Người Bảo Hộ (Someone To Watch Over Me)

Chương 21



Khu vực trọng yếu của tầng thứ ba là phòng tuần tra, những cây viết bị bỏ tràn lan trên những cái bàn kim loại và tủ đựng hồ sơ được sử dụng suốt ngày đêm bởi ba ca trực khác nhau của các thanh tra, bao gồm Shrader và Sam. Một nơi luôn bận rộn, và chiều thứ Bảy này là không ngoại lệ. Vài thanh tra đang viết bản báo cáo và gọi điện thoại, hai thanh tra chuyên về cướp bóc đang phỏng vấn một nhóm khách du lịch bực tức, những người đã chứng kiến vụ trấn lột, và một người phụ nữ với một đứa bé khóc lóc trên đùi của cô ta đang điền tờ đơn than phiền chồng cô ta.

Văn phòng cũ của Trung úy Unger là cuối tầng nhà, đối mặt với nơi tạm giam tù nhân trước khi ra tòa.

McCord không có ở trong văn phòng khi Sam và Shrader đến, nhưng đèn đang bật sáng và một sự biến đổi đã diễn ra trong đó công bố rõ ràng rằng văn phòng chắc chắn là ở dưới sự quản lý mới. Như bất kỳ không gian bỏ không nào trong toà nhà quá đông người, văn phòng cũ của Unger nhanh chóng thích hợp cho nhiều việc sử dụng trái phép, bao gồm một căngtin phụ, khu vực họp hành, tủ chứa đồ, và nơi gửi đồ cho những món đồ gỗ bị gãy. Tất cả đã đột ngột được thay đổi.

Không còn những hình ảnh của thị trưởng, thống đốc, và Cảnh sát trưởng mà Sam đã từng nhìn thấy được treo trên bức tường ở phía sau bàn, không còn những bản đồng, những trích dẫn, giấy chứng nhận, và một đống bằng khen đã chiếm phần còn lại của bức tường. Bản tin cũ ở phía bên tay trái của văn phòng đã biến mất cùng với những thông báo, những mẩu giấy trong báo cắt ra, và những quảng cáo ghim trên nó. Tấm bảng đen bụi bặm ở phía bên tay phải của căn phòng là món đồ duy nhất còn sót lại trên bất cứ bức tường nào, nhưng bây giờ nó đã được lau sạch sẽ. Một cái khay gỗ đã được kèm theo ngay dưới đáy của nó chứa đầy những đồ lau bảng bụi bậm và các mẩu nhỏ của phấn đã bị sử dụng, thay vào đó, có một cái hộp phấn mới và một đồ lau bảng mới được bố trí ngay giữa cái khay sạch sẽ.

Món đồ trang trí duy nhất trong phòng là một cái bàn kim loại đối mặt với ngưỡng cửa, một cái tủ thấp đằng sau nó, và hai cái ghế dành cho khách ở phía trước nó, cộng thêm một cái bàn hẹp với hai cái ghế chống lại bức tường bên trái. “Trông giống như McCord thích giữ mọi thứ ngăn nắp hơn Unger.” Shrader thì thầm khi họ ngồi vào cặp ghế ở phía trước bàn của McCord.

Sam nghĩ đó là lời nói hơi bớt đi. Món đồ kim loại đã không chỉ được lau sạch và thay đổi, nó đã được thực sự nằm ngay giữa phòng và sắp thẳng góc với các bức tường. Cái bàn giấy đằng sau bàn của McCord trống không, trừ hai màn hình máy tính, một cái là máy tính xách tay rõ ràng thuộc về anh ta, cái kia thuộc loại màn hình to lớn cồng kềnh thuộc về đơn vị. Máy tính xách tay đã được bố trí trực tiếp phía sau ghế của McCord, màn hình xanh đậm được thắp sáng bởi hai chữ trắng nhấp nháy: “Nhập mật khẩu.” Màn hình máy tính lớn hơn đã được chuyển sang phía trái và bị tắt. Bốn chồng hồ sơ dán nhãn gọn gàng đã được sắp xếp trên bàn làm việc của anh, một chồng ở mỗi góc, một nhãn màu ở mỗi chồng. Ngay trung tâm bàn, trực tiếp ở phía trước cái ghế xoay của anh, là một tập vở và một cây bút chì màu vàng mới toanh. Dưới tập vở màu vàng là hai hồ sơ, bị che đậy bởi tình cờ hay cố ý, nhãn hiệu trên chúng không nhìn được rõ ràng.

Sam sẽ không hoàn toàn thích thú với tất cả những công việc quản gia này nếu McCord đang cố gắng thiết lập một môi trường cá nhân cho anh ta, có thể làm cho anh ta vui vẻ hơn trong lúc điều tra có thể kéo dài vài tuần hoặc thậm chí vài tháng. Nhưng không có vẻ là trường hợp đó. Không có một tấm ảnh nào của một người vợ, bạn gái, hoặc một đứa trẻ, không có cốc cà phê cá nhân nào, cũng không có cái chặn giấy, hay bất kỳ vật lưu niệm nổi trội ở bất cứ nơi đâu. Ngay cả bảng tên mà mỗi người cảnh sát mang theo với anh ta và đặt lên bất cứ cái bàn nào của anh ta lúc này.

Mặc dù những câu chuyện mà cô vừa mới nghe về lòng can đảm và những thành tích chói lọi của McCord, Sam quyết định là người hùng của Shrader hoặc là một người khó tính, khó chìu hoặc loạn thần kinh. Cô đang nghiêng người để bảo Shrader việc đó khi cô nhìn thấy tên trên một trong những tập tin hồ sơ ló ra từ dưới bảng ghi và nhận biết McCord đã trưng dụng hồ sơ nhân sự của họ. “Shrader, Malcolm là tên của anh hả?”

“Bộ tôi nhìn như Malcolm hả?” anh trả đũa một cách bất bình, nhưng Sam biết sự phủ nhận bối rối khi cô nhìn thấy điều đó.

“Đó là một cái tên rất hay. Tại sao lại phủ nhận nó? Anh là Malcolm Shrader.”

“Trong trường hợp đó,” Mitchell McCord cắt ngang khi anh bước nhanh vào văn phòng, “cô phải là Samantha Littleton.”

Vì sốc, chứ không phải vì nghi thức ngoại giao, làm Sam đứng bật dậy bên cạnh Shrader để trao đổi cái bắt tay. “Và nếu tôi đã nói đúng cho đến giờ,” McCord thêm vào bằng giọng chua chát, “vậy thì tên tôi phải là McCord.” Một cách nhanh chóng, anh gật đầu cho họ ngồi xuống, rồi tự mình ngồi xuống, và với lấy điện thoại của anh. “Tôi phải làm một cuộc gọi nhanh, và sau đó chúng ta sẽ bắt đầu giải quyết ngay những chuyện quan trọng.”

Vui mừng là có được vài khoảnh khắc để hoàn hồn lại, Sam nhìn gò má bị sẹo của McCord và những tính năng thô kệch, và loại bỏ ngay ý nghĩ khó tính, nhưng cô không thể nghĩ ra anh thuộc loại người nào. Không có gì về anh có vẻ chính xác với ấn tượng chung mà anh đã tạo ra. Anh cao lớn và anh di chuyển nhanh nhẹn so với một người đàn ông khoẻ mạnh, nhưng anh ốm hơn anh lẽ ra phải nên. Anh ở tuổi bốn mươi lăm, nhưng tóc của anh đã bạc và đã được cắt theo phong cách gợi cho cô nhớ về George Clooney. Anh ăn mặc đẹp đẽ, đặc biệt là đối với một thanh tra, cái quần nâu của anh đã được ủi thẳng tắp, cái nịt da của anh màu nâu, và cái áo thun có cổ màu be của anh thật không chê vào đâu được – nhưng cái áo vest vải tuýt nâu anh đang mặc lớn hơn so với anh, đặc biệt là ở vai.

Những chuyện đó không quan trọng, dĩ nhiên, Sam biết cô không thể nói nhiều về một người đàn ông từ cách anh ta ăn mặc, nhưng khuôn mặt của anh là một vấn đề hoàn toàn khác, và một vài kiểu cách, rất khó hiểu. Da anh rám nắng, dấu hiệu là không chỉ có tiền, mà còn có khí chất, để sử dụng mấy tuần ở vùng nhiệt đới, nằm trên bờ biển dưới ánh mặt trời. Rõ ràng là anh có cả hai thứ đó, nhưng tuyệt đối không có gì hưởng thụ về khuôn mặt khắc nghiệt với vết sẹo dài hai inch dọc xuống má phải của anh, hay một vết sẹo lớn hơn chạy ngang qua chân mày ở trên nó. Ngoài những vết sẹo của anh, anh còn có những đường rãnh sâu ở hai bên miệng của anh, những vết nhăn trên trán của anh, và cái nhăn nhíu giữa cặp lông mày của anh.

Khuôn mặt của Mitchell McCord không trẻ trung hay đẹp trai. Thực ra, nó rất cách xa vẻ đẹp trai. Nhưng nó có rất nhiều tính cách và khắc sâu với những kinh nghiệm gian khổ đến nỗi nó – không thể nào nghi ngờ – là một khuôn mặt lôi cuốn nhất, thu hút nhất mà cô từng thấy trên một người đàn ông.

Khi suy nghĩ kế tiếp của cô là sự hối tiếc là cô đã không gội đầu và mặc cái gì đó đẹp hơn cái áo thun chui đầu và quần jean, Sam cau mày trong sự kinh tởm bất ngờ và tỉnh táo lại ngay.

McCord gác máy điện thoại một lát sau và nhắm những lời nhận xét của anh vào Shrader, không phải Sam, điều mà rất hợp lý so với cấp bậc và kinh nghiệm của Shrader. “Được, báo cáo cho tôi biết. Nói cho tôi biết mỗi phút, mỗi khám phá của mọi chuyện đã xảy ra cho đến nay.” Anh nhìn Sam. “Nếu anh ấy bỏ qua bất cứ thứ gì, lên tiếng ngay lập tức, đừng đợi, và đừng giữ lại bất cứ chi tiết nào, bất kể là nó nhỏ như thế nào đi nữa.”

Không nói thêm một lời nào, anh nhặt lên tập vở vàng và cây bút chì từ bàn làm việc của anh, xoay cái ghế của anh ngang lại, gác mắt cá của anh lên một đầu gối, và đặt quyển vở trên lòng anh. Anh bắt đầu ghi chú ngay khi Shrader bắt đầu nói.

Sam làm vài phần lưu ý trong đầu, nhưng chúng liên quan đến khuôn mặt của anh, ngôn ngữ cử chỉ của anh, và việc đôi giày màu nâu của anh đã được đánh bóng và bóng loáng. Sau đó, cô chú ý hoàn toàn vào đề tài đang được bàn đến và, trong quá trình, cô đã cố quên là McCord hấp dẫn một cách kỳ lạ như thế nào. Cô làm điều đó rất tốt khi anh nhìn sang một bên cô và bắn ra các câu hỏi đầu tiên của anh vào cô, cô trả lời anh một cách bình tĩnh và chính xác.

“Trong bệnh viện,” anh hỏi cô, “cô đã tin Leigh Manning khi bà ta nói là bà ta không biết Valente, rằng bà ta gặp anh ta lần đầu tiên tại bữa tiệc đêm trước ư?”

“Vâng.”

“Vào lúc đó, cô cũng đã tin sự quan tâm của bà ta dành cho chồng bà ta là chân thành?”

“Vâng.” Sam lại nói, và gật đầu để nhấn mạnh.

“Ngẫm lại, bây giờ khi cô biết là bà ta đang nói dối, cô có thể nghĩ về bất cứ điều gì nhỏ mà bà ta đã nói hoặc sẽ phản lại bà ta – nếu cô đã theo dõi về điều đó?”

“Không…”

Anh nhìn thấy sự ngần ngại của cô và nhắm vào nó. “‘Không’, cái gì?”

“Không,” Sam nói, và miễn cưỡng thêm vào, “và tôi không chắc là bà ta đã và đang nói dối về sự lo lắng về chồng bà ta. Đêm đầu tiên chúng tôi gặp bà ta ở bệnh viện, bà ta đã bị say thuốc và bà ta bối rối và mất phương hướng, nhưng bà ta muốn gặp chồng bà ta và bà ta có vẻ thực sự tin là ông ta có thể ở một nơi nào đó trong bệnh viện. Sáng hôm sau, khi bà ta không còn mất phương hướng, nhưng bà ta có vẻ phát điên lên, và bà ta cũng dường như đã cố kềm chế sự hoảng sợ của bà ta. Bà ta dường như đã không cố gắng làm một cuộc buổi biểu diễn điên cuồng cho chúng tôi, bà ta dường như đã làm chính xác điều ngược lại.”

“Thật sao?” anh nói, nhưng anh đang ra vẻ bề trên đối với cô, và cô biết điều đó.

Sau khi hỏi thêm nhiều câu hỏi nữa với Shrader, và không có một câu hỏi nào cho cô nữa, cuối cùng thì anh cũng kết thúc và đặt cuốn vở xuống. Anh mở khoá ngăn kéo ở bàn của anh và lấy ra một phong bì bằng chứng màu nâu đậm mà Harwell đã ký nhận ở miền núi và chuyển đến Đại úy Holland theo sự chỉ dẫn của Shrader. McCord lấy ra một bịch ny lông trong suốt chứa tờ giấy viết tay của Valente. Mỉm cười, anh lật nó bằng ngón tay của anh, và sau đó anh đọc to những điều viết trong đó: “‘Thật khó hơn là tôi có thể tưởng tượng trong việc giả vờ là chúng ta không biết nhau vào tối thứ Bảy’.”

Vẫn mỉm cười, anh nhìn Sam. “Cô đã cho là kẻ theo lén bà ta đã gửi giỏ lê, và đó là lý do tại sao cô lại săn lùng tin nhắn này, đúng không?”

“Đúng.”

“Tại sao những trái lê lại làm phiền cô?”

“Bởi vì Bà Manning đã đề cập là bà ta luôn ăn chúng cho bữa điểm tâm và chồng bà ta trêu chọc bà ta về nó. Giỏ trái lê là một món quà tỉ mỉ và đắt tiền, và tôi cho là bất cứ người nào đã gửi chúng phải có kiến thức về thói quen cá nhân của bà ta.”

“Cô có bao giờ nghĩ là chồng bà ta có thể là tự mình gửi chúng? Anh ta biến mất một cách bí mật, và đột ngột những trái lê xuất hiện không có tấm thiệp. Nó có thể đã từng là một sự trao đổi riêng giữa hai người. Cô có nghĩ vậy không?”

“Lúc đó thì không. Nếu tôi không tìm ra được lời nhắn từ Valente, tôi đã bắt đầu phân vân về việc nếu, và khi nào thì Logan Manning không sống sót xuất hiện.”

“Anh ta sẽ không sống sót xuất hiện. Valente sẽ chắc chắn về điều đó. Không may, là lời nhắn này đến với Leigh Manning không phải là một bằng chứng hiển nhiên của một âm mưu giết người. Anh ta sẽ phủ nhận là anh ta đã viết nó, chúng ta sẽ bắt đầu với các chuyên gia về chữ viết tay để chứng nhận là anh ta đã viết, sau đó luật sư của anh ta sẽ có các chuyên gia về chữ viết tay khác để bác bỏ các chuyên gia của chúng ta. Phân tích chữ viết tay không được đựơc nhìn nhận bởi hội đồng xét xử như một khoa học hợp pháp, và chuyên gia của chữ viết tay thường không có sức thuyết phục nhân chứng. Đối với tờ văn phòng phẩm này, luật sư của Valente sẽ biện luận rằng bất kỳ người với cái máy in hai trăm đô la có thể làm được nó – bao gồm vài kẻ thù của Valente muốn gán tội cho anh ta.”

Vui lòng là có cơ hội để đóng góp một thứ có giá trị vào cuộc thảo luận, Sam nói, “Tên của Valente không được in trên văn phòng phẩm, nó đã được khắc. Điều đó có nghĩa là một máy in chuyên nghiệp ở một nơi nào đó đã làm việc này.”

“Sao cô lại nói vậy?”

“Lật nó lại và nhẹ nhàng rà ngón tay của anh ở phía sau nó, có dấu ấn nhẹ ở phía sau mỗi chữ trên tên của anh ta.”

“Cô nói đúng, có ở đây.” Cô không thể nói nếu McCord có chút ấn tượng nào bởi thông tin này, điều là một kiến thức chung đối với những người phụ nữ mua thư mời hoặc văn phòng phẩm trong một cửa hàng lớn hay một cửa hàng văn phòng phẩm, nhưng cô không cảm thấy nhu cầu phải đề cập sự việc đó cho anh. Cô có cảm giác rõ ràng là anh hơi nước đôi về việc để cô vào nhóm của anh.

“Được rồi, chúng ta biết với một nỗ lực nhỏ là chúng ta có thể chứng minh là bà ta đang có một mối quan hệ với Valente, và chúng ta cũng biết tai nạn của bà ta xảy ra khi bà ta đang lái xe trở lại thành phố, không phải là đi lên núi.” Anh nhìn cô, và Sam bắt đầu ước gì anh đã không làm vậy, đặc biệt là khi anh hỏi câu hỏi tiếp theo. “Cô có ý kiến gì về cách vụ án đang định hình vào lúc này?”

Sam tự hỏi liệu anh có đang thử nghiệm cô bằng cách ném vào cô một câu hỏi như bẫy, vì ngay lúc này, không có vụ án nào cả. “Vụ án gì?” cô trả lời một cách cẩn thận.

“Căn cứ trên những gì cô đã nhìn thấy và nghe cho đến nay.” anh giải thích một cách sốt ruột, “Giả thuyết của cô là gì?”

“Tôi không có giả thuyết. Không có sự việc nào hỗ trợ cho bất cứ giả thuyết nào. Chúng ta biết là bà Manning và Valente quen biết nhau trước tuần trước và họ muốn giữ bí mật nó. Ngoài chuyện đó ra, tất cả chúng ta biết là bà Manning muốn đến ca bin càng nhanh càng tốt vào tuần trước, và bà ta sẵn sàng bị nhìn thấy ở chung với Valente để làm được điều đó. Chúng ta đang định truy tố họ cho tội thông dâm chăng? Bởi vì nếu chúng ta muốn làm vậy, chúng ta không thể làm với những gì chúng ta…”

Vẻ ngoài của McCord đối với cô làm Sam cảm thấy như thể cô đang thi trượt kiểm tra của anh – một kiểm tra mà anh đã hy vọng cô sẽ đậu – và cô dừng lại ở giữa câu, hoàn toàn lúng túng. Anh nhặt lên quyển vở của anh, xoay ghế của anh lại, và đặt quyển vở trong lòng anh. “Cô đang nói với tôi là cô đã không nhìn thấy hoặc nghe bất cứ thứ gì trong tuần trước làm cho cô nghi ngờ?”

“Tất nhiên là tôi nghi ngờ.”

“Vậy thì nói cho chúng tôi nghe ý kiến của cô.”

“Tôi không có một ý kiến đáng đưa ra.” Sam nói một cách ương ngạnh.

“Người Mỹ có ý kiến về mọi thứ đấy, Thanh tra.” anh nói một cách sốt ruột. “Bất kể là ý kiến đó có tồi tệ, thiên vị, hay để thỏa mãn bản thân như thế nào đi nữa, họ có một xung lực cưỡng bức để không chỉ chia sẻ nó, nhưng cố gây tranh cãi với nhau. Nó là một sự giải trí quốc gia. Nó là một ám ảnh quốc gia. Bây giờ,” anh nói cứng rắn, “cô là một thanh tra. Về bản chất, điều đó có nghĩa cô là một người quan sát và trực giác. Chứng minh nó cho tôi. Mang lại cho tôi vài nhận xét, nếu cô không thể nghĩ ra được ý kiến nào.”

“Về cái gì?”

“Về bất cứ thứ gì!Về tôi.”

Sáu anh trai của Sam đã sử dụng hầu hết cuộc đời của họ để cố gắng trêu tức cô, cô đã trở thành trơ như đá với sự trêu chọc cách đây đã lâu. Nhưng không hoàn toàn – không phải vào lúc này. Lúc này hệ thống phòng thủ của cô ở dưới một cuộc bao vây bất ngờ và chỉ có một chuyện cô có thể làm là phủ nhận anh cái mà một người đàn ông mong muốn được thoả mãn nhất vào lúc như thế này: thoả mãn vì biết cô đã bị chọc tức. Vì lý do đó, cô mở to mắt cô và mỉm cười nồng nhiệt với anh khi anh cáu kỉnh, “Nếu cô có chút nhận thức nào là tôi ở đây, Thanh tra, hãy nói cho chúng tôi nghe nhận xét của cô về tôi.”

“Vâng, thưa anh, dĩ nhiên. Anh cao khoảng sáu feet mốt, trọng lượng khoảng một trăm bảy mươi pao, tuổi thì khoảng bốn mươi lăm.”

Cô ngừng lại, hi vọng là anh sẽ rút lui, biết là anh sẽ không.

“Đó là chuyện tốt nhất mà cô có thể làm ư?” anh chế giễu.

“Không, thưa anh. Còn chưa hết. Anh có mỗi món đồ trang trí trong văn phòng này lau sạch, không phải chỉ phủi bụi, có nghĩa anh một là người khó tính khác thường hay chỉ giản dị là một người loạn thần kinh.”

“Hay nó có thể có nghĩa là tôi không thích có gián trong ngăn kéo bàn của tôi.”

“Anh đã không tìm thấy con gián nào trong ngăn kéo của anh. Căng tin thì ở phía bên kia của tầng này và nếu chúng ta sẽ có gián ở tầng thứ ba, đó là nơi của chúng. Nhưng chúng không có ở đó, có thể vì tầng này đã được xông khói không quá hai tuần trước đây. Tôi biết, vì tôi bị dị ứng với hoá chất.”

“Tiếp tục đi.”

“Anh không thể chịu được chuyện đồ đạc để lung tung, và anh bị ám ảnh bởi sự ngăn nắp. Đồ đạc ở đây được đặt chính xác trên những bức tường, những tập tin trên bàn làm việc của anh được sắp xếp trong góc chính xác. Nếu tôi phải đoán, tôi sẽ nói anh có lẽ là một người chuyên thống trị, và đó thường là triệu chứng của một người đàn ông cảm thấy bất lực kiểm soát cuộc sống riêng của anh ta, vì vậy anh ta cố gắng kiểm soát mọi khía cạnh của môi trường của anh ta. Tôi có nên dừng lại không?”

“Không, vui lòng tiếp tục đi.”

“Anh đang mang một đôi giày nâu, quần nâu, và dây nịt nâu. Khuôn mặt của anh được rám nắng, làm anh trông có vẻ khoẻ mạnh, nhưng anh sụt cân trầm trọng gần đây – có lẽ vì một căn bệnh bắt buộc anh phải lấy đủ thời kỳ nghỉ trong mùa đông để có được vẻ rám nắng.”

“Điều gì làm cho cô nghĩ là tôi đã bị giảm cân?”

“Vì áo khoác anh đang mặc quá lớn cho anh, nhất là ở vai.”

“Mà có thể có nghĩa là tôi đã ở lại ở nhà em gái của tôi đêm qua và mượn áo khoác này của em rể tôi khi tôi nhận biết là tôi phải đến đây hôm nay.”

“Anh sẽ không sử dụng quần áo của người khác, anh thậm chí không thích sử dụng văn phòng của người khác.” Cô ngừng lại và hỏi với vẻ thuyết phục hiền lành, “Nãy giờ tôi làm như thế nào?”

Anh nhìn xuống quyển vở của anh, và vết sẹo của anh sâu xuống đủ để đưa cho Sam một ấn tượng là anh có thể thật sự mỉm cười. “Không tệ lắm. Tiếp tục đi.”

“Thay vì đối mặt với mọi người ở bàn của anh, anh ngồi ngang ở ghế của anh. Điều đó có thể có nghĩa là anh ngượng ngập về những vết sẹo của anh, điều mà tôi nghi ngờ. Nó có thể có nghĩa là anh có vấn đề trong việc lắng nghe vì thế tốt hơn nhiều khi anh xoay cái tai tốt của anh đến bất cứ người nào đang nói chuyện, điều mà tôi cũng nghi ngờ. Có thể là anh ngồi cách đó vì anh cần sắp xếp lại vấn đề, hoặc vì nó làm cho anh có thể tập trung tốt hơn. Những người bị ADD (bị bệnh không tập trung) đôi khi làm vậy.”

“Và cô có ý kiến nào trong các giả thuyết đó về cách tôi ngồi có thể là đúng?”

“Không đáng để đưa ra.” Sam nói một cách ương ngạnh, nhưng với vẻ lo lắng vô tội.

“Dù sao thì cũng nói ra nghe thử.”

Tử tế, cô nghiêng đầu cô, nhường cho cấp bậc và quyền ra lệnh của anh. “Tôi nghĩ anh ngồi cách đó để anh có thể giữ quyển vở của anh khuất khỏi tầm nhìn nơi mà không ai có thể nhìn những gì anh đang viết. Tôi cũng nghĩ nó có thể đã từng là một sự cần thiết vì vài lý do nào đó trước đây, nhưng bây giờ anh làm nó theo thói quen hơn.”

“Vớ của tôi có màu gì?”

“Nâu.”

“Mắt của tôi có màu gì?”

“Tôi không biết.” Sam nói dối. “Tôi xin lỗi.” Anh có đôi mắt xanh thép, nhưng cô đã thắng cuộc đấu của anh rồi, trò chơi, xác lập, và thi đấu. Cô sẽ không để cho anh ghi điểm cho cái tôi của anh trong giờ đấu thêm!

Tuy nhiên, sự tự tin của cô bắt đầu hơi phai tàn khi cô chờ anh viết cái gì đó trên quyển sổ vàng chết tiệt của anh – đánh giá về nhận xét của cô, thẩm định cô, cho điểm cô. Cô biết theo bản năng anh có ý định làm chính xác điều đó, cô biết nó chắc chắn như cô biết là sau khi anh viết ra đánh giá của anh và quyết định về việc cho cô vào đội, anh sẽ xé tờ giấy vàng ra khỏi tập vở của anh và đưa nó vào tập hồ sơ gần khuỷu tay của anh có tên cô trên đó. Những gì cô không thể hình dung được là tại sao anh vẫn còn ngồi ở đó, viết chì trong tay, mất nhiều thời gian như thế để quyết định.

Cô nhìn chằm chằm vào vẻ mặt nhìn nghiêng bí hiểm của anh, sẵn sàng để cho anh ghi cái gì đó. Cô đang theo dõi anh rất kỹ cô thực sự nhìn thấy các cơ ở góc miệng của anh di chuyển trước khi sự di chuyển trở thành một sự ám chỉ của một nụ cười thực sự, và cuối cùng thì anh cũng bắt đầu ghi vắn tắt phần lưu ý trên quyển vở của anh.

Cô đã đủ tiêu chuẩn để ở lại đội! Cô biết điều đó từ vẻ mặt của anh. Bây giờ cô muốn hơn bất cứ thứ gì cô biết là anh đang viết gì.

“Tò mò ư?” anh hỏi mà không nhìn lên.

“Dĩ nhiên.”

“Cô có nghĩ là cô có thể xem những gì tôi đang viết về cô ở đây không?”

“Cũng cùng cơ hội tôi được trúng số.”

Nụ cười của anh sâu hơn. “Cô nói đúng.” Anh lật sang trang khác và viết vài phần lưu ý khác trên tờ giấy kế tiếp. Đột ngột anh xé cả hai tờ giấy ra và xoay ghế của anh về phía trước. Anh bỏ tờ giấy đầu tiên vào hồ sơ với tên của Sam trên đó, anh đút tờ thứ nhì vào ngăn kéo bàn trên cùng của anh.

“Được rồi, để bắt đầu,” anh đột ngột nói. “có bốn chồng hồ sơ trên bàn làm việc của tôi. Chồng với nhãn xanh trên hồ sơ chứa tất cả thông tin chúng ta có hiện giờ về Logan Manning. Chồng thứ nhì với nhãn xanh lá cây bao gồm mọi thứ về Leigh Manning. Chồng với nhãn vàng liên quan đến bạn bè và người quen biết của họ. Chồng với nhãn đỏ là phần nổi của tảng băng về Valente. Tôi sẽ có tất cả các hồ sơ của anh ta photo lại và gửi qua đây, nhưng mất một vài ngày. Vào tuần tới, cái bàn ở đằng kia sẽ được phủ các hồ sơ về anh ta.”

“Mỗi người trong chúng ta sẽ lấy một chồng, và chúng ta sẽ đọc mỗi tờ giấy trong từng hồ sơ. Tài liệu trong hồ sơ đều là bản sao, để các người có thể mang chúng về nhà với các người. Khi các người làm xong việc đọc qua tất cả các hồ sơ trong chồng của các người, bắt đầu đọc một chồng mới. Vào cuối tuần tới, tôi muốn tất cả chúng ta hoàn toàn biết rõ mọi tài liệu trong mỗi hồ sơ trong những chồng hồ sơ này. Ồ, còn một chuyện nữa – những chồng hồ sơ này chưa được hoàn chỉnh, chúng ta vẫn còn tìm kiếm những hồ sơ lưu trữ về mọi người ngoại trừ Valente. Chúng ta đã biết tất cả điều cần biết về anh ta. Có câu hỏi gì không?” anh hỏi, nhìn từ người này đến người khác.

“Tôi có một câu hỏi.” Sam nói khi cô đứng lên và với lấy một chồng hồ sơ về Logan Manning. “Có hai chữ viết nghiêng bên dưới tờ giấy nhắn tin của Valente, theo tôi giả định là tiếng Ý. Chúng không có ý nghĩa gì đối với Shrader hoặc tôi. Chúng tôi muốn kiểm tra chúng. Tôi có thể có được một bản sao của tờ nhắn tin không?”

“Không. Không ai được nhìn vào tờ nhắn tin đó hoặc gợi ý những gì nó đã viết trong đó cho đến khi chúng ta sẵn sàng trình nó ra. Lần cuối cùng Cảnh sát liên bang đeo đuổi Valente, có quá nhiều sự tiết lộ để cho luật sư của anh ta nộp đơn để ngăn chặn trong khi Cảnh sát liên bang vẫn còn cố hiểu những bằng chứng mà họ có và chúng có nghĩa là gì. Đừng bao giờ đánh giá thấp Valente,” McCord cảnh báo, “và đừng đánh giá thấp ảnh hưởng và sự kết nối của anh ta. Sự kết nối của anh ta lên đến tận những vai vế cao. Và,” anh nói một cách có ý nghĩa, “đó là lý do tại sao chúng ta đang giữ vụ án này ngay ở dưới đây, trong Phân khu 18 – đúng ở địa vị thấp nhất của công lý. Valente sẽ không tìm kiếm nó ở đây, và chúng ta đang hy vọng là anh ta sẽ không thể tiếp cận nó quá dễ dàng.”

Khi anh kết thúc, anh nhìn từ Shrader đến Sam. “Chuyện gì làm cho các người lo lắng vậy?”

“Thay vì tạo một bản sao của tờ nhắn tin, tôi có thể ghi lại hai từ không?”

Cúi người lên bàn của anh, anh ghi xuống hai từ trên tập vở vàng của anh, xé tờ giấy, và trao nó cho cô. “Chúng tôi đã kiểm tra chúng qua máy. ‘Falco’ xuất hiện như một bí danh mà anh ta từng sử dụng trước đây. Nó là một tên Ý phổ biến. Chúng ta vẫn còn kiểm tra từ kia xem có liên quan gì.” Anh nhìn Shrader. “Còn có bất kỳ câu hỏi hoặc lời bình luận nào không, Malcolm?”

“Có một.” Shrader nói, nhìn tuyệt đối bực tức. “Tôi sẽ rất biết ơn nếu anh sẽ không bao giờ gọi lại tôi như thế, Trung úy.”

“Tôi sẽ không.”

“Tôi ghét cái tên đó.”

“Mẹ của tôi thích nó. Đó là họ thời con gái của bà ấy.”

“Dù sao thì tôi cũng ghét nó.” Shrader công bố, nhặt chồng tập tin của anh lên.

Ngay khi họ đã ra ngoài cửa và ngoài tầm nghe, Shrader nhìn cô và lắc cái đầu bự của anh. “Cô có một cuộc sống thật may mắn đấy, Littleton. Vì thế xin Chúa cứu giúp tôi, khi cô đã bảo anh ta là một người chuyên thống trị mắc bệnh tâm thần với ép buộc tâm lý ngăn nắp, tôi bất giác toát mồ hôi lạnh.”

Sam cảm động là Shrader đã lo lắng nhiều về cô. Suy nghĩ kế tiếp của cô là cô lẽ ra phải cám ơn McCord đã để cho cô ở lại đội. Nhìn từ mọi khía cạnh, đây là một cơ hội hiếm có và cô là một người mới thật sự không nên có được cơ hội như thế này. Mặt khác, cô nhắc nhở mình, nếu cô không tìm ra được tờ nhắn tin của Valente, chắc sẽ không có ‘đội’ nào cả. Cô đổ chồng tập tin trên bàn làm việc của cô, nhờ Shrader trông chừng chúng một lát, và quay trở lại văn phòng của trung úy.

McCord đang ngả người trên ghế của anh, đọc một tập tin với nhãn đỏ, quyển vở ở khuỷu tay của anh, viết chì trong tay, sẵn sàng ghi chú. Anh thậm chí trông có vẻ khó khăn và lôi cuốn khi anh đọc. Cô lịch sự gõ trên khung cửa,và khi anh ngước lên, cô nói, “Tôi chỉ muốn cám ơn vì đã có đủ niềm tin vào tôi để cho tôi góp phần trong vụ án này.”

Anh nhìn cô, vẻ mặt của anh thích thú. “Đừng cảm ơn tôi, cảm ơn những con gián kìa.”

Sam do dự, giữ tia nhìn của anh, cố không cười. “Có con gián đặc biệt nào mà tôi nên cảm ơn không?”

McCord quay sự chú ý của anh lại tập tin hồ sơ và lật qua một trang. “Cái con mà tôi thấy ở trong ngăn kéo bàn của tôi đủ lớn để lái một chiếc Volvo. Anh em họ của nó sống ở căng tin đấy.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.