẹt, tán chuyện, cửa phòng đột nhiên bị đá tung, một cô gái
xinh đẹp lao vào túm lấy Mao Tấn, chân đạp tay đấm, rất hung dữ không giống đùa
vui chút nào.
Lúc đó cảnh lộn xộn, Triệu Thành Tuấn và Chương Kiến Phi cũng không biết lai
lịch cô gái đó, chỉ vào can ngăn, kéo cô ta ra, ai ngờ cô gái rất hung hăng, vớ
lấy cái gạt tàn ném vào đầu Mao Tấn, máu chảy be bét. Chương Kiến Phi vội vàng
kéo cô ta ra ngoài, Triệu Thành Tuấn đưa Mao Tấn vào bệnh viện, lúc ấy mới biết
cô gái đó chính là Mao Lệ, em gái Mao Tấn.
“Cô ta là em gái anh?” Triệu Thành Tuấn không để lộ ra mặt, nhưng trong lòng
nổi sóng, còn một câu anh chưa hỏi, có phải cô ta chính là người trong ảnh anh
đã nhìn thấy hồi nào.
Mao Tấn lúc đó được băng vết thương, cười đau khổ: “Còn không phải sao, nó
chính là em gái tôi. Con bé này ác thật, chẳng qua tôi chỉ dạy thằng bạn trai
nó mấy đòn, vậy mà nó muốn lấy mạng tôi.”
“Cô ấy có bạn trai?”
“Đừng hỏi, một thằng nhà quê chỉ thích moi tiền, không có sĩ diện, bám lấy em
tôi như đỉa. Tôi đã điều tra, dám chắc hai đứa không kéo dài bao lâu.”
“Sao anh dám chắc?”
“Hừ, đồ cặn bã như thế lại muốn lấy em tôi, dù người nó tròn xoe, tôi cũng đánh
cho thành bẹp dúm.”
Sáng hôm sau, Triệu Thành Tuấn đến khách sạn gặp Chương Kiến Phi, hai anh em
cùng ăn sáng, Triệu Thành Tuấn nói gì Chương Kiến Phi cũng không bỏ vào tai, cả
người ngơ ngẩn như mất hồn. Triệu Thành Tuấn lúc đó mới biết em gái Mao Tấn
hiện đang ở trong phòng anh, Chương Kiến Phi giải thích: “Cô ấy bị ngất, anh
lại không biết cô ấy ở đâu, đành đưa về khách sạn, em đừng nghĩ linh tinh, mặc
dù cả đêm anh ngồi cạnh giường cô ấy, nhưng không đụng vào sợi tóc của cô ấy.”
Điều này Triệu Thành Tuấn tin, Chương Kiến Phi là mẫu quân tử điển hình, được
giáo dục tốt, tuyệt nhiên không vượt quá giới hạn khi chưa được đối phương ưng
thuận, nhưng anh vẫn hỏi đùa: “Lẽ nào anh không muốn?”
Chương Kiến Phi đang chìm trong những tưởng tượng ngọt ngào, lại lắc đầu nói:
“Anh không tùy tiện thế đâu. A Tuấn, em nên thật lòng yêu một lần, khi em thật lòng
yêu một người, sẽ bỏ qua rất nhiều thứ ngoài tình cảm. Danh lợi, địa vị, tiền
bạc… thậm chí nhục dục, chỉ cần nhìn cô ấy là thấy thỏa mãn, giống như đó là
báu vật không gì thay thế, nhìn một lần muốn nhìn mãi, không một chút ý niệm về
ham muốn xác thịt…”
Suốt đời Triệu Thành Tuấn không thể quên biểu hiện lúc đó của Chương Kiến Phi,
một thứ ánh sáng khác thường dâng trong mắt, thần thái đó anh chưa bao giờ nhìn
thấy, tựa như tỏa sắc hào
quang, làm khuôn mặt sáng bừng bởi thứ ánh sáng hân hoan. Anh ướm hỏi: “Đúng là
cô ấy đẹp như anh nói chứ, em có thể nhìn thử được không?”
Chương Kiến Phi do dự giây lát, gật đầu: “Được, bây giờ cô ấy đang ngủ, để anh
đưa đi, nhưng anh phải nhắc em, cô ấy là của anh, em không được động lòng đâu
đấy.”
Triệu Thành Tuấn không tán thành: “Anh đừng tưởng ai cũng giống anh, em không
tin tình yêu sét đánh.”
Chương Kiến Phi lúc đó mới đưa Triệu Thành Tuấn đến căn phòng của anh, rèm cửa
khép, chỉ bật ngọn đèn tường, dưới ánh đèn vàng nhạt, nửa khuôn mặt cô vùi sâu
trong gối trắng muốt, mái tóc đen xõa tung trên đó, giống như gối lên một đám
mây đen. Anh đèn hơi mờ nhìn không rõ sắc da, chỉ thấy hàng mi rất dài, từng
sợi rõ ràng, sống mũi rất cao, môi dưới và khuôn cằm là hai đường cong tuyệt
mỹ, vừa nũng nịu dễ thương vừa tuyệt vời gợi cảm. Triệu Thành Tuấn đã nhìn
không ít thiếu nữ đẹp, nhưng rất kỳ lạ, khuôn mặt cô gái này có vẻ gì đó khiến
người ta ngơ ngẩn, dường như không phải chi do sự hoàn hảo của đường nét.
“Đi thôi, đừng làm cô ấy thức giấc.” Chương Kiến Phi kéo anh đi.
Ra khỏi phòng, Triệu Thành Tuấn đứng trên hành lang, dựa vào tường mãi không
nói gì, chỉ cảm thấy người như chơi vơi, một cảm giác hẫng hụt giống như vừa bị
mất thứ gì, không hiểu tại sao.
Anh hỏi Chương Kiến Phi: “Kiến Phi, anh yêu cô ấy thật à?”
“Đương nhiên, một năm trước xem ảnh cô ấy anh đã động lòng, nhìn thấy cô ấy,
anh lập tức bị hớp hồn.”
Chương Kiến Phi quả nhiên rất si tình, cũng không hề che giấu sự si mê của
mình, đứng cạnh Triệu Thành Tuấn hỏi nhỏ: “Thế nào, quá đẹp phải không? Anh
quyết định đợi cô ấy tốt nghiệp xong sẽ cầu hôn, em biết tính anh, không dễ
động lòng, một khi động lòng là bất chấp tất cả, dẫu phải sứt đầu mẻ trán.”
“Nhưng, Kiến Phi, chúng ta là anh em, em không muốn anh sứt đầu mẻ trán.”
Chương Kiến Phi cũng cười: “Không nghiêm trọng thế đâu, anh không thấy cô ấy
đáng sợ, trái lại cảm giác cô ấy như thiên sứ, trầm tĩnh an tường, khiến người
ta muốn nâng niu che chở…”
Hai người đứng nói một lúc, Triệu Thành Tuấn có việc phải đi, Chương Kiến Phi
tiếp tục ở lại khách sạn chăm sóc cô gái. Buổi tối hôm đó, Triệu Thành Tuấn và
Mao Tấn quay lại khách sạn cùng ăn cơm, đầu Mao Tấn quấn băng, vết thương không
nhẹ. Anh ta ôm đầu hỏi em gái còn đây không, Chương Kiến Phi nói đi rồi, Mao
Tấn tức nghiến răng: “Con bé này, may mà nó không cầm dao, nêu không tôi đã
chết trong tay nó.” Lúc đó nhìn Chương Kiến Phi cả người như bay bổng tận đâu,
Mao Tấn nói gì anh cũng như không nghe thấy, Mao Tấn hỏi Triệu Thành Tuấn:
“Kiến Phi sao thế?”
Triệu Thành Tuấn nhún vai: “Cái này phải hỏi em gái anh, anh ấy bị trúng tà.”
Mao Tấn dở khóc dở cười, khuyên anh: “Cậu đừng trêu đùa em tôi, tính nó nóng
nảy, không chịu nổi đâu, ngay cha tôi cũng sợ nó, từ nhỏ được chúng tôi quá
nuông chiều quen rồi.”
Lần này hình như Chương Kiến Phi nghe thấy, quay nhìn Mao Tấn, lại nhìn Triệu
Thành Tuấn, mặt chợt ngây ra. Lát sau, anh bất chợt hỏi một câu chẳng đâu vào
đâu: “Hai người đã nhìn thấy biển dưới trời sao chưa?”
Sự nghiêm túc của Chương Kiến Phi khiến Triệu Thành Tuấn kinh ngạc. Mọi người
vốn tưởng anh đùa, Chương Kiến Phi ở Mã Lai, Mao Lệ ở Trung Quốc, hai người
ngăn sống cách biển, sao có thể đến với nhau? Nhưng Chương Kiến Phi rất kiên
định, một khi đã quyết điều gì là không thay đổi. Hai năm sau cha qua đời,
Chương Kiến Phi khi đó đã tốt nghiệp, được giao một chức vụ tượng trưng ở tập
đoàn Hồng Hải, không mấy chuyên tâm vào công việc. ít lâu sau, Chương gia mở
rộng kinh doanh đến Thượng Hải, anh lập tức xin sang đó, với danh nghĩa đến
Thượng Hải làm việc, theo đuổi Mao Lệ.
Triệu Thành Tuấn cảm thấy Chương Kiến Phi có gì rất khó hiểu, mặc dù anh thấy
cô gái trong ảnh đúng là rất đẹp, nhưng tuổi vẫn nhỏ, gần như còn là đứa trẻ,
cho dù có cảm tình cũng không đến nỗi nôn nóng quyết liệt như vậy. Đây là sự
khác nhau giữa anh và Chương Kiến Phi. Triệu Thành Tuấn là người lý trí, trong
chuyện tình cảm cũng vậy, do ngoại hình nổi bật, bên cạnh anh chưa bao giờ
thiếu giai nhân, anh không cần chủ động theo đuổi ai, luôn có một đám người đẹp
vây quanh. Nhưng trong tâm trí Triệu Thành Tuấn, phụ nữ nhiều nhất cũng chỉ là
“hoa” khi đàn ông “dệt gấm thêm hoa”, nghĩa là luôn ở vị trí thứ yếu, đàn ông
làm việc lớn tuyệt nhiên không để phụ nữ dắt mũi, lời răn của cổ nhân, hồng
nhan là họa, không phải chỉ nói chơi. Cho nên mặc dù bên cạnh luôn không thiếu
giai nhân dập dìu, anh vẫn thờ ơ, dù ngay từ thời trung học
đã có nữ sinh cắt cổ tay tự vẫn vì anh, anh cũng không động lòng. Chương Kiến
Phi thấy vậy đã nói: “A Tuấn, có lúc em làm anh sợ, em quá lý trí, lý trí đến
phát sợ.”
Triệu Thành Tuấn nói: “Em khác anh, nếu em không lý trí, em đã không thể tồn
tại đến giờ.”
Câu nói của Triệu Thành Tuấn hàm ý sâu xa, nhưng Chương Kiến Phi không mấy để
ý, bởi anh không biết, trong thời gian anh say mê theo đuổi Mao Lệ, Triệu Thành
Tuấn đã trải qua những ngày tháng khốn khổ ở nước Anh thế nào. Hồi đó Mao Tấn
cũng học xong trở về nước giúp cha quản lý kinh doanh nhà hàng, chỉ còn mình
Triệu Thành Tuấn cô đơn trong màn sương mù thành London, không bạn bè không người thân, lần đầu tiên bị cắt
viện trợ kinh tế. Do cha dượng qua đời, người có quyền lực lớn nhất gia tộc họ
Chương bây giờ là Chương Thế Đức, sau cái chết của mẹ anh, lập tức cắt viện trợ
kinh tế từ chối cung cấp tiền ăn học cho anh. Triệu Thành Tuấn lại là người sĩ
diện, lòng tự trọng rất cao, có lúc Chương Kiến Phi từ Thượng Hải gọi điện hỏi
thăm, anh cũng không hề hé răng về chuyện đó. Anh cũng không cho em gái tiết lộ
với Chương Kiến Phi, luôn nhắc cô phải có cốt cách và lòng tự trọng.
Cho nên trong năm đó, Triệu Thành Tuấn phải đi làm thuê để lấy tiền ăn học, anh
không thể quay về, không thể bị Chương gia coi thường. Anh phải tự lập, phải
sống tiếp, phải nuôi em gái đang học trong trường múa, anh thề sớm muộn sẽ trả
lại cho Chương gia những đau khổ gấp trăm vạn đau khổ mà họ đã gây cho anh. Mẹ
nói đúng, gia tộc đó ngoài Chương Kiến Phi chỉ toàn những kẻ vô nhân tính. Thời
kỳ khó khăn nhất, Triệu Thành Tuấn từng đứng bán hàng trên phố, làm thợ
móc cống, thợ sửa xe, phụ việc trong các quán ăn đêm. Hồi đó anh chỉ có một ý
nghĩ: phải sống. Chương Gia Minh, lúc nhỏ thường bắt nạt anh, có một lần sang
Anh thương lượng chuyện làm ăn, tình cờ gặp anh. Lúc đó Triệu Thành Tuấn vừa
kết thúc công việc rửa bát trong một nhà hàng trở về ký túc xá, người đẫm mồ
hôi, quần áo nhem nhuốc, Chương Gia Minh đánh xe vào dưới tầng, nhìn thấy Triệu
Thành Tuấn cất giọng giả dối: “Trông cậu kìa, hà tất phải hành hạ bản thân như
thế? Cậu không có tiền cứ gọi điện cho anh, chúng ta rốt cuộc một thời cũng là
anh em, anh không thể thấy chết không cứu.”
Triệu Thành Tuấn trả lời: “Tôi vẫn chưa chết, Chương Gia Minh.”
Chương Gia Minh nhàn tản tựa thành xe, cười khẩy: “Cậu gan thật! A Tuấn, thể
diện quan trọng thế sao? Cùng anh về Mã Lai đi, anh sẽ nói với cha, để cậu làm
trợ lý cho anh, nhất định không để cậu thiệt. Cậu cũng biết, từ nhỏ anh đã
thích cậu mà.”
“Tôi không phải là dân gay.” Triệu Thành Tuấn lạnh mặt.
“Cậu biết à?”
“Chẳng lẽ không phải?”
“A Tuấn, cậu thật thiếu sáng suốt!”
Khuynh hướng tính dục của Chương Gia Minh bất thường, đây là bí mật ai cũng
biết của Chương gia. Sau khi bị từ chối, anh ta phẩy tay bỏ đi, sau đó lén cho
người xử lý Triệu Thành Tuấn. Vậy là thời gian đó Triệu Thành Tuấn thường bị
bọn lưu manh quấy nhiễu, bọn chúng bất ngờ xông vào đánh anh, xong việc chuồn thẳng. Thảm hại nhất là lần anh
bị đánh gãy hai chiếc xương sườn, một chiếc xương gãy đâm vào phổi, suýt mất
mạng. Cũng chính lần bị thương đó, Triệu Thành Tuấn thể lực vốn yếu từ nhỏ mắc
thêm chứng bệnh mãn tính, bác sĩ nói suốt đời khó chữa dứt điểm.
Lần đó may có một người đàn ông Hoa kiều qua đường cứu anh, nếu không anh đã bỏ
xác ngoài đường. Ở trong bệnh viện, anh nhận được điện thoại của Chương Kiến
Phi từ Thượng Hải: “A Tuấn, anh sắp kết hôn!”
Không ai biết tâm trạng Triệu Thành Tuấn lúc đó thế nào, chính anh cũng không
hình dung đó là cảm giác gì. Lúc đó anh nằm trên giường bệnh, bị thương khắp
người, vết khâu vẫn chưa cắt chỉ, ngực quấn đầy băng. Anh cố chịu cơn đau như
xé thịt, nói chuyện bình thường với Chương Kiến Phi: “Chúc mừng anh, Kiến Phi,
cuối cùng anh cũng được toại nguyện.”
“A Tuấn, anh thực sự rất yêu cô ấy, anh sẽ hạnh phúc, rồi em cũng có hạnh phúc.
À, em sắp tốt nghiệp rồi nhỉ, khi nào trở về Mã Lai? Một thời gian nữa anh sẽ
trở về bên đó làm lễ cưới, mong có thể gặp em.”
“Được, em sẽ cố gắng về sớm.”
“Em ở bên đó có khỏe không? Mao Tấn thường nhắc đến em, bọn anh rất nhớ em.”
“Em vẫn tốt, rất tốt, hai người khỏi lo.”
“A Tuấn, nghe giọng hình như em không được khỏe, có phải mệt quá không?”
“Vâng, sắp tốt nghiệp, em phải viết luận văn, hơi nhức đầu.”
Sự thực là do sắp tốt nghiệp, Triệu Thành Tuấn bị thương nằm viện, buộc phải
viết luận văn trong bệnh viện. Việc đó vô cùng khó khăn, vết thương còn chưa
cắt chỉ, khi ngồi viết, toàn thân đau buốt phát run.
Chương Kiến Phi không hề hay biết, chỉ khuyên: “Em chăm chỉ quá! Không cần vất
vả như vậy, chúng ta là anh em, chỉ cần anh có miếng ăn nhất định không để em
đói. A Tuấn, hay là em đến Thượng Hải đi, kết hôn xong anh cũng không định trở
về Mã Lai. Thượng Hải rất được, sôi động không kém Mã Lai. Em thấy thế nào?”
“Kiến Phi, em không sang đó, anh hạnh phúc như vậy, em không muôn làm phiền.”
Triệu Thành Tuấn quả thực không biết nói gì, anh có chết cũng chết ở Mã Lai,
anh phải báo thù, phải đòi lại công bằng cho người cha chết oan, anh phải đem
những vết thương đầy mình trả lại Chương Gia Minh. Anh không đi đâu hết, anh
phải quay về Mã Lai.
Tắt máy, Triệu Thành Tuấn vùi đầu vào chăn khóc rất lâu, cho dù túng quẫn, dù
bị bọn côn đồ đánh vỡ đầu chảy máu, anh cũng chưa từng rơi nước mắt, nhưng lần
đó không hiểu sao, cả người đột nhiên bải hoải rã rời, có lẽ là do Chương Kiến
Phi sắp kết hôn, sẽ có cuộc sống riêng, khiến Triệu Thành Tuấn cảm thấy cô đơn.
Anh khóc cho đến khi ngủ thiếp. Anh mơ gặp mẹ, bao nhiêu năm mẹ vẫn đẹp, mùi
hương thoang thoảng trên người mẹ là ký ức vấn vương trong anh suốt bao năm,
trong giấc mơ anh thật hạnh phúc lại nhận ra mùi hương đó.
Không biết anh ngủ thiếp bao lâu, khi tỉnh lại thấy một người ngồi cạnh giường, chính là người đàn ông đã đã
cứu anh, chăm chú xem bản luận văn của anh. Hình như vừa xem hết, người đó gật
gù khen: “Anh bạn trẻ, giỏi lắm!”
“Chú à, cháu đã thế này còn giỏi với ai?” Triệu Thành Tuấn yếu ớt trả lời.
“Người ta ai cũng có lúc sa cơ, không ai sinh ra đã có mọi thứ mong muốn, cho
dù là vương công quý tộc cũng có những thứ không thể đạt được. Anh bạn, tôi rất
ngưỡng mộ anh!” Người mà anh gọi là chú tuổi trạc sáu mươi, tóc hai bên thái
dương đã điểm bạc, mặc dù trang phục bình thường nhưng con người toát ra một
khí chất đặc biệt nào đó. Ông nhìn đôi mắt đỏ hoe của anh, giọng ôn tổn: “Trông
cậu rất buồn, có chuyện gì thế? Trên đời không có gì không thể vượt qua, mọi
trải nghiệm đối với mỗi người đều là tài sản, khi cậu bằng tuổi tôi, ngoảnh
nhìn lại cậu sẽ cảm thấy như thế, đúng là như thế.”
“Chú à, cháu có còn tương lai không?”
“Tại sao cậu hỏi vậy? Cậu vẫn còn tuổi xuân đầy sức sống, một quỹ thời gian lớn
để thực hiện những dự định ước mơ, tương lai hoàn toàn có thể nhìn thấy, vẩh đề
ở chỗ cậu có muốn đi tới hay không.”
Triệu Thành Tuấn quay mặt lại, giọng trở nên nghẹn ngào: “Cháu chẳng có gì
hết…”
“Cậu muốn gì? Tiền? Danh vọng? Phụ nữ? Những cái đó đều có thể đạt được, chỉ
cần cậu có niềm tin vào cuộc sống, những gì cậu muốn đều không phải quá xa vời,
phải dựa vào chính mình để giành lấy, hiểu không?” Người đó chắp tay sau lưng
đứng ở đầu giường, từ cao nhìn xuống, vẻ đăm chiêu:
“Anh bạn, đừng nản lòng, nếu quả thực cậu gặp khó khăn, tôi có thể giúp, hãy
nhớ là tôi giúp cậu chứ không phải bố thí, bởi vì tôi tin cậu có khả năng hoàn
trả, cậu có tiềm lực rất lớn mà tôi đã nhìn ra.”
“Dựa vào đâu?” Triệu Thành Tuấn không hiểu.
Người đó giơ bản luận văn vừa xem hết: “Dựa vào cái này.”
Người đó họ Dương, không rõ lai lịch thân phận, ông ta không chỉ thanh toán
tiền viện phí cho Triệu Thành Tuấn mà còn giúp anh tiền học phí, tiền thuê nhà,
còn đưa thêm món tiền đủ để anh không phải vất vả làm thêm cho đến khi tốt
nghiệp. Triệu Thành Tuấn không phải là người dễ dàng nhận sự giúp đỡ của người
khác, người họ Dương nói: “Tôi đã nói rồi, tôi không bố thí, mà tôi giúp cậu.
Cũng không phải giúp không, đợi khi cậu có thể trả được, cậu trả lại cũng chưa
muộn.” Cho nên từ đầu chí cuối, Triệu Thành Tuấn không hề biết thân phận thực
của người đó, chỉ biết ông ta không phải là người tầm thường, nếu không sao có
thể cho lái xe riêng đưa anh ra sân bay trở về Mã Lai. Khi rời London, ông
còn đưa cho anh một số điện thoại rồi nói: “Bất cứ lúc nào, chỉ cần gọi số mấy
này, tôi đều có thể giúp cậu.” Sau đó ông mỉm cười, nói thêm: “Đương nhiên với
tiền đề là, cậu phải sống.”
Về sau Triệu Thành Tuấn đã dùng đên số máy đó, quỹ lập nghiệp Bác Vũ chính là
do người đàn ông họ Dương đầu tư. Ông ta quả nhiên không nhìn nhầm người, Triệu
Thành Tuấn thực sự có tiềm năng rất lớn.
Nhưng đó là chuyện ba năm sau, còn Triệu Thành Tuấn lúc đó là sinh viên mới tốt
nghiệp, thuộc tầng lớp làm thuê, vất vả lập nghiệp ở thành phốPenang. Chương Kiến Phi trở về Mã Lai tổ chức hôn lễ, họ gặp
nhau ở sân bay, Chương Kiến Phi phấn khởi đấm vào ngực Triệu Thành Tuấn, anh
đau oằn người nhưng cố nhịn. “Hai năm không gặp, Tiểu Mai ngày nào cũng nhắc
đến anh.”
Mặc dù Triệu Thành Tuấn giữ kín chuyện xảy ra ở London nhưng Chương Kiến Phi vẫn biết chuyện bác ruột Chương
Thế Đức đuổi Triệu Thành Tuấn ra khỏi Chương gia và cắt viện trợ kinh tế. Anh
tức điên, cãi nhau với ông bác một trận, lại chạy đến mắng Triệu Thành Tuấn.
Vừa nhìn thấy Triệu Thành Tuấn và em gái sống trong căn nhà thuê bé xíu vừa tối
vừa ẩm ở khu dân nghèo, anh đã rơi nước mắt. Lại một chuyện đau đầu hơn nữa là,
Tiểu Mai được biết anh sẽ kết hôn với một cô gái Trung Quốc, cô tuyệt vọng cắt
cổ tay tự vẫn.
Chương Kiến Phi hoảng sợ, trong mắt anh, Triệu Mai vẫn là cô em đáng yêu xinh
đẹp, từ nhỏ luôn lẽo đẽo theo sau anh và Triệu Thành Tuấn. Mặc dù ngay từ hồi
đó cô bé một mực nói sau này sẽ lấy anh, nhưng Chương Kiến Phi chỉ coi là trò
đùa, chưa bao giờ nghĩ là chuyện nghiêm túc. Nhưng Tiểu Mai không nghĩ thế từ
nhỏ đến giờ, lấy Chương Kiến Phi luôn là mơ ước thực sự của cô. Có lần, lúc còn
rất nhỏ, nhân đám cưới một người họ Chương, Tiểu Mai kéo Chương Kiến Phi đi
xem, cô dâu rất đẹp, hôn lễ rất lãng mạn, sau đó Tiểu Mai kéo vạt áo Chương
Kiến Phi: “Anh Kiến Phi, sau này em cũng sẽ làm cô dâu của anh, được không?”
“Được, vậy em phải lớn nhanh lên.” Chương Kiến Phi gật đầu véo mũi cô, đồng ý ngay không nghĩ ngợi. Tiểu Mai
sung sướng nhảy lên, vỗ tay reo: “Oa, tốt quá, tốt quá, mình sẽ làm cô dâu của
anh Kiến Phi!”
Lúc đó anh chỉ nghĩ đây là trẻ con, không để ý. Không ngờ, Tiểu Mai hoàn toàn
nghiêm túc, kể cả khi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp trong lòng cô vẫn giữ
nguyên ước mơ thủa nhỏ, muốn trở thành cô dâu của Chương Kiến Phi. Có lẽ do
được nuông chiều, tính cô ngang bướng, đặc biệt rất gan lì, điểm này giống hệt
Chương Kiến Phi. Cô gan lì cũng không sao, nhưng đùa bỡn với tính mạng của mình
thì không thể. Triệu Thành Tuấn tức điên, sau khi Tiểu Mai được đưa đến bệnh
viện cấp cứu và hồi tỉnh, anh gầm lên với cô: “Em điên rồi! Em đúng là điên
rồi! Uổng công anh thương em từ bé đến giờ! Tính mạng của em là do cha mẹ ban
cho, không thuộc về em, nếu em muốn vứt bỏ nó phải được cha mẹ dưới suối vàng
đồng ý. Năm xưa nếu mẹ không sợ anh em ta chết đói mẹ có phải dấn thân vào nhà
họ Chương không? Em đã quên những giọt nước mắt tủi nhục mẹ phải chịu đựng vì
anh em ta sao? Được, cho dù em quên, cho dù em vô tâm vô tính cũng không thể
lấy Chương Kiến Phi! Em có biết anh ta là con ai không? Là con trai Chương Thế
Huân!”
Tiểu Mai cự lại: “Nhung tình cảm của anh với Kiến Phi tốt như vậy chứng tỏ điều
gì? Chứng tỏ những ân oán của thế hệ trước chẳng liên quan đến chúng ta, anh
rất hiểu điều đó!”
“Anh rất hiểu sau này nếu báo thù anh sẽ tha cho anh ta, vì chuyện này không
liên quan đến anh ta, nhưng trong cơ thể anh ta rốt cuộc vẫn có dòng máu của kẻ
đã giết cha chúng ta. Anh ta họ Chương, là người của Chương gia, anh có thể làm
anh em với anh ta, nhưng em tuyệt đôi không thể làm vợ anh ta. Làm anh em chỉ
cần gắn bó tình cảm, nhưng làm vợ chồng cần giao hòa huyết thống, anh không cho
phép thế hệ sau của chúng ta mang dòng máu của kẻ thù, cha mẹ chúng ta chết
không nhắm mắt dưới suối vàng cũng không cho phép!”
“Nhưng em yêu anh ấy, em thật lòng yêu anh ấy, ngoài anh ấy em sẽ không lấy
ai.”
“Em yêu anh ta, anh ta có yêu em không? Tình yêu không thế chỉ một phía! Anh ta
đã có người yêu, họ sắp cưới đến nơi, em phải chấp nhận. Cho dù em có thể bỏ
qua anh ta là con ai, nhưng không thể chấp nhận người anh ta yêu không phải là
em. Nếu em cứ u mê làm những chuyện ngu ngốc như vậy, đừng trách anh từ nay
không nhận em là em.”
“Không nhận thì thôi! Anh luôn miệng nói thương em, nhưng khi em thực sự cần
anh thì anh ở đâu? Anh thoải mái du ngoạn ở nước ngoài khi người họ Chương đuổi
em ra khỏi nhà, không được đi học, không có cơm ăn, một mình em lang thang
ngoài đường! Nếu không có A Mạc đưa em về, giúp đỡ thì em đã chết ở ngoài đường
từ lâu!”
A Mạc là bạn cùng lớp thân thiết nhất của Tiểu Mai, được Tiểu Mai giới thiệu
làm việc ở Bác Vũ.
Triệu Thành Tuấn nổi giận lôi đình: “À, em suýt chết đói ngoài đường, còn anh?
Em tưởng anh ở nước ngoài sung sướng lắm ư? Gã súc sinh Chương Gia Minh sai
người đánh anh mê man bất tỉnh! Để chu cấp tiền cho em ăn học, để có tiền nộp
học phí, chưa có công việc cực nhọc bẩn thỉu nào anh chưa làm! Nhưng tất cả
những cái đó là ai gây ra cho chúng ta? Chính
là người họ Chương! Vậy mà em vẫn muốn lấy người họ Chương? Không hiểu tại sao
cha mẹ lại sinh ra đứa con gái u mê như vậy!”
Cuộc cãi vã đó khiến hai anh em họ mấy tháng trời không nhìn mặt nhau. Bất luận
Tiểu Mai có chấp nhận hay không, hôn lễ của Chương Kiến Phi và Mao Lệ cũng đã
định, không thể thay đổi. Hồi đó Triệu Thành Tuấn rất bận, công ty cuối cùng đã
khởi sắc, tình trạng kinh tế cũng được cải thiện khá nhiều, vậy là anh thuê một
căn hộ cao cấp ở trung tâm thành phố để ở. Thực ra bản thân anh không thành vấn
đề, những lúc đen tối nhất anh từng sống trong nhà ổ chuột, nhưng anh không thể
để em gái khổ, bất luận hai anh em chiến tranh lạnh thế nào, anh vẫn chăm sóc
em gái, cho cô điều kiện sống tốt nhất. Tiểu Mai có hiểu hay không cũng không
quan trọng, sớm muộn cô cũng sẽ hiểu.
Anh em họ thực ra rất ít gặp nhau. Sau khi tốt nghiệp Tiểu Mai làm giáo viên
dạy múa ở một trường tư thục, cuối tuần mới về, còn Triệu Thành Tuấn bận túi
bụi suốt ngày, ăn ở ngay tại công ty, mỗi ngày nhiều nhất chỉ nghỉ ngơi ba
tiếng, thức trắng đêm là chuyện thường, cho nên thời gian lâu nhất là hơn một
tháng Tiểu Mai không gặp anh.
Triệu Thành Tuấn thậm chí không có thời gian chuyển nhà, chỉ gọi điện bảo Tiểu
Mai thu dọn đóng gói đồ đạc, anh sẽ cho người đưa cô đến nhà mới, Tiểu Mai phát
hiện ra bức ảnh đó trong khi thu dọn phòng của anh trai.
Bức ảnh để dưới gối của Triệu Thành Tuấn. Trong ảnh là một cô gái chừng mười
mấy tuổi, tóc dài, cằm hơi nhọn, rất xinh
đẹp, bất ngờ và lạ lùng nhất là đôi mắt, đen thẳm như đầm sâu, mặc dù là hình
ảnh tĩnh nhưng có cảm giác chỉ cần nín thở là dường như có thể nhìn thấy sóng
xôn xao từ đáy mắt, tia sáng lóng lánh trong tích tắc đó cơ hồ làm lu mờ cả ánh
mặt trời.
Áo
mới, người xưa
Buổi sáng có mưa.
Mưa ở Nam Ninh nhanh đến, nhanh đi. Mao Lệ thích nhất bầu trời sau cơn mưa,
sạch bóng tinh khôi như được thanh rửa. Bầu trời Nam Ninh sau cơn mưa càng diệu
kỳ, xanh thẳm và chói lọi như một viên ngọc bích khổng lổ, vạn vật dưới bầu
trời đều sáng láng, rạng rỡ, rặng cây xanh mướt mỡ màng như vẫn đang giữa mùa
xuân.
Thời tiết như vậy, lòng người nên vui mới phải, nhưng cô lại ngao ngán vô
chừng, điệu nhảy tối qua với Dung Nhược Thành có lẽ đã lan truyền khắp nhà xuất
bản. Lòng buồn bực, lại thêm cảm cúm, cô quyết định gọi điện cho Bạch Hiền Đức
xin nghỉ. Không ngờ chị ta đồng ý ngay, còn nói thêm: “Em biết không, hôm nay
sếp Dung bước đi như lướt trên mấy, mặt phơi phới sắc xuân…”
Mao Lệ tắt máy.
Cô hận mình muốn chết, tối qua đã biết là người ta chăng lưới mà vẫn lao vào.
Lần này thì không còn là tin đồn nữa, không biết chuyện sẽ còn ầm ĩ đến đâu.
Hôm sau Bạch Hiền Đức gọi điện thông báo có phó tổng biên tập mới, tên là Chu Dụng, hai ngày nữa sẽ chính thức nhậm chức. Dung Nhược
Thành thay thế chức vụ của Hứa Mậu Thanh, trở thành tổng biên tập, ngang cấp
với giám đốc nhà xuất bản.
Bạch Hiền Đức xuýt xoa trong điện thoại: “Một nhân vật rất tầm cỡ! Lại còn trên
tiến sỹ! Cừ lắm, cừ lắm, văn chương đầy mình, xuất khẩu thành thơ…”
Hôm Mao Lệ đi làm, nhìn thấy phó tổng mới, không khỏi trố mắt, quả nhiên là
“tầm cỡ”. Thân hình đó lớn bằng ba người cô chập lại. Thì ra “tầm cỡ” mà Bạch
Hiền Đức nói chính là ám chỉ ông ta đầu to mình lớn. Chu Dụng đích thân đến
phòng chào Mao Lệ, trước tiên là hồ hởi bắt tay, sau đó nheo nheo con mắt trí
tuệ, chậc lưỡi xuýt xoa: “Đã sớm nghe sếp Hứa ca ngợi nhà xuất bản chúng ta có
một giai nhân tuyệt thế, hôm nay được gặp, quả nhiên danh bất hư tluyền!”
“Đâu có, đâu có…” Mao Lệ hiếm hoi tỏ ra khiêm tốn. Bàn tay mập ú của Chu Dụng
xứng đáng được gọi là tay gấu, vỗ vỗ vai Mao Lệ: “Tôi đã xem những bản thảo cô
đề xuất trước đây, rất tốt, đáng trọng dụng!”
Sau đó Mao Lệ đến văn phòng của sếp mới báo cáo công việc hiện đang phụ trách,
sau chiếc bàn làm việc cũ, bây giờ là một người mới, thân hình to mập, khuôn
mặt lạ, khiến cô nhất thời không quen.
“Thế nào, không quen hả?” Chu Dụng cười tít mắt, ánh mắt
như dao, vừa liếc qua nhìn đã thấu tâm trạng Mao Lệ: “Không sao, dần dần sẽ
quen.” Nói đoạn, ông ta lấy ra một tập tài liệu, giở vài trang rồi nói: “Mấy
hôm rồi tôi đã xem kỹ công việc trưởng phòng Dung bàn giao, phát hiện một sáng
tác không tồi, nhưng không thấy
triển khai, tôi vừa hỏi Dung Nhược Thành, ông ấy bảo cô biết.”
“Sáng tác nào?” Mao Lệ hỏi thẳng.
“Trương Phan, anh ta có một bản thảo chuyển cho nhà xuất bản chúng ta, tôi đã
xem, rất được. Nhưng vừa rồi tôi liên hệ, anh ta nói đã chuyển cho nhà xuất bản
khác.”
Mao Lệ vừa nghe tên Trương Phan đã thở hắt ra, thật tệ hại! Dạo trước nếu anh
ta không tố cáo, sếp Dung đã không bắt cô viết kiểm điểm, từ đó sẽ không dẫn
đến hàng loạt sự cố, tai hại nhất là gây ra tin đồn giữa cô và Dung Nhược
Thành… Bây giờ vừa nghe nhắc cái tên đó, mối hận chưa kịp bùng lên, câu tiếp
theo của Chu Dụng lại làm cô suýt ngừng thở: “Bây giờ tôi giao cho cô nhiệm vụ,
cô đi Thượng Hải một chuyến, bất luận dùng biện pháp nào, cô nhất thiết phải
lấy lại được bản thảo đó của Trương Phan mang về đây cho tôi, nếu không mang về
được, cô cũng đừng quay lại, hiểu ý tôi không? Bằng mọi giá! Tôi không quan tâm
quá trình, chỉ cần kết quả!”
“Nhưng…”
“Đừng nói ‘nhưng’ với tôi, trước mặt tôi không bao giờ có chữ đó, Mao Lệ, cả cô
cũng không nên nói.”
Chu Dụng quả nhiên khác người. Trước đây Mao Lệ tiểu thư nhiều lúc khiến sếp
Dung đau đầu, nhưng sếp mới thì khác, quả thực không dễ chơi. “Cho cô thời gian
nội trong hai tuần phải mang được bản thảo về, thời gian vậy là khá thoải mái,
đúng không?”
Trời đất! Lại còn thoải mái…
Mao Lệ không biết mình ra khỏi phòng ông ta thế nào, chỉ cảm thấy kêu trời
không thấu, kêu đất không hay, thất thểu trở về phòng, lao người lên chiếc đi
văng rên hừ hừ.
Không có cách nào khác, sếp mới uy nghiêm, không phải là Dung Nhược Thành, Mao
Lệ ngoan ngoãn thu dọn đồ, ngay buổi chiều về Bắc Hải, chuẩn bị từ Bắc Hải đi
Thượng Hải. Cô vốn có thể đi thẳng Thượng Hải, nhưng vừa gọi điện cho mẹ, biết
cô đi Thượng Hải, bà nhất quyết bắt cô về nhà, nói là có thứ muốn cô mang đi.
Cô chỉ có hai tuần lễ, đi vòng vo như vậy rất lãng phí thời gian, nhưng đành bó
tay.
Rất không may, đến Bắc Hải được biết chuyến bay bị hủy, nghe nói do có bão.
Hỏng rồi, đợi bão đi qua, ít nhất cũng mất hai ngày. Mao Lệ thầm nghĩ cứ rềnh
rang thế này, làm sao hoàn thành nhiệm vụ đây. Tất cả đều tại mẹ, chỉ vì muốn
cô mang đi bình củ cải dầm mà làm lỡ cả việc của cô. Mấy món dầm không nói cũng
biết, chắc là gửi cho cha, cha kinh doanh nhà hàng, sơn hào hải vị trên trời
dưới bể còn thứ gì chưa chán, ông ấy còn muốn ăn mấy món củ cải dầm, bắp cải
dầm ớt của mẹ chắc?
Nhưng ý mẹ đã vậy, cô đành vội bê bình củ cải dầm ở cửa bếp ra ngoài: “Con đi
tìm cái hộp đóng kín, nếu không họ chưa chắc cho mang đi. Bây giờ người ta kiểm
tra vệ sinh an toàn rất nghiêm.”
Mẹ bỏ dao xuống, chạy đi tìm hộp giấy, vừa vội vàng vừa lẩm bẩm lo lắng: “Thế
là thế nào, thế là thế nào, không được mang theo người, ngộ nhỡ bị trộm mất thì
sao?”
Mao Lệ bật cười, cảm thấy mẹ rất đáng yêu, trên máy bay không biết có ai rỗi việc đến mức đi ăn trộm bình củ
cải dầm của bà không.
Ơn tròi, Bắc Hải ở vùng ven bão, không bị ảnh hưởng lắm. Nhưng gió vẫn rất
mạnh, thuyền bè cấm ra khơi, bác Hoàng đành ở nhà, cùng mẹ đóng gói bình củ cải
dầm. Đề phòng bị vỡ, hai người còn lót trấu và giấy vụn, lấy dây thừng buộc
chắc chắn mới yên tâm.
Mao Lệ nhìn cái “bánh gói” đồ sộ đó, nhăn mặt: “Mẹ buộc thế này dù máy bay có
rơi cũng không vỡ được.” Nói xong cô liền bị mẹ cốc vào đầu một cải: “Phủi
phủi, dại mồm dại miệng!”
Mẹ cô xưa nay vốn mê tín, con cái nói năng không cẩn thận là bị ăn đòn. Chưa
kịp ăn tối, mẹ đã ra chùa thắp hương cầu khấn, Mao Lệ chỉ buồn cười, thấy bà
quá lẩm cẩm.
Bữa tối do bác Hoàng nấu, hai bác cháu ngồi trên sân uống rượu. Bác Hoàng thật
thà đôn hậu, cả đời chỉ thích hút thuốc lào loại nặng, uống tí rượu, đồ nhắm có
lúc chỉ đĩa lạc rang là đã thỏa mãn. Mao Lệ rất quý bác, có chuyện gì cũng nói
với bác. Bác Hoàng bảo cô: “Mẹ cháu sỗ mồm, không biết nói lời hay, nhưng rất
lo cho các cháu, mồng một ngày rằm nào cũng lên chùa thắp hương cầu khấn cho
các cháu. Trong mắt người lớn, các cháu vẫn như trẻ nhỏ.”
Mao Lệ đang định hỏi gì, một ngụm rượu trắng uống vào cay bỏng lưỡi, cái nóng
từ đầu lưỡi chảy xuống cổ, cảm giác này thật sảng khoái. Cô chìa cốc, lại bắt
bác Hoàng rót thêm, uống tiếp.
“Òa, quá đã!” Cả người cô nóng ran.
Bác Hoàng rất vui, hiếm hoi có người uống cùng, vậy là xuống bếp làm thêm vài
món, bác cháu lại uống, chẳng mấy chốc bình rượu hết quá nửa. Bác Hoàng hay
uống nhưng tửu lượng không bằng Mao Lệ, được một lát người lảo đảo đi vào
giường ngủ. Mao Lệ ngồi ở sân uống một mình. Cơn bão rõ ràng đã đi vào vùng ven
thành phố, gió ào ào, giàn nho chuyển mình răng rắc, mấy chiếc ghế nhỏ cũng bị
thổi hất về phía sau. Mao Lệ nhìn đám mấy cuồn cuộn trên đầu, rõ ràng không có
sao, nhưng trước mặt lại có một khoảng sáng rực, cô biết mình đã say.
Có câu, càng say càng tỉnh, Mao Lệ thuộc loại này. Cô uống hết bình rượu trắng,
mặc dù trước mặt chao đảo, đầu váng mắt hoa nhưng vẫn vô cùng tỉnh táo, cô biết
mình đang làm gì, đang nghĩ gì. Đột nhiên cô rất muốn đến chỗ đó, một dải rừng
tràm, bãi biển dưới ánh trăng… Cô mò mẫm đi trong sân, bước chệch choạc,
trong đầu vẫn quanh quẩn ý nghĩ, mẹ ra chùa sao mãi chưa về. Lúc đó cô phát
hiện mình đã đi ra phố, gió quá to, cát hắt vào mắt, rất đau, đưa tay lau chỉ
thấy nước mắt. Cô không nhìn rõ gì hết, chân bủn rủn, không biết mình đi đâu.
Một chiếc tắc xi dừng bên cạnh.
Tài xế bấm còi, dường như muốn nhanh chóng làm cuốc xe cuối cùng trước khi bão
về.
Mao Lệ lảo đảo kéo cửa xe, lao vào trong. Mặc dù đã say, cô vẫn nghe rõ lái xe
hỏi đi đâu, cô nói ra địa chỉ sau đó lịm đi. Hình như mới vừa chợp mắt đã nghe
tiếng lái xe gọi, thông báo đã đến nơi. Mao Lệ rút đại ít tiền lẻ đưa cho anh
ta, vừa mở cửa xe đã loạng choạng suýt ngã.
Cô thấy trong người cực kỳ khó chịu, dạ dày cuộn lên từng cơn, có lẽ đường hơi
xóc. Cô còn nhớ trên đoạn đường đất cô đã nôn thốc nôn tháo, nôn xong không thể
đứng vững, cố gắng phân biệt cảnh vật xung quanh, phát hiện mình đã đến con
đường nhỏ ngoài khu rừng. May mà đường này có đèn sáng, ngôi nhà phía xa ẩn
dưới bóng cây cũng có ánh đèn, cô vẫn có thể loạng choạng đi tiếp.
Hàng cây hai bên đường bị gió thổi rạp về một phía, nghiêng về phía Mao Lệ,
những hình bóng chập chờn, gầm rít dữ dội, như có ngàn con ngựa thở hồng hộc
lao vào cô, muốn giẫm nát cô. Mao Lệ sợ hãi, nghẹn ngào nhằm hướng ánh đèn,
khom mình, chống chọi với gió, bước thấp bước cao đi đến. Cuối cùng cô cũng bám
được vào cánh cửa sắt, vẫn lờ mờ nhìn thấy tấm biển trên cao có mấy chữ “Hải
Thiên Uyển”. Cổng đóng, cô không vào được. Dựa vào ký ức, cô sờ soạng chuông
cửa, vừa nhấn vừa gọi: “Kiến Phi, mở cửa! Kiến Phi, em đã về, anh mau mở cửa…”
Không lâu sau có người bế cô lên, còn có giọt nước nóng hổi rơi xuống mặt cô.
Mao Lệ cố mở mắt, nhìn không rõ, chỉ thấy trước mặt một mảng lờ mờ, nhưng cô
vẫn nhận ra khuôn mặt anh, khoảng cách gần như vậy, hơi thở ấm nóng phả vào mặt
cô, lại dường như cách cả thế giới.
Cô run run giơ tay vuốt ve mặt anh, ngón tay chạm vào vệt nước mắt… là mơ
chăng? Cô thầm hỏi. Thôi kệ, cho dù là mơ cũng để cô dựa vào anh một lát, cô
quá mệt, quá mệt rồi, cần một vòng tay. Vòng tay đó quen thuộc như vậy, khiến cô
nghĩ tới một chiều hoàng hôn ba năm trước, lúc cô từ trên bàn phẫu thuật bước
xuống, anh cũng ôm cô như vậy. Anh chưa bao giờ ôm cô như vậy, não nề, tuyệt
vọng, giống như cô đã chết, anh đã mất cả một thế giới anh trân trọng nâng niu.
Lúc đó anh khóc sao mà đau đớn, người ta nói đàn ông không khóc, nhưng anh xưa
nay khóc rất nhiều, tròng mắt thường ầng ậc nước trước mặt cô, có lúc giống như
đứa trẻ.
Người ta thường để mất một người rồi mới nhớ tới những điểm tốt của người đó.
Suốt ba năm nay anh từ chối không gặp cô, không cho cô biết bất cứ tin tức gì,
cho dù cô điên cuồng hối hận, cho dù cô quằn quại nhớ nhung, anh đều không bận
lòng, khi ấy Mao Lệ mới ý thức được, mình không phải mất đi một người đàn ông,
mà đã mất một thế giới. Cô bắt đầu điên cuồng nhớ lại quá khứ của hai người,
trong ký ức đó anh mãi mãi như tia nắng đỏ tháng Giêng ấm áp dịu dàng, luôn
mang đến cho cô niềm vui bất ngờ những lúc cô buồn, dường như không gì trên thế
giới này có thể làm anh gục ngã. Thực ra phần nhiều anh không biết cô cần gì,
nhưng anh luôn cho cô những gì tốt nhất. Anh có thể nhẫn nhịn tính xấu của cô,
tha thứ mọi lời nói hành động ngông cuồng phi lý của cô, có lúc anh cũng giận,
nhưng khi giận nhất cũng chỉ một mình đi dạo trên bãi biển, lặng lẽ hút thuốc
rồi lại quay về…
Cô ôn lại từng kỷ niệm, phóng đại từng việc anh làm trong niềm ân hận và tiếc
nuối tột cùng. Bây giờ cô mói hiểu cô đã để mất một báu vật thế nào, nó không
còn thuộc về cô nữa, cô đã tự tay đập nát tất cả. Cô cay đắng nghĩ suốt đời này
có lẽ không bao giờ được gặp lại anh nữa, nhưng bây giờ, sao cô
lại nằm khóc trong lòng anh?
Rốt cuộc là mơ hay thực, vẫn vòng tay ấm áp như xưa, chân thực đến nỗi không
thể là mộng cảnh. Đầu choáng váng, Mao Lệ gắng dùng sức lực cuối cùng vẫn không
thể nhìn rõ anh, chỉ cảm thấy khuôn mặt anh mỗi lúc một xa, cuối cùng cô rời
vòng tay anh, hình như bị đặt lên giường. Vậy thì, chỉ có thể là mơ… nhưng
trước khi chìm vào giấc ngủ, rõ ràng cô nghe thấy một giọng se sẽ lạnh lùng,
không chút tình cảm: “Trước khi trời sáng, cô nhất thiết phải rời khỏi đây.”
Bên tai có tiếng gió nhẹ, lại còn có tiếng chim lanh lảnh trên cành cây ngoài
cửa sổ.
“Dậy ăn chút đã, để bụng đói đi ngủ không tốt đâu.” Triệu Thành Tuấn ngồi bên
mép giường, nụ cười sáng bừng như ánh mặt trời ngày đông, anh giơ tay vuốt mái
tóc rối của Mao Lệ, khẽ vỗ vào má cô: “Dạo này cô gầy đi nhiều.”
Mao Lệ băn khoăn nhìn anh, như nhìn một người chưa từng biết.
“Không phải cô uống say là không nhận ra tôi chứ?” Triệu Thành Tuấn cười.
Mao Lệ thấy đầu vẫn choáng váng, toàn thân rã rời, hình như vẫn quanh quẩn
trong giấc mơ nặng nề nào đó. Cô nhìn quanh, nhận ra là phòng ngủ trên tầng hai
của Hải Thiên Uyển, sao cô lại ngủ ở đây?
Triệu Thành Tuấn kéo cô khỏi đống gối trắng như tuyết: “Dậy đi, đừng có ngủ vùi
như thế!”
Anh kéo cô dậy, mắt như ánh sao nhìn cô, mỉm cười: “Lần sau uống rượu nhớ gọi
tôi uống cùng, như vậy cô say, ít nhất cũng có người ở bên, không đến nỗi bị
người ta nhặt được mang đi khó chuộc về.”
Cuối cùng cô cũng cười, nhưng còn thảm hại hơn khóc.
“Cảm ơn, lần nào cũng làm phiền anh.” Cô đã tỉnh nhiều, bởi vì anh bước đến mở
cánh cửa kính rộng sát đất, đối diện với ban công lộ thiên, có thể nhìn thấy
một đường viền xanh ngắt trên mặt biển phía xa. Gió mang hơi lạnh thổi đến,
thấm vị mặn đặc trưng của biển, trời đã vào thu, ở Thượng Hải chắc phải mặc áo
len rồi. Cô ớn lạnh, bất chợt sờ lên áo mình, không ngờ bị Triệu Thành Tuấn
nhìn thấy, anh nói giọng châm biếm: “Yên tâm, tôi không có thói quen lợi dụng
lúc người ta say. Bởi vì những cô gái say rượu thường không phân biệt rõ đối
tượng, không nhớ rõ đang làm với ai, tôi sẽ cảm thấy rất oan uổng.”
Mặt cô nóng ran, đầu vẫn ong ong nhưng miệng lưỡi sắc sảo: “Anh cũng yên tâm,
tôi không nhân lúc say mà thất lễ với
anh đâu. Tôi tự nhận tư cách chưa đến nỗi.”
“Chuyện đó tôi không bận tâm.” Triệu Thành Tuấn bật cười to.
“Anh không bận tâm nhưng tôi thì có. Nếu thất lễ với anh, tôi sẽ chịu trách
nhiệm.”
“Thật không, nêu sớm biết thế tối qua tôi đã nấu gạo thành cơm cho rồi! Đáng
tiếc, đáng tiếc, nếu lần sau vẫn còn cơ hội…”
“Anh sẽ không còn cơ hội như vậy nữa!” Mao Lệ tung chăn bước xuống giường, đi
chân trần vào nhà tắm. Trên người cô là chiếc váy dệt kim liền thân màu hồng,
có vài nếp nhăn, nhưng lại có vẻ đẹp trễ nải vô cùng quyến rũ, nhất là mớ tóc
đen chưa chải rối như tổ chim, cô dùng tay vuốt qua loa rồi quấn thành một búi
cao, dùng chiếc bờm nhỏ găm lại, lộ ra khoảng gáy thon trắng muốt rất gợi cảm.
Triệu Thành Tuấn đột nhiên ngơ ngẩn, anh biết không ít mỹ nhân, đa phần đều
hoàn hảo, nhưng chưa từng thấy cô gái nào không trang điểm mà vẫn đẹp mê hồn
như vậy.
Mao Lệ vào phòng quần áo cạnh phòng tắm tìm đồ thay. Mặc dù nhà đã cho thuê
nhưng cô vẫn giữ lại tủ quần áo của mình, bởi vì quần áo quá nhiều, căn hộ của
cô ở Nam Ninh lại hơi nhỏ, quả thực không có chỗ chứa.
Cô nhanh chóng lấy ra chiếc váy màu lam, ướm trước gương, miệng vẫn nói vọng
ra: “Nghiêm túc mà nói, coi như tôi vẫn ngủ trên giường của mình.” Nói đoạn cô
chỉ chiếc giường lớn chạm hoa văn: “Đây là giường của tôi!”
“Vậy thì tôi quá vinh hạnh, có thể ngủ trên giường của cô.”
Mao Lệ lườm anh, đóng sập cửa phòng tắm, hình như vẫn chưa yên tâm, lại mở cửa
thò đầu ra nói: “Anh đi ra ngoài.”
Triệu Thành Tuấn nhướn mày, giơ hai tay như đầu hàng: “Ok.”
Vừa sửa soạn xong bữa sáng, Triệu Thành Tuấn đang định ra đi văng ngồi đọc báo
thì Mao Lệ từ cầu thang đi xuống, dáng thướt
tha như tiên nữ. Anh rất ngạc nhiên, theo hiểu biết của anh về phụ nữ, các công
đoạn từ tắm, bôi kem dưỡng, chải đầu, trang điểm, xịt nước hoa, hàng loạt thao
tác lặt vặt nhìn chung một tiếng đồng hồ chưa thể ra khỏi cửa, nhưng cô gái này
chưa đầy nửa tiếng đã xong hết.
“Nhanh vậy sao?”Anh ta ngắm nhìn Mao Lệ vừa được chỉnh đốn gọn gàng, tươi rói
mơn mởn sức xuân.
Mao Lệ gật đầu, không khách sáo đi thẳng đến bàn ăn, giơ tay nhón một khoanh
bánh kẹp. Tối qua uống rượu nôn hết, cô đã đói chóng mặt, lúc tắm, chân mềm
nhũn, suýt va đầu vào bồn.
“Đừng nói bữa sáng này là do anh làm.” Cô cắn mấy miếng bánh kẹp, lại thêm mấy
miếng trứng rán. Triệu Thành Tuấn nhìn cô ăn, cười ngất: “Đương nhiên là tôi
làm, nhưng cô ăn từ từ thôi, cẩn thận nuốt luôn cả đĩa.”
“Phù, anh lại còn biết làm bữa sáng cơ à?” Mao Lệ miệng đầy thịt chân giò hun
khói và trứng rán, xuýt xoa khen: “Đàn ông bây giờ ngày càng hảo hạng, ngoại
hình hảo hạng đã đành, lại còn hảo hạng ở cả phòng khách lẫn nhà bếp.”
“Hay là cô thử xem xét?” Triệu Thành Tuấn nhân tiện phụ họa.
Mao Lệ biết anh sẽ nói thế, miệng lưỡi sắc sảo lại khua tiếp: “Cảm ơn, loại hảo
hạng như anh tôi không xài được.”
“Cô tưởng tôi là chiếc bình hoa chắc.” Triệu Thành Tuấn cũng phản ứng cực
nhanh. Mao Lệ cười ha hả, anh giơ tay cốc vào đầu cô: “Không được nói bừa, tôi
không phải là bình hoa!”
Nhưng anh rất thích cô, cô nhạy cảm thông minh, phản ứng nhanh, tuyệt đối không
phải kiểu người đẹp thơ ngây ngốc nghếch. Thấy cô càn quét hết sạch thức ăn
trên bàn nhanh như gió, anh hỏi: “Hay là ốp thêm trứng?”
Từ khi Mao Lệ nằm viện được mẹ chăm nuôi suốt nửa tháng, nhồi nhét như nhồi
vịt, dạ dày dãn rộng, tự nhiên gật đầu: “Ừ, ốp kỹ một chút, tôi không thích
loại lòng đào, đàn ông hảo hạng nhất định có thể làm được trứng ốp hảo hạng!”
“Vậy còn cô, cô biết làm gì?” Triệu Thành Tuấn từ trong bếp hỏi vọng ra.
“Tôi biết ăn trứng ốp.”
“Đồ ngốc!”
Mao Lệ nhét đầy thức ăn vào bụng, tinh thần cũng phục hồi không ít, đưa mắt
nhìn quanh, phát hiện phòng được lau dọn rất sạch, sàn nhà bằng gỗ ô mộc bóng
như gương, đàn ông hảo hạng quả nhiên khác thường, phong độ đường hoàng, căn
phòng không một hạt bụi. Ngồi ở bàn ăn đối diện với ban công rất rộng của phòng
khách, Mao Lệ mở to mắt nhìn ra, trên bãi biển hình như có người đứng quay,
lưng về phía Hải Thiên Uyển. Do khoảng cách rất xa, chỉ nhìn thấy một bóng đen
chầm chậm di chuyển trên bãi biển, cả bãi biển tít tắp trải dài chỉ có một chấm
đen đó, cho nên dù rất nhỏ cũng phát hiện ra.
Triệu Thành Tuấn nhanh chóng để đĩa trứng ốp trước mặt cô: “Ăn đi cho nóng.”
Mao Lệ vẫn bất động, nheo mắt nhìn “điểm đen” di động trên bãi biển, trên đường chỉ xanh ngắt giữa trời và
biển có mình anh ta đứng trong gió, đang nghĩ gì? Bóng cô đơn, hình như đầy sầu
muộn…
Triệu Thành Tuấn nhìn theo hướng mắt cô, mặt chợt biến sắc, anh giơ tay tóm cằm
cô xoay lại, để mắt cô hướng vào anh: “Nhìn tôi này! Tôi hảo hạng như vậy, còn
không hấp dẫn được cô ư?”
Mao Lệ giả bộ nhíu mày: “Mặt anh xấu lắm, những thứ hảo hạng không thể nhìn
gần.” Triệu Thành Tuấn lại gõ vào đầu cô, đứng bên cạnh chắn tầm nhìn của cô:
“Mau ăn đi, tôi đang vội.”
Mao Lệ nói: “Tôi cũng đang vội, hôm nay phải đi Thượng Hải.”
“Khéo vậy sao? Tôi cũng đi Thượng Hải!” Triệu Thành Tuấn lộ vẻ vui mừng gần như
xúc động. Không phải giả bộ, anh quả thực không biết Mao Lệ cũng đi Thượng Hải.
Nhưng cô nhăn nhó: “Bây giờ có mua được vé không, bão về, các chuyến bay bị ảnh
hưởng.”
“Không sao, tôi sẽ mua giúp cô.”
Triệu Thành Tuấn nói xong liền rút điện thoại, anh nói không phải tiếng Anh
cũng không phải tiếng Hán, mà là tiếng Mã Lai. Mao Lệ không hiểu, nhưng âm
thanh quen thuộc đó như mũi kim bất chợt đâm vào lòng. Cô giật mình, lại thấy
hoang mang, ngây người nhìn Triệu Thành Tuấn.
“Đã đặt được vé rồi, chuyến bay ba giờ bốn mươi chiều nay.” Triệu Thành Tuấn
nhanh chóng kết thúc cuộc gọi, vui ra mặt. Nhưng anh thấy Mao Lệ đang ngơ ngẩn
người, trứng ốp cũng không ăn, đứng dậy đi vào ngồi trên đi văng phòng khách.
Triệu Thành Tuấn quả quyết bước đến kéo rèm cửa, ngồi xuống cạnh cô, nắm vai cô
hỏi: “Sao thế? Cùng đồng hành với đàn ông hảo hạng như tôi, chẳng có lý do gì
không vui.”
Anh cố tình nói đùa, di chuyển chú ý của cô. Nhưng cô vẫn ngơ ngẩn như đang
mộng du, miệng lẩm bẩm: “Tại sao phải kéo rèm? Ban ngày ban mặt, sợ gì dị
nghị.”
Triệu Thành Tuấn lại đùa: “Ồ, tôi đang mong thế?”
Trong tay Mao Lệ không biết từ lúc nào lại có chiếc bật lửa, có lẽ là cô nhặt
lên lúc ngồi xuống đi văng. Đó là chiếc bật lửa màu xám bạc, nhãn hiệu
D.T.Dupont, hình như cô từng biết…
“Đưa tôi.” Triệu Thành Tuấn cười, chìa tay về phía cô. Nụ cười đó không thể
hiện điều gì, dường như quá bình thường tự nhiên… Anh vừa cười vừa lấy hộp
thuốc trên bàn rút ra một điếu, lấy bật lửa từ tay Mao Lệ châm thuốc. Xong
xuôi, làm như tiện tay anh bỏ luôn vào túi quần, rồi giơ tay nhìn đồng hồ, nói
với Mao Lệ: “Bây giờ cũng muộn rồi, cô vểề chuẩn bị, lát nữa tôi đến đón.”
Mao Lệ gật đầu, đứng dậy đi ra cửa, như nhớ ra điều gì lại hỏi: “À, tối qua tôi
ngủ ở đây, người nhà có đến tìm không?”
“Không, nhưng mẹ cô có gọi điện, gọi máy của cô. Tôi nghe giúp, đã bảo với bà
rằng cô uống say, ngủ tạm một đêm ở chỗ tôi.”
Mao Lệ cụp mắt, thầm nghĩ, phen này lại chết rồi, cả đêm không về, lại là đàn
ông nghe máy, không biết mẹ la lối thế nào. Cô ủ rũ ra khỏi cửa, vừa ngẩng đầu
liền nhìn thấy vườn rau quả bị gió đập tơi bời, nhất là cà chua rơi đầy trên
đất. Mẹ nhìn thấy chắc xót ruột lắm. Cô lại nhìn ra bãi biển, không thấy một
ai, chỉ còn những dấu chân trên cát bị sóng xô đến xóa đi…
“Nhìn gì thế?” Triệu Thành Tuấn hỏi cô.
“Vừa rồi hình như tôi nhìn thấy có người đi trên bãi biển, trông bộ dạng như
muốn tự sát.”
“Ồ, lại một người có nỗi đoạn tràng.” Triệu Thành Tuấn cười, nhìn ra bãi biển.
Mao Lệ ngạc nhiên nhìn anh, cũng cười: “Không ngờ anh vẫn còn chút tình cổ điển
như vậy, tôi cứ tưởng anh chi biết đến chỉ số Dow
Jones.”
Triệu Thành Tuấn phản đối: “Thứ nhất, tôi không phải là dân Tây rởm; thứ hai,
tôi không chỉ biết chỉ số Dow Jones, tôi
còn biết rất nhiều thứ khác…”
“Anh biết bao nhiêu tôi cũng không hứng thú!” Mao Lệ đi dưới bóng cây lấp lóa
ánh nắng, lại vẫy tay với anh ta: “Không cần tiễn, tự tôi về được.”
“Để tôi đưa về.” Triệu Thành Tuấn thực sự thích tính thoải mái hài hước của cô.
Mao Lệ lắc đầu, chỉ con đường ven biển trước mặt: “Thôi, tôi ra đường bắt xe,
rất tiện. Nếu anh đưa về, bị mẹ tôi bắt được, bà ấy sẽ…”
“Sẽ lột da tôi?”
“Ừ, còn rút gân anh nữa!”
Thật bất ngờ, mẹ lại không truy hỏi gì, có lẽ đang bận.
Bà đang ở sân, nào rửa nào thái, bận luôn tay, hình như lại muối dưa. Rõ thật
là, vừa muối một cái “bánh gói lớn” để trong nhà, lại muối tiếp. Nhưng Mao Lệ
có tật giật mình, không dám trêu chọc bà, chỉ nói một câu: “Mẹ, con đã về.” Rồi
cô rón rén vào nhà thu xếp đồ…
“Mắt mẹ bây giờ hình như không ổn.” Mẹ cô dừng tay, mặt thần ra, hình như không
nghe rõ Mao Lệ nói gì.
Mao Lệ buột miệng hỏi: “Sao thế?”
“Sáng mẹ dậy phơi quần áo… hình như… hình như nhìn thấy Kiến Phi, ở đầu
ngõ, khi mẹ chạy ra, đã chẳng thấy đâu…”
“…”
Gió nhè nhẹ, xung quanh đột nhiên im ắng. Ánh nắng như vụn vàng lọt qua tán lá
nhỏ, rắc trên những ô đá xanh lát trên sân. Dưới cửa sổ hướng nam có một khóm
chuối tiêu lớn và bụi hoa nguyệt lý, những bông hoa màu phấn hồng và màu đỏ
rung rinh bao quanh khóm chuối đung đưa rất đẹp. Một con chuồn chuồn lặng lẽ
liệng vòng, trong không trung phảng phất mùi hoa, càng khơi gợi ký ức.
Mao Lệ đứng ngây, mắt nhìn bụi hoa nguyệt lý, thấy những vầng hoa lớp lớp tựa
mây hồng, chấp chới trong gió như muốn bay
lên. Cô sực nhớ hổi nhỏ rất thích mùi hoa nguyệt lý, có lúc còn hái mấy bông
màu phấn hồng, chơi trò “bói hoa” nhưng luôn bị gai đâm. Sau này lớn, dần dần
cô mới biết, tình yêu không thể đoán được, trên đời khó đoán nhất là tình yêu.
Khi tưởng mình đang yêu, thực ra tình yêu cách rất xa, khi nghĩ là tình yêu ở
rất xa, thực ra nó đang ở ngay bên cạnh, liên tục gặp gỡ, liên tục bỏ qua, cho
dù gặp được đúng người, nhưng nếu không đúng thời gian, cũng không thể ở bên
nhau.
Mắt cô nhòa ướt.
Không, không, cô không thể khóc! Nếu cô khóc thì mọi nỗ lực đều vô ích. Cô đã
quyết chí đoạn tuyệt tất cả, nếu đã biết đời này vô duyên, còn hy vọng gì?
Nhưng, cô không biết nước mắt sao khó kìm đến thế. Cô không dám mở miệng, không
dám nhắm mắt, không dám có bất cứ động tác nào, chỉ sợ một chấn động nhỏ sẽ làm
nước mắt trào ra!
“Mao Mao, con sao thế?” Mẹ đang cắm cúi thái dưa chuột, nhìn thấy Mao Lệ lảo
đảo, vội đứng lên.
Mao Lệ đứng ngây như khúc gỗ, xung quanh vẫn yên ắng. Cô có thể nghe thấy hơi
thở của mình, hơi thở vô cùng bình lặng, bình lặng đến đáng sợ, giống như nước
lũ từ từ dâng, từ từ tràn qua đê, không biết lúc nào đê vỡ, nước mênh mông. Cô
cắn môi, tuyệt vọng nhìn mẹ, nước trong mắt cô sóng sánh, giọng run run: “Mẹ à,
chúng ta cùng quên anh ấy đi.”
Nói xong cô quay người bước lên thềm định vào nhà, vừa nhấc chân đã ngã ngào
xuống bậc, mẹ bỏ dao chạy đến đỡ cô: “Mao Mao…”
“Không sao, mẹ, con không sao.” Mao Lệ vẫn nửa quỳ trên thềm, hai tay ôm đầu, cả người run lẩy bẩy. “Mẹ, sau
này mẹ đừng nhắc đến cái tên đó, anh ấy đã không còn bất cứ quan hệ nào với
chúng ta. Quên anh ấy đi!”
Nói xong cô đi vào nhà, đầu không ngoái lại.
Tôi
không muốn nhìn thấy em khóc nữa
Mùa thu Thượng Hải thật tuyệt vời, lá ngô đồng vàng rực rụng đầy hè phố, chạy
dài suốt nẻo, lạo xạo dưới chân khách qua đường, bầu trời đương nhiên không
xanh bằng Nam Ninh nhưng chứa chan ánh sáng dịu dàng, trong trẻo và bao la, nếu
không có những tòa cao ốc như rừng phá vỡ sự hài hòa của thiên nhiên, phong
cảnh thành phố như bức tranh sơn dầu sẽ càng tuyệt hơn.
Nhưng Mao Lệ không có tâm trạng thưởng thức cảnh đẹp đường phố, tất cả chỉ tại
Trương Phan, buổi tối trước hôm đi gặp anh ta, suốt đêm cô gặp ác mộng, lúc
thấy anh ta giống dã thú ăn thịt người, lúc thấy anh ta giống yêu tinh nhe nanh
múa vuốt, nhưng sau khi gặp mặt, cô mới biết trên đời lại có một loại “sinh
vật” còn đáng sợ hơn cả dã thú và yêu tình, anh ta quá khác so với hình ảnh các
tác giả trong hình dung của cô! Trong phần giới thiệu cá nhân gửi kèm bản thảo,
không thấy ghi anh ta là giáo sư, cô cũng gặp không ít giáo sư, đa phần đều nho
nhã đạo mạo, ngôn từ hàm súc, nhưng Trương Phan này… Suốt hai tiếng đồng hồ
anh ta làm cô phát điên bởi mớ lý luận lằng nhằng, cô nghe đến ù tai chóng mặt,
đầu sắp vỡ tung. Đang nói thao thao, anh ta đột nhiên ngừng lại ngắm cô một hồi
rồi hỏi:
“Xin hỏi, hiện nay cô sống ở đâu? Tình hình cuộc sống hiện nay của cô thế nào?
Khoan hãy nói, để tôi đoán nhé, chắc chắn cô không ở khách sạn, bởi trên người
cô không có mùi xạ hương đặc trưng của khách sạn, có lẽ cô ở trong một biệt thự
khá xa hoa, nước hoa trên người cô là số 19, nước hoa này một khi kết hợp với
mùi xạ hương của khách sạn tuyệt đối không còn cái mùi thuần khiết như bây
giờ… Còn về tình hình cuộc sống của cô, có lẽ tương đối gay go, nếu cô không
vừa thất tình thì cũng là cãi nhau với bạn trai, bởi vì tôi nhìn thấy vẻ bi
thương tuyệt vọng trong mắt cô. Tiết lộ với cô, biện pháp chữa trị thất tình
tốt nhất là ngủ, bởi vì con người ta chỉ có lúc ngủ mới có thể bộc lộ cái tôi
chân thực nhất, bất luận cô có lỗi lầm hay hận thù gì, chỉ cần ngủ thật nhiều
là tất cả đều biến mất.”
Anh ta chưa nói hết Mao Lệ đã đứng lên bỏ đi.
Trương Phàn gào sau lưng: “Đó là thái độ của cô đối với một tác giả ưu tú hay
sao? Ngay sự tôn trọng tối thiểu cũng không có, cô không chuyên nghiệp, không
đạo đức, không tôn nghiêm, ngoài một khuôn mặt thiên sứ phi nhân loại, cô chẳng
có gì hết!”
Mao Lệ chạy thục mạng, chui vào xe định chuồn thật nhanh, lại gặp rắc rối, xe
chết máy, đạp thế nào cũng không nổ, cuối cùng đành gọi xe cứu hộ đến kéo đi.
Tiểu thư Mao Lệ đáng thương một mình đứng trong gió trên đường, bởi đúng vào
cuối tuần, dòng xe như mắc cửi, muốn đón tắc xi cũng khó. Mao Lệ gọi điện cho
Mao Tấn mắng té tát một trận, rằng anh ngày càng tồi tệ, lúc đầu đi BMV bây giờ
phải cưỡi con Passat ghẻ
này, may là trong điện thoại, chứ nếu gặp mặt, chắc chắn ông anh đã bị đấm đá một trận như đấm bao cát, bởi lòng cô
đang đầy ấm ức, cần chỗ xả!
Mao Lệ vẫn còn để bụng chuyện anh trai cô và Triệu Thành Tuấn là bạn cùng
trường Cambridge. Trước đó cô không hề biết, đến khi xuống máy bay ở
Thượng Hải, Mao Tấn sau khi ôm cô, lại vui vẻ chào hỏi chuyện trò với Triệu
Thành Tuấn, Mao Lệ mới biết họ không chỉ là bạn cùng trường, mà còn khá thân.
Lúc đó do đông người, cô không tỏ thái độ, trở về nhà cô lập tức không khách
khí, một chưởng vừa tung đã ép Mao Tấn ngã ngồi trên đi văng: “Nói mau! Hai
người quen nhau thế nào? Sao kín như bưng vậy, có phải hai người hùa nhau tìm
cách lừa em đến đây?”
Mao Tari van
xin rối rít: “Tiểu muội à, anh lừa gì chứ! Anh và Brant mặc dù có quen biết,
nhưng đã lâu không gặp, bình thường cũng ít liên lạc, làm sao anh biết cậu ta
quen em? Chính anh đang muốn hỏi, sao em quen cậu ta?”
Ở sân bay Mao Tấn nhìn thấy Mao Lệ và Triệu Thành Tuấn đi cùng nhau đã rất ngạc
nhiên, còn chưa kịp hỏi cô em, vừa vào nhà đã bị cô hỏi tội. Cô em của anh quả
thật trái tính, được chiều từ nhỏ, tính khí rất đáng sợ, hồi trung học trong
khi các bạn gái đi học đàn, học vẽ, học khiêu vũ, cô lại nhất định đòi tập Teakwondo, cha
cũng chiều. Dạo ấy Mao Tấn lo lắng cho sự an nguy của bản thân, kiên quyết phản
đối, kết quả con bé nói: “Em học Teakwondolà
để đối phó với anh, thay trời hành đạo!”
Quả nhiên, mặc dù cô chỉ học Teakwondo mấy tháng nhưng đã thừa sức không chế Mao Tấn, mỗi lần
anh em cãi nhau, Mao Lệ lại “thay trời hành đạo”. Mao Tấn từng thử giao đấu với cô em, kết quả anh đâu phải là đối thủ của cô.
Lần nào anh cũng bị “chỉnh đốn” đến thâm tím mặt mũi, cái gạt tàn Mao Lệ ném
năm đó giờ vẫn để lại vết sẹo trên đầu anh. Mao Tấn nghiến răng bất lực, đánh
không đánh được, đành than thở với cha: “Cha đã sinh ra con, sao lại sinh ra
nó!”
Mao Tấn không biết kiếp trước mình đã làm chuyện gì xấu, kiếp
này gặp khắc tinh như vậy, lúc ngoan ngoãn rất tốt, lúc tức lên lại coi anh như
bao cát thoải mái luyện tập. Bây giờ cô đã lớn như vậy, tính khí vẫn không đổi,
chỉ vì chuyện cỏn con mà vừa gặp đã trị tội anh, không hề để ý bên cạnh còn có
“ngoại nhân”: “ngoại nhân” này không phải ai khác chính là cô bạn gái Nghiêm
Bình Binh, Mao Tấn mới quen. Mao Tấn cảm thấy không thắng được cô em, đành giơ
tay hàng: “Anh không biết Brant đến Trung Quốc, lâu rồi không liên lạc.”
Mao Lệ hùng hổ: “Vậy sao trước nay em không biết anh có người bạn đó?”
“Thực ra hai người đã gặp nhau, anh nói là mấy năm trước.” Mao Tấn ra hiệu cho
bạn gái lánh đi, kéo cô em ngồi xuống đi văng, vén mớ tóc trước trán: “Em xem,
đây là vết sẹo trên trán anh, còn nhớ không? Lần đó em xông đến đấm đá anh túi
bụi, còn vớ gạt tàn ném vỡ đầu anh, lúc đó Chương Kiến Phi kéo em đi, nhưng còn
một người cũng có mặt ở đó, chính cậu ta đưa anh vào viện, cậu ta là Brant, bọn
anh quen nhau hồi ở trường Cambridge.”
Mao Lệ lặng thinh, trợn mắt nhìn anh.
“Mấy năm đó… bọn anh chơi khá thân, về sau… về sau khi em và Kiến Phi…
chia tay, bọn anh cũng ít liên lạc, nửa năm trước Brant mới gọi điện cho anh, nói là định đến Trung Quốc đầu
tư, anh tưởng cậu ta đến Thượng Hải, không ngờ cậu ta lựa chọn Nam Ninh. Lúc đó
anh đã nói đùa, Nam Ninh là lãnh địa của em gái tôi, em tôi là nhân vật tầm cỡ
ở đó, nếu cậu không may gặp phải, tốt nhất đừng trêu chọc nó, nên tránh xa một
chút…”
Mao Lệ cụp mắt, mặc dù cúi xuống nhưng hàng mi dài vẫn rung rung, sắc mặt cô
rất xấu, có lẽ là do chuyến bay dài, mí mắt hơi xanh, vừa rồi còn bừng bừng khí
thế, phút chốc đã lặng tĩnh như nước. Cô ngẩng nhìn Mao Tấn, khẽ nói: “Sau này
anh đừng nhắc đến cái tên đó, em đã quên anh ta rồi!” Nói xong cô đứng dậy lên
tầng.
Đi đến chân cầu thang, cô lại ngoái đầu dặn lần nữa: “Nhớ đấy, một chữ cũng
không được nhắc đến, nếu không, nhắc một lần em đánh một lần, quyết không nưong
tay!” Sau một cái xoay người tao nhã, Mao Lệ tiểu thư ngẩng cao đầu đi lên
phòng riêng trên tầng, vừa lúc nhìn thấy Nghiêm Bình Bình bê đĩa hoa quả từ
trong bếp ra, cô nói luôn: “Mang hành lý của tôi lên đây, trước bữa cơm không
được quấy rầy.”
Khẩu khí đó giống như sai người giúp việc. Nghiêm Bình Bình khác với những bạn
gái trước của Mao Tấn đều là những mỹ nhân thời thượng ở thành phố, cô sinh
trưởng ở vùng núi nghèo, là sinh viên sư phạm, dịu dàng, đôn hậu, hơi nhút nhát,
mặc dù trước đó đã được Mao Tấn cảnh báo cô em này rất đáo để, nhưng gặp mặt,
nhìn Mao Lệ chấn chỉnh Mao Tấn, cô vẫn sợ đến ngộp thở. Mao Tấn nhún vai bảo cô: “Nó thế đấy, không có việc gì em đừng
động đến nó.”
Nghiêm Bình Bình ngoan ngoãn “vâng” một tiếng, mang hành lý của Mao Lệ lên
tầng.
Còn về chuyện Mao Tấn sa sút đến nỗi phải đi con xe Passat, thực
ra cũng không trách anh. Trước đây, thay bạn gái, thay xe hơi đời mới là đam mê
không mệt mỏi của công tử Mao Tấn, nhưng bây giờ tình hình đã khác. Từ khi Mao
Tấn mắc một sai sót trong công việc khiến công ty chịu tổn thất lớn, hội đồng
quản trị hạn chế quyền lực tài chính của anh, cho dù cha anh là chủ tịch hội
đồng quản trị cũng không giúp được gì. Bởi vì công ty không chỉ của một mình
Mao Diễn Bình, các thành viên khác của gia tộc cũng có cổ phần. Để Mao Tấn rút
ra bài học, cha anh không chỉ “tịch thu” chiếc xe đua của anh, còn quy định
nghiêm ngặt mức chi tiêu, điều này đối với thiếu gia Mao Tấn quen tiêu tiền như
nước, quả thật giống như từ công từ biến thành kẻ ăn mày. Mà người ta một khi
sa cơ, những bè bạn chí cốt hay người đẹp, nhân tình đều tránh xa, Mao Tấn lúc
này mới thực sự nếm trải thế thái nhân tình, phong độ phóng túng ngày xưa dường
như biến mất, suốt ngày thở ngắn than dài. Điều an ủi duy nhất là, coi như anh
đã gặp được cô bạn gái Nghiêm Bình Bình tốt nết. Trong hoạn nạn mới biết lòng
người, Nghiêm Bình Bình xuất thân nhà nghèo chưa bao giờ tiêu hoang một đồng,
lại còn chăm học chăm làm, tiền làm thêm, ngoài chi phí ăn học cho bản thân, còn
cung cấp cả cho Mao Tấn, một trăm,
hai trăm đều là tiền cô vất vả làm gia sư kiếm được.
Khỏi nói Mao Tấn, ngay Mao Lệ cũng rất cảm động, thầm nghĩ, đây có lẽ là chuyện
tốt đối với Mao Tấn quen ném tiền qua
cửa sổ. Không biết gian khổ, không biết tình đời ấm lạnh, sớm muộn cũng gây tai
họa, tình trạng “bi thảm” hiện nay ít nhất cũng giúp anh biết cách trân trọng,
cũng khiến anh biết cách tự lập thực sự.
Mao Lệ gọi xong điện thoại cho anh trai, một mình lang thang trên phố, đến tối
cũng không muốn về nhà. Bụng hơi đói, vừa may nhìn thấy nhà hàng KFCgần đó, đang định vào nhồi no bụng rồi lại lang
thang tiếp, bất chợt giọng hát vui nhộn từ điện thoại vang lên làm cô giật
mình. Rút di động, cô nhìn chăm chăm vào hàng chữ trên màn hình: Triệu Thành
Tuấn!
Vẫn là giọng trầm ầm dễ nghe: “Cô đang ở đâu?”
“À, đang ở nhà hàng KFC.” Mao
Lệ không hiểu sao hơi căng thẳng. Người này đến tên cô cũng giản lược, dường
như họ đã rất quen thuộc.
“KFC?” Giọng Triệu Thành Tuấn trong điện thoại lạnh lùng khác
thường, nhưng quả thực rất dễ nghe: “Cô thích ăn đồ của trẻ con à, lớn thế rồi.
À, tối nay có rỗi không?”
Mao Lệ lúc này tâm trạng đột nhiên có chuyển biến tốt.
Từ lúc chia tay ở sân bay đã hai ngày rồi, đây là lần đầu cô nhận được điện
thoại của anh ta. Đương nhiên cô cũng không gọi cho anh ta, thậm chí không nghĩ
đến con người đó, là cố ý không nghĩ, hay là vì nguyên nhân nào khác, cô cũng
không biết. Điều kỳ lạ là, rõ ràng cô không nghĩ đến người đó, bận suốt ngày,
cũng không có thời gian để nghĩ, luôn cảm thấy trong lòng có gì xáo trộn, nhưng
không thể nói rõ được.
Lúc này cô đứng tựa vào cột điện trước cửa nhà hàng KFC, tâm
trạng đang tốt, nói năng cũng trở lại thói quen hài hước: “Tôi rất muốn ăn tối
với anh, nhưng có lẽ không đi được, xe bị chết máy, lúc này lại không bắt được
tắc xi.”
Triệu Thành Tuấn hình như thở phào, cười: “Vậy tôi đến đón cô.”
Sau khi Mao Lệ và Triệu Thành Tuấn đến Thượng Hải, chia tay ở sân bay, ai đi
đường nấy, hai ngày không liên lạc. Anh không gọi đến, cô đương nhiên cũng
không gọi đi, hai người lúc trên máy bay cũng không nói gì. Mao Lệ nhắm mắt
tĩnh dưỡng, mặc kệ anh. Triệu Thành Tuấn vô cùng nhạy cảm, chỉ cần cô hơi không
vui là anh lập tức phát giác ra, Mao Lệ không nói gì, anh cũng lặng yên, sau
khi xuống sân bay cáo từ là mất liên lạc với cô. Điều này khiến Mao Lệ cảm thấy
phật ý, những người đàn ông từng tiếp xúc với cô không ai không vồn vã săn đón,
coi cô là trăng là sao, trước nay chỉ có cô bỏ mặc người ta, chưa từng có ai bỏ
mặc cô như thế.
Có lẽ là do suy nghĩ của cô vẫn quá đơn thuần, mặc dù tự nhận gặp đủ hạng
người, từng yêu, từng kết hôn, nhưng đối với đàn ông dường như cô vẫn chưa thật
hiểu, mối quan hệ giữa đàn ông và đàn bà hết sức tinh tế, có người gọi đó là
nghệ thuật nấu ăn, nắm chắc mức lửa thích hợp là tối quan trọng. Mao Lệ rõ ràng
không nắm được đạo lý đó, theo cách nói thịnh hành là, chỉ số EQ của cô chưa
đủ, huống hồ trước nay cô không phải là người giỏi đoán tâm tư người khác, cô
không nhẫn nại như vậy.
Mao Lệ không biết, khi cô một mình lang thang trên phố, Triệu Thành Tuấn đang
ngồi đọc báo uống cà phê tại một căn phòng sang trọng ở đường Kim Mậu, vừa kết
thúc đàm phán thương mại, tâm trạng anh rất tốt. Khác với Mao Lệ, anh là người
kiên nhẫn, nắm rất vững nghệ thuật giữ lửa, không vội vàng, tiến thoái có trình
tự luôn là phong cách cá nhân của anh. Anh xem đồng hồ đeo tay, nhìn ngày tháng
trên đó, đã hai ngày, có lẽ được rồi. Anh nhìn về phía thư ký A Mạc đang chuyển fax tài
liệu, thong thả nhấc ly cà phê, ánh nắng chiều chiếu vào mặt anh càng làm tôn
lên đôi mắt sâu đen thẫm và những đường nét nhìn nghiêng như tạc, một nụ cười
thoáng hiện trên khóe miệng: “Ở Jean
Georges có lẽ vẫn còn chỗ?”
Nhà hàng Pháp Jean Georges tầng
số ba bãi ngoài Thượng Hải nghe nói là nhà hàng duy nhất mang tên Jean Georges Vongerichten,
một trong những vua đầu bếp nổi tiếng nhất thế giới, ngoài một nhà hàng ở New York.
Nhưng Triệu Thành Tuấn không nói với Mao Lệ, anh đưa cô đến thẳng bãi ngoài, là
nơi lãng mạn nhất Thượng Hải. Đi qua những rặng ngô đồng xanh tốt, đập vào mắt
là các quần thể kiến trúc muốn hình của bãi ngoài có lịch sử trăm năm, trên bờ
sông Hoàng Phố đèn màu sáng rực, gió nhẹ mang theo hơi ẩm thoảng qua, trong một
thoáng khiến người ta bàng hoàng như đang ở Parislãng mạn.
Mao Lệ đã quên không biết bao lâu mình không đến bãi ngoài. Trong những kiến
trúc châu Âu lộng lẫy ánh đèn, tầng dưới cùng đều trở thành cửa hiệu chuyên bán
sản phẩm của những nhãn mác nổi tiếng. Qua lớp cửa kính, bên trong là những
chùm đèn pha lê lộng lẫy, phong cách trang trí cầu kỳ hoặc đơn giản, cổ điển
hoặc hiện đại, nhưng tuyệt đối không thua kém những cửa hiệu của Paris tráng
lệ.
Đi vào nhà hàng, Triệu Thành Tuấn đưa Mao Lệ đến chiếc bàn gần cửa sổ, cửa số
rất rộng, từ đây có thể bao quát toàn cảnh bãi ngoài Thượng Hải. Nhà hàng được
trang trí bằng gam màu đỏ sậm như rượu vang, không khí yên tĩnh, riêng tư,
những đôi tình nhân ghé đầu thầm thì, nhân viên phục vụ vận đồ đen lịch sự, nhẹ
nhàng đi lại.
Triệu Thành Tuấn tỏ ra rất sành chọn món, Mao Lệ đoán là anh thường đến đây. Đồ
ăn rất thịnh soạn, nhưng món khai vị ở đây không nhiều như bên Pháp, chủ yếu để
trong ly thủy tinh rất nghệ thuật hoặc bày từng miếng nhỏ gọn trong lòng đĩa.
Mao Lệ nếm thử món gan ngỗng chiên, vừa tan trong miệng, quả nhiên là ngon
tuyệt.
“Thế nào, cũng được chứ?” Triệu Thành Tuấn mỉm cười hỏi.
Mao Lệ gật đầu: “Anh chọn món rất sành, rất hợp khẩu vị của tôi.” Triệu Thành
Tuấn im lặng không nói, thầm nghĩ không phải tôi sành chọn, mà là tôi biết cô
thích món gì, từng li từng tí sở thích của cô tôi đều thuộc lòng.
“Sao lại nhìn tôi như thế?” Mao Lệ cảm thấy ánh mắt Triệu Thành Tuấn hơi khác.
Triệu Thành Tuấn tế nhị mỉm cười: “Tối nay cô rất đẹp.”
Mao Lệ cúi nhìn trang phục của mình, biết anh lại tán bừa, chỉ là một chiếc áo
lông cừu màu đen, trên cổ có gắn mấy hạt trân châu, vẫn là mốt của ba bốn năm
trước. Mấy năm vừa rồi cô chẳng buồn sắm thêm.
Nhưng Mao Lệ không biết, cho dù cô mặc trang phục lỗi mốt vẫn đẹp mê hồn, ánh
đèn hồng dịu càng làm tôn khuôn mặt đẹp, sáng rỡ như bạch ngọc, má phớt hồng
tựa trái thủy đào vừa độ chín, một vẻ non tơ căng mọng khiến người ta muốn cắn.
“Anh cũng rất điển trai, không thấy các kiều nữ xung quanh đang nhìn anh sao?”
Mao Lệ đáp lễ cũng khen Triệu Thành Tuấn. Nhưng cô không hề nói nịnh, Triệu
Thành Tuấn toàn thân Âu phục màu tro nhạt, giữa cảnh trí sang trọng mà trang
nhã trông anh càng nổi bật một khí chất khác thường. Anh rất biết ăn mặc, bộ Âu
phục xám phối với sơ mi màu hồng nhạt nổi những đường vân, không thắt cà vạt,
rất ít đàn ông mặc sơ mi hồng mà vẫn cuốn hút, tao nhã, sang trọng như vậy. Mao
Lệ không thể không thán phục, rõ ràng anh lựa chọn chiếc sơ mi đó rất phù hợp
với cảnh trí lãng mạn xung quanh, cô bỗng bối rối. Bởi vì cô đến chỗ hẹn với bộ
dạng không mấy chỉn chu, trang phục lỗi mốt, tóc lại hơi rối, chẳng trách Trương
Phan trách cô không tôn trọng người khác.
Vừa nghĩ đến Trương Phan, Mao Lệ bất giác cau mày, Triệu Thành Tuấn hỏi cô có
phải khó chịu trong người. Cô mới kể cuộc gặp Trương phan buổi chiều không.
“Đúng là một gã điên nặng!” Mao Lệ vừa cắt bít tết bò vừa nói: “Nếu gã không
điên, thì có lẽ là tôi điên đi trêu chọc gã khùng đó!”
Triệu Thành Tuấn nói: “Có gì lạ đầu, thế gian thiếu gì kiểu người.”
Anh chỉ nói vậy, cơ hồ không có hứng thú tiếp tục chủ đề đó, nâng ly rượu:
“Nào, tôi chúc cô một ly.” Mao Lệ cũng nhận thấy tôi nay thái độ anh có gì rất
khác, cả cô cũng thế, dường như tâm trạng đều bất ổn, không biết nói gì, hoặc
nói xong một câu không biết nói gì tiếp theo, cơ hồ đều lúng túng.
Hai người vừa chạm ly, bầu không khí lại trờ nên gượng gạo, mỗi người lại lặng
lẽ ăn, cả hai như đều khó nói.
Cuối cùng vẫn là Triệu Thành Tuấn phá vỡ bầu không khí trì trệ đó, anh nhìn Mao
Lệ, đột nhiên nói: “Xin lỗi.”
Mao Lệ ngạc nhiên, càng bối rối: “Sao lại xin lỗi, anh có làm gì sai đâu.”
“Rất xin lỗi… buổi sáng hôm đó thực ra…”
“Anh đừng nói gì, tôi biết hết!” Mao Lệ ngắt lời, giọng bình tĩnh, mắt dần dần
thấm buồn: “Anh ấy đã đến Bắc Hải, buổi tối hôm đó anh ấy cũng có mặt ở Hải
Thiên Uyển, nhưng tôi say không biết… Anh không cần tự trách mình, anh không
nói với tôi chuyện đó, chẳng qua không muốn để tôi buồn, anh ấy như vậy, gặp
anh ấy tôi sẽ càng buồn… Có điều cũng không sao, tôi đã quyết định quên anh
ấy, nên quên thật nhanh, đã đến đây cũng không chịu gặp tôi, tôi còn gì để lưu
luyến!”
Triệu Thành Tuấn đăm đăm nhìn cô không biểu hiện gì, lòng quá đỗi ngạc nhiên,
điều này quả thật bất ngờ, anh không nói nữa, cô đã nói thẳng thay anh, hơn nữa
dẫn anh đến một hướng ngoài dự đoán. Hoàn toàn không cần anh giải thích, anh
cảm thấy mọi đắn đo của mình đều thừa, cả Thượng đế cũng đứng về phía anh, anh
không có lý do lùi lại.
Giọng anh đột nhiên nhẹ nhõm: “Cô nghĩ được như vậy, tôi rất vui, cô còn rất
trẻ, tương lai còn dài, quên quá khứ chính là bước vào một khởi đầu mới.”
Mao Lệ gật đầu lia lịa: “Phải, con người ta luôn phải trải qua những sự việc
nào đó, chìm mãi trong quá khứ thật vô vị. Tôi nghĩ thông rồi, từ nay tôi sẽ
sống tốt, vui vẻ làm việc, yêu đương, kết hôn, sinh con như mọi người bình
thường, và đi du lịch nữa, tôi phải đi du lịch…”
Nói như vậy, nhưng trong mắt cô mờ ánh nước, dưới ánh đèn, ẩn hiện như chấm
sao. Triệu Thành Tuấn giơ tay chạm vào má cô, chỉ lướt nhẹ, thực ra trên đó
không có nước mắt, chỉ là anh muốn… muốn chạm vào cô, cảm nhận sự tồn tại của
cô, để chắc chắn rằng tất cả trước mắt là thật dù hơi đường đột, anh thực sự
đang ở gần cô đến thế sao?
Trong bao nhiêu ngày đêm, khuôn mặt đó hiện lên trong tâm trí anh, một khuôn
mặt trinh nguyên không son phấn, lúc này cô đang ở trước mặt anh, quá gần với
giấc mơ, khiến người anh run lên trong nỗi xúc động không thể kìm nén.
Anh ân cần ấp tay lên tay cô, không nói gì, chỉ nhìn cô rất lâu.
“Tôi… tôi sẽ quên anh ấy, nhất định sẽ quên anh ấy…” Cô lặp lại câu đó,
không thể chịu đựng được sự thảm hại của mình trong mắt anh, nước mắt kiềm chế
quá lâu cuối cùng trào ra, lăn dài xuống má. Cô khe khẽ khóc, miệng lắp bắp
những câu bản thân cô cũng không hiểu. Anh thở dài, đứng lên bước đến ngồi cạnh
cô, kéo cô vào lòng, nhìn cô buồn như vậy, lòng anh se thắt, xót xa, tự trách
mình không sớm đến bên cô. Nếu ngày xưa anh đủ can đảm có phải trong ký ức của
cô sẽ có anh, nếu ngày xưa anh đủ kiên trì, liệu có phải không dẫn tới kết cục
này? Nghĩ đến đó, nỗi chua xót se sẽ nhen trong lòng anh, chạm vào sợi dây nào
đó trong tim anh, anh vỗ nhẹ vai cô như dỗ trẻ nhỏ: “Đừng khóc, tôi
không muốn nhìn thấy em khóc nữa.”
Nụ hôn đầu cảm giác thế nào? Mao Lệ từng đọc thấy trong một tiểu thuyết mô tả
như sau: “Tôi chỉ cảm thấy tôi đang bay lên, đầu ong ong u u, không dám động
đậy, chỉ sợ động đậy là sẽ từ trên không rơi xuống. Chỉ muốn để anh ôm chặt
hơn, hôn sâu hơn, cũng không biết tim tôi hay tim anh đang đập, chúng tôi đều
không thế nào kiềm chế, đất trời chao đảo, mỗi lúc tôi càng chìm sâu, ngạt thở
không thể dứt khỏi môi anh…”
Lúc đó cô cho là tác giả phóng đại, làm gì có chuyện khi hôn cảm thấy như bay
lên, người ta hôn nhau đâu có phức tạp như thế. Nhưng Bạch Hiền Đức đọc bản
thảo lại nói, mô tả rất chân thực, còn nghi ngờ Mao Lệ: “Cô đã từng yêu, lại
còn kết hôn nữa, vậy mà không biết nụ hôn có thể khiến người ta bay bổng?”
Mao Lệ cười ngặt nghẽo: “Ha ha, vậy ý chị là, khi hôn chị cũng từng bay bổng?”
Hai người câu chí nhau một hồi, bây giờ nghĩ lại, cô thấy mình thật ngốc, ngay
Bạch Hiền Đức cũng biết, còn cô được mệnh danh là sát thủ tình trường số một
lại chưa từng có trải nghiệm như vậy. Cho nên khi Triệu Thành Tuấn nhẹ nhàng
hôn môi cô, cô chỉ cảm thấy buồn, buồn sâu sắc, từng yêu, từng kết hôn, nhưng
lần đầu tiên cảm nhận thì ra nụ hôn có thể mang đến những rung động tuyệt vời
đến thế những gì cô trải qua trước đó chưa phải là hôn, chưa phải là yêu!
Chính bởi câu nói “Tôi không muốn nhìn thấy em khóc nữa” khiến Mao Lệ bật
khóc to hơn trong nhà hàng, nhiều ánh mắt xung quanh hướng vào cô, nhưng cô bất
chấp. Triệu Thành Tuấn ngồi bên ôm cô, không nói gì, như đang nhớ lại chuyện xa
xăm. Mao Lệ dần dần cảm thấy yên lòng bởi hơi ấm từ vòng tay anh. Khung cảnh
lãng mạn xung quanh, cảnh tượng huy hoàng của sống Hoàng Phố ngoài cửa sổ, đều
như chìm đi, giây phút này, cả thế giới chỉ còn lại anh và cô.
Lúc sau để tránh ánh mắt mọi người, Triệu Thành Tuấn đưa cô rời khỏi nhà hàng.
Chiếc xe dừng rất lâu dưới bóng cây trước cổng khu chung cư của Mao Lệ, hai
người đều yên lặng ngồi trong xe nhìn vầng trăng bên ngoài. Từ ô cửa rộng trên
trần xe, một quầng trắng phía xa treo trên cao, phản ra chùm ánh sáng trắng mờ
lạnh lẽo giống như chùm nước bạc, không biết nó đã tỏa xuống cuộc đời của bao
người, nhưng có lẽ đã chứng kiến quá nhiều bi hoan ly hợp, cho nên ánh sáng mới
lạnh lùng như thế.
Ngồi quá lâu, âu phục của anh hơi nhàu, dáng trầm tư, khuôn mặt tuấn lãm. Một
khuôn mặt nhìn nghiêng rất đẹp, đôi mắt sâu, tư lự nhìn về phía trước, dường
như có rất nhiều nỗi niềm giấu trong đáy mắt, rốt cuộc anh đang nghĩ gì? Mao Lệ
luôn cảm thấy anh là người đàn ông đầy tâm trạng, thỉnh thoảng nhìn vào mắt
anh, luôn bắt gặp nỗi buồn chứa chất. Lúc này nhìn khuôn mặt hơi gầy dưới ánh
trăng, lòng cô bất chợt nôn nao, là anh đang do dự hay cô đang do dự? Không
gian trong xe quá chật, hơi thở ấm áp lẩn quất, lan rộng dần, khiến cả hai đều
căng thẳng. Khi anh đột ngột ghé tới, Mao Lệ căng thẳng toàn thân cứng đờ,
nhưng không né tránh, như một bản năng, cô hơi khép mắt.
Nụ hôn nhẹ và mềm, như gió đêm lướt qua môi cô, đầu tiên là đau khổ, băn khoăn,
thăm dò, rồi dần dần trở nên nóng bỏng… Anh ép rất mạnh, cơ hồ cô không thể
thở, giống như đột nhiên rơi vào lò lửa nóng giãy, máu trong người sôi lên,
linh hồn thoát ra, cả người nhẹ bẫng như bay, cảm giác như vậy chính cô cũng
thấy ngỡ ngàng.
Rất lâu rất lâu, cuối cùng anh buông ra, hai người đều thở sâu.
Hơi thở của anh cũng dồn dập và loạn nhịp như cô. Cách lớp áo khoác trên người,
cách lần sơ mi mỏng, vẫn nghe thấy tiếng tim anh dồn dập. Rất lâu, rất lâu cả
hai không nói. Cuối cùng Mao Lệ bối rối mỉm cười, Triệu Thành Tuấn cũng cười:
“Đêm nay tôi sẽ mất ngủ.”
Trở về nhà Mao Lệ không tài nào ngủ được, nhảy nhót chỗ nọ chỗ kia như con khỉ,
lúc phủ phục trên giường, lúc ngồi lên bệ cửa sổ, sau lại ngâm mình trong bồn
tắm, vẫn không thể bình tĩnh trở lại. Cô thấy mình thật nực cười, đã là người
từng trải vậy mà lại giống như chưa từng gần gũi đàn ông… Quả thực Mao Lệ
không thể ngủ, đành gọi điện cho Bạch Hiền Đức, nhờ trời chị ta vẫn chưa ngủ,
sau khi than vãn một hồi nỗi “thống khổ” dưới “gông xiềng” sếp mới, lại thở dài
luyến tiếc những ngày tháng êm đềm dưới quyền sếp cũ. Chị nói, bây giờ các cô ở
ban biên tập nhìn thấy sếp Dung giống như nhìn thấy cha ruột, chào hỏi rất thân
thiết, cái duyên của sếp Dung có thể sánh với sếp Hứa trước đây… Rồi mũi giáo
của Bạch Hiền Đức đột ngột chuyển hướng: “Ôi chà, yêu tinh, em biết không, sếp
Dung ngày nào cũng gọi điện hỏi thăm tình hình của em ở Thượng Hải, đi sớm về
khuya một mình có vẻ rất nhớ em. Có lẽ sếp ngại không gọi cho em nên mới thông
qua chị.”
Mao Lệ nói: “Vậy thì chị nói với sếp, có lẽ em không về được, phải hy sinh oanh
liệt ở đây.” Bạch Hiền Đức nghe vậy lo lắng: “Tại sao? Không lẽ gã Trương Phan
đó ăn thịt em?”
“Ôi, chuyện dài lắm, chuyện dài lắm.” Mao Lệ đau khổ lắc đầu, không muốn nói.
Bạch Hiền Đức kêu ầm: “Yêu tinh đáng chết, nếu em không vể được, chị cầm dao
đến Thượng Hải chém chết gã!” Đột nhiên nhớ ra điều gì, Bạch Hiền Đức hỏi Mao
Lệ: “À, muộn thế này cô gọi điện có việc gì? Đừng nói là nhớ tôi đây, cái mồm
cô chi nịnh được đàn ông thôi, với tôi thì đừng hòng!”
Mao Lệ hỏi lại: “Vậy thử đoán xem, tại sao em gọi điện cho chị?” Bạch Hiền Đức
nói ngay không nghĩ ngợi: “Khỏi cần đoán, khiến cô muộn thế này vẫn còn thao
thức, chỉ có duy nhất một khả năng.”
“Khả năng gì?” Mao Lệ cười cười, không tin Bạch Hiền Đức đoán ra.
Kết quả Bạch Hiền Đức cười rất tinh quái trong điện thoại: “Có gian tình, đúng
không? Ha ha ha…”