Ngày Mai (Demain)

Chương 18: Trung úy Lovenstein



A woman is like a teabag, you never know how strong she

is until she gets into hot water[1]

Eleanor ROOSEVELT

[1] Tiếng Anh trong nguyên bản: Một người phụ nữ giống như một túi trà, bạn sẽ không bao giờ biết cô ấy mạnh như thế nào cho tới khi cô ấy được nhúng vào nước nóng.

Boston, 2010

Với kiến trúc cánh quạt kép lấp lánh trong đêm, tòa nhà ốp kính của Viện Não và Trí nhớ giống như một phân tử ADN khổng lồ.

Những khung cửa ốp kính của toàn nhà mở ra trong một luồng gió thổi thốc. Emma tự tin tiến về phía quầy lễ tân.

– Trung úy Lovenstein, cảnh sát Boston, cô vừa nói vừa rút thẻ ngành ra.

– Tôi có thể giúp gì cho chị đây, trung úy?

Emma yêu cầu được nói chuyện với Joyce Wilkinson.

– Tôi sẽ báo cho giáo sư biết, cô nhân viên lễ tân trả lời, tay nhấc ống nghe điện thoại. Chị làm ơn đợi một lát nhé.

Hơi căng thẳng, Emma mở khóa áo rồi dạo vài bước trong đại sảnh có bốn phía tường màu sữa cho cảm giác như đang lang thang trong một phi thuyền không gian. Mỗi bên vách lại có những tấm pa nô phát sáng cho thấy lịch sử những năm gần đây của viện chuyên ngành nghiên cứu cơ quan bí ẩn và mê hoặc nhất của con người.

Bộ não con người…

Dự án của viện nghiên cứu não rất rõ ràng: tâp hợp một số nhà khoa học tài ba nhất hành tinh để đẩy xa hơn nữa hiểu biết về những căn bệnh của hệ thần kinh (Alzheimer, tâm thần phân liệt, bệnh Parkinson…).

– Trung úy, vui lòng đi theo tôi.

Emma đi theo nhân viên lễ tân.

Một chiếc thang máy yên ắng hình viên nang ốp kính đưa họ lên tận tầng trên cùng của tòa tháp. Cuối một hàng lang kính có một khoảng không gian hoàn toàn trong suốt: nơi làm việc của Joyce Wilkinson.

Nhà khoa học ngước mắt khỏi máy tính xách tay khi Emma bước qua cửa phòng làm việc.

– Mời trung úy vào đây. Rất hân hạnh, chị ta nói rồi chỉ tay vào chiếc ghế đối diện.

Như những bức ảnh đã giúp người ta đoán ra, Joyce Wilkinson là người gốc Ấn. Nước da mai mái và mái tóc đen nhánh cắt ngắn tương phản với đôi mắt nhạt màu và tươi cười đang lấp lánh đằng sau cặp kính mỏng với gọng kính trong mờ.

Emma giơ thẻ cảnh sát ra hết sức tự nhiên.

– Cảm ơn chị vì đã dành cho tôi vài phút trong quỹ thời gian quý giá, giáo sư ạ.

Joyce gật đầu. Bên dưới chiếc áo blouse phanh cúc, chị ta chỉ mặc một chiếc quần âu kaki và chiếc áo len sợi thô khiến chị ta trông gần như thơ trẻ, vẻ thơ trẻ của một đứa con trai bà mụ nặn nhầm. Gương mặt vuông vức và trẻ trung của chị ta dễ gây thiện cảm.

Trước khi ngồi xuống, Emma liếc nhanh một vòng quanh phòng. Bốn phía tường treo đầy màn hình phẳng trên đó giăng ra hàng chục mặt cắt của não người.

– Trông như tranh của Andy Warhol ấy nhỉ, cô nhận xét khi thấy những màu sắc rực rỡ của những kỳ hoạt động não khiến cho các bức hình “sống động”, gần như vui mắt.

Joyce giải thích:

– Đây là một nghiên cứu y khoa được thực hiện tại Nam Mỹ trên hàng nghìn người thuộc một dòng họ mở rộng mà các thành viên đều có khuynh hướng mắc bệnh Alzheimer di truyền.

– Và nghiên cứu này đưa tới những kết luận nào?

– Nghiên cứu chỉ ra rằng những dấu hiệu tiền báo của căn bệnh này xuất hiện trước những triệu chứng đầu tiên hai mươi năm.

Emma lại gần một trong những bức ảnh. Cô chợt nghĩ đến bố mình, đang mắc căn bệnh này ở giai đoạn cuối, nằm điều trị trong một bệnh viện tại New Hampshire. Như hưởng ứng suy nghĩ của cô, Joyce bỗng thổ lộ:

– Bố nuôi của tôi từng mắc căn bệnh này dạng tiền báo. Chuyện này đã phá hỏng tuổi thơ của tôi, nhưng nó cũng xác định khuynh hướng của tôi.

Cô “cảnh sát” tiếp tục cuộc trao đổi:

– Bộ não… Tất cả mọi chuyện đều xảy ra bên trong đó, không phải vậy sao? Cô chỉ vào đầu mình. Những tín hiệu điện, những nối kết giữa các nhóm nơ ron…

– Phải rồi, Joyce mỉm cười đáp. Bộ não chi phối quyết định của chúng ta và ấn định hành vi cũng như phán đoán của chúng ta. Nó xây dựng ý thức chúng ta có về thế giới xung quanh và về chính chúng ta, tới mức quy định cách chúng ta phải lòng ai đó!

Chị ta có chất giọng trầm ấm, hơi khàn. Một vẻ duyên dáng thu hút. Nữ bác sĩ gật đầu. đu đưa trên ghế.

– Đó là một chủ đề lý thú, nhưng cô đến gặp tôi không phải để nói chuyện đó, không phải sao trung úy?

– Quả nhiên là vậy. Tôi có mặt tại đây vì BPD hiện đang tiến hành một cuộc điều tra trong đó xuất hiện tên của Kate Shapiro.

Joyce tỏ ra thực sự kinh ngạc.

– Kate ư? Các vị quy kết cho cô ấy tội lỗi gì đây?

– Chắc chắn là không có gì nghiêm trọng, Emma cam đoan. Kate không phải nhân vật chính trong cuộc điều tra của chúng tôi. Ngay lúc này tôi không thể nói cho chị biết thêm điều gì, nhưng cảm ơn vì chị đã hợp tác.

– Tôi có thể giúp cô bằng cách nào đây?

– Bằng cách trả lời một vài câu hỏi. Chị gặp Kate lần đầu là khi nào?

– Để xem nào, hồi đó là năm…năm 1993, chị ta khẳng định sau khi đếm nhẩm trên ngón tay. Cả hai chúng tôi đều là sinh viên năm nhất của JMP.

– JMP ư?

– Chương trình Y khoa kết hợp của đại học Berkeley. Đó là một chương trình giảng dậy y khoa năm năm dành cho những sinh viên xuất sắc được tuyển chọn trên cả nước. Ba năm master khoa học tại trường, tiếp đó là hai năm thực tập tại các bệnh viện khác nhau tại California.

– Chị là bạn thân nhất của Kate tại trường đại học đúng không?

Joyce im lặng nheo mắt, để cho ký ức chầm chậm ùa về từ quá khứ.

– Đúng thế, chắc chắn rồi. Suốt ba năm trời chúng tôi ở chung một phòng tại Berkeley, sau đó thuê một căn hộ nhỏ tại San Francisco trong hai năm. Tiếp đến, chúng tôi dọn tới Baltimore để bắt đầu kỳ nội trú tại đó.

– Kate thời đó như thế nào?

Nữ bác sĩ khoa thần kinh nhún vai.

Tôi hình dung cũng giống như hiện tại thôi: xinh đẹp, cầu tiến, thông minh, được phú cho một ý chí thép… Thực sự hết sức tài năng. Tôi chưa từng gặp ai có khả năng làm việc nhanh nhẹn và bền bỉ như cô ấy. Tôi còn nhớ cô ấy ngủ rất ít và có khả năng tập trung đến khó tin. Đó chắc chắn là sinh viên xuất sắc nhất khóa chúng tôi.

– Chị ấy từ đâu đến?

– Từ một trường dòng tại Maine, tôi quên tên trường rồi. Trước Kate, trường đó chưa từng có ai được nhận vào JMP. Tôi vẫn còn nhớ số điểm cô ấy đạt được ở bài kiểm tra đầu vào, số điểm cao nhất kể từ khi kỳ kiểm tra đó được áp dụng. Và tôi sẵn sàng đánh cược cho đến hôm nay vẫn chưa ai phá được kỷ lục đó.

– Hai người trở thành bạn của nhau như thế nào?

Joyce khoát tay.

– Tôi nghĩ là căn bệnh bố mẹ chúng tôi mắc phải đã khiến chúng tôi xích lại gần nhau. Kate đã mất mẹ vì những di chứng xơ cứng rải rác. Cả hai chúng tôi đều đã dành trọn đời mình để chống lại những căn bệnh thoái hóa thần kinh.

Emma nhướng mày.

– Đó đúng là điều chị đang làm, nhưng với Kate thì đâu có phải như vậy. Cô ấy trở thành bác sĩ ngoại chuyên khoa Tim mạch.

– Đúng vậy, cô ấy đã đột ngột chuyển hướng vào năm 1999, giữa năm thứ hai trong kỳ nội trú của chúng tôi tại Baltimore.

– Ý chị là cô ấy đã dừng kỳ nội trú khoa Thần kinh vào năm thứ hai để chuyển hướng sáng ngoại khoa?

– Đúng vậy: vì đó là một sinh viên cực kỳ xuất sắc, trường Johns Hopkins đã chấp nhận để cô ấy chuyển sang kỳ nội trú ngoại khoa ngay giữa năm.

– Sao lại có sự thay đổi này?

– Cho đến hôm nay tôi vẫn không thể giải thích điều này. Vả chăng, chính kể từ ngày ấy con đường chúng tôi đi rẽ hai hướng khác nhau và mối quan hệ của chúng tôi ngãng ra.

Emma gặng hỏi.

– Nghĩ cho kỹ lại, chị vẫn thực sự không biết điều gì có thể dẫn đến quyết định đó sao?

– Chuyện cách đây đã mười năm rồi. Ngày đó chúng tôi mới hai mươi tư. Vả lại, trong ngành y, không hiếm những sinh viên giữa chừng đổi hướng.

– Nhưng đây dù sao cũng là lời cam kết trọn đời. Chị vừa nói Kate đã quyết tâm gây dựng sự nghiệp với chuyên khoa thần kinh mà.

– Tôi biết thế, Joyce ghi nhận. Hẳn là trong năm ấy, cuộc đời cô ấy đã xảy ra biến cố nào đó quan trọng, nhưng tôi không biết nói sao với cô.

Emma với lấy cây bút nằm trên bàn làm việc rồi ghi năm “1999” lên cẳng tay, kèm theo câu hỏi: “Sự kiện nào trong đời Kate?”

– Cô có muốn một tờ giấy không trung úy?

Emma từ chối đề nghị rồi tiếp tục màn “hỏi cung”:

– Ngày đó Kate có hẹn hò với bạn trai không?

– Vẻ đẹp của cô ấy có sức hút như nam châm khiến rất nhiều người theo đuổi. Nói một cách nôm na hơn: thằng con trai nào nhìn thấy cô ấy cũng phát thèm và mơ đưa được cô ấy lên giường.

– Chị chưa trả lời câu hỏi của tôi, Emma nhấn mạnh. Cô ấy hẹn hò với ai?

Lúng túng, rõ ràng là Joyce đang tìm cách bảo vệ chuyện riêng tư của cô bạn cũ.

– Chuyện này thuộc phạm vi đời tư cá nhân của cô ấy đúng không?

Để Joyce bớt đắn đo, Emma hỏi rõ hơn một chút:

– Cô ấy hẹn hò với Nick Fitch phải không?

Joyce buột ra một tiếng thờ phảo nhẹ nhõm khó nhận thấy. Hài lòng vì không để lộ bí mật của Kate, chị ta tự cho phép mình thổ lộ:

– Đúng vậy, Nick là tình yêu lớn của Kate.

– Họ hẹn hò từ khi nào? Emma hỏi để tranh thủ kẽ hở.

– Từ năm mười chín tuổi. Khi ấy chúng tôi đang học năm hai tại Berkeley thì Fitch tới nói chuyện tại trường. Nhưng Kate đã gặp anh ấy từ trước. Thế nên Kate tới gặp anh ấy sau buổi hội thảo và họ bắt đầu thường xuyên gặp gỡ. Chuyện tình của họ bắt đầu năm 1994. Thời đó Fitch đã là một huyền thoại. Lúc đó anh ấy khoảng hai lăm, hai sáu tuổi và đã kiếm nhiều tiền trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử. Ngày ấy, trong lĩnh vực phần mềm miễn phí, ai cũng đã nhắc đến Unicorn.

– Ai biết mối quan hệ giữa họ?

– Rất ít người. Thậm chí theo tôi là chẳng ai biết, ngoại trừ mẹ của Nick và tôi. Fitch luôn hết sức kín đáo trong đời tư. Một tay cuồng ám thực sự. Cô sẽ không tìm thấy một bức ảnh hay đoạn phim nào có ảnh họ ở cùng nhau. Nick hết sức chú ý chuyện đó.

– Chứng cuồng ám này ở đâu ra vậy?

– Tôi không rõ. Dẫu sao đó cũng là điều đã ăn sâu vào Nick.

Emma ngừng lại một lúc. Chứng cuồng ám này không khớp với đoạn phim cô đã ghi lại được sáng nay bằng điện thoại. Tại sao Kate và Nick lại gặp nhau trong một quán rượu nơi bất kỳ ai cũng có thể trông thấy họ như vậy?

– Mối quan hệ này đã kéo dài bao lâu?

– Nhiều năm liền, nhưng đó là một mối quan hệ nhiều cãi vã. “Theo tình tình phớt, phớt tình tình theo”. Cô biết kiểu quan hệ đó chứ?

– Rủi thay tôi lại biết rõ, Emma thở dài.

Joyce mỉm cười nói tiếp:

– Theo những gì cô ấy tâm sự với tôi, Kate đã phải đau khổ rất nhiều vì tính khí thay đổi thất thường của Nick. Cô ấy trách Nick không hứa hẹn gì. Hôm thì anh ấy tỏ vẻ hết sức thiết tha, nhưng hôm sau đã trở nên xa cách. Họ đã nhiều lần chia tay. Cô ấy thực sự si tình và sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho Nick, kể cả vụ phẩu thuật thẩm mỹ ngu ngốc kia.

Emma cảm thấy nhoi nhói trong bụng. Cô đã không sai…

– Việc phẩu thuật thẫm mỹ đó là vào năm nào?

– Mùa hè năm 1998, cuối năm nội trú đầu tiên, nghĩa là vài tháng trước khi Kate đổi chuyên ngành.

– Theo chị thì Kate đã tiến hành phẫu thuật để làm vừa lòng Fitch sao?

– Đúng thế, tôi thấy chuyện đó là hiển nhiên. Thời đó, Kate không hiểu sao Nick lại cự tuyệt mình. Cô ấy không còn tự tin nữa. Cuộc phẫu thuật này chẳng qua là một hành động tuyệt vọng.

Emma đổi chủ đề.

– Kate và Nick hẹn hò tới khi nào?

Joyce lắc đầu.

– Tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện đó. Như tôi vừa nói với cô rồi đấy, chúng tôi bặt tin nhau kể từ khi Kate đổi chuyên ngành. Thỉnh thoảng chúng tôi mail cho nhau, nhưng không còn tâm sự hay thổ lộ gì nữa. Sau thời gian nội trú ở Baltimore, cô ấy quay về San Francisco để kết thúc kỳ nội trú của mình, rồi cô ấy theo học một khóa đào tạo phẫu thuật tim tại New York. Cách đây năm năm, cô ấy đã hoàn thành chuyên ngành bằng một khóa ghép tim tại Boston, và ngay sau tốt nghiệp, cô ấy có được vị trí chính thức tại MGH.

Emma bắt luôn câu nói đó.

– Vậy là hai chị đều có mặt trong cùng một thành phố vào cùng một thời điểm?

– Gần như vậy. Tôi vào làm ở Viện Thần kinh cách đây ba năm rưỡi.

– Tôi hình dung là ngay khi tới đây chị đã tìm cách gặp lại bạn thân…

Hơi lúng túng, Joyce để vài giây trôi qua mới trả lời.

– Đúng vậy, tôi đã liên lạc với cô ấy và chúng tôi đã gặp nhau tại một quán cà phê tại Back Bay. Lúc đó cô ấy mới sinh con được vài tháng. Cô ấy kể là đang sống hết sức hạnh phúc, hết sức hài lòng về cuộc sống gia đình và rất mực yêu thương chồng, một giảng viên Triết học ở Harvard.

– Chị có tin cô ấy không?

– Tôi chẳng có lý do gì để không tin.

– Hai người có nhắc đến Nick không?

– Không, bấy giờ không phải lúc thích hợp. Cô ấy vừa kết hôn và sinh con. Tôi sẽ không lật lại quá khứ làm gì.

– Sau đó hai người không gặp lại nhau sao?

– Tôi có rủ, nhưng cô ấy không bao giờ trả lời mail hay điện thoại. Được một thời gian thì tôi cũng thôi.

Joyce buột một tiếng thờ dài rồi sự im lặng chụp lên căn phòng. Emma ngoảnh mặt nhìn ra cửa sổ. Cô nheo mắt nhìn cho rõ dòng sông, đen kịt và ảm đạm, đang chảy bên dưới.

– Tốt lắm. Cảm ơn chị đã hợp tác, cô nói đoạn đứng dậy.

Joyce cũng đứng dậy.

– Để tôi tiễn cô, trung úy.

Emma đi theo nhà khoa học ra hành lang rồi vào trong thang máy. Cô thực sự không thể nói cho tôi biết người ta quy kết Kate tội gì sao? Joyce cố nài trong lúc ấn nút thang máy để xuống tầng trệt.

– Vẫn còn sớm quá, tôi xin lỗi. Tôi cũng yêu cầu chị đừng nói cho ai biết về cuộc trao đổi giữa hai ta.

– Tùy cô thôi. Tôi thực sự hy vọng đã không xảy ra chuyện gì nghiêm trọng, nhưng dù Kate có thể làm gì chăng nữa, cô cũng nên hiểu rõ một điều: một khi đã bắt đầu vào chuyện gì đó, cô ấy đều thực hiện với trí thông minh và lòng quyết tâm. Và cô ấy sẽ đi đến cùng. Cô ấy chỉ có một điểm mềm lòng, một điểm yếu duy nhất.

– Tình yêu?

– Dĩ nhiên là vậy. Kate thường tự nói rằng, khi yêu, cô ấy cảm thấy tâm hồn Nga trong mình trỗi dậy và cô ấy có khả năng làm những điều thái quá nhất. Tin tôi đi, đó không phải một câu đùa đâu.

Joyce đưa cho cô tấm card khi đã tới đại sảnh của viện.

– Nếu cần thêm những thông tin khác, xin trung úy đừng ngại.

– Cảm ơn chị. Một câu hỏi cuối cùng: phải chăng Kate có khả năng làm chuyện gì đó để trả thù Nick?

Joyce khoát tay trong một cử chỉ bất lực. Hai người phụ nữ tiếp tục trao đổi hơn nửa tiếng nữa trong ánh sáng màu sữa của Viện Não.

Cuối cùng, Emma bước đi trong màn đêm. Trời đã về khuya. Tuyết đã ngừng rơi nhưng bầu không khí buốt giá đã khiến khu học xá đóng băng.

Nhìn quanh không thấy bóng dáng chiếc taxi nào. Cô cuốc bộ tới bến Kendall/MIT rồi lên tàu điện ngầm quay về Boston.

Đẩy cửa bước vào khách sạn, cô thấy Romuald đã ngủ thiếp đi trước một dãy màn hình, đầu gối lên hai cánh tay khoanh lại.

Cô mở to mắt tò mò nhìn dàn máy móc điện tử. Cậu nhóc đã biến căn phòng khách sạn hạng sang thành một đại bản doanh an ninh.

Cô rời khỏi phòng không một tiếng động rồi quay trở lại quầy bar của khách sạn.

Vào lúc khuya thế này, nơi đây chỉ còn vài khách.

Cô gọi một ly cocktail caipiroska nữa rồi vừa nhấm nháp vừa nhớ lại những gì Joyce Wilkinson đã kể cô nghe trước khi học chia tay nhau.

Cuộc gặp đầu tiên giữa Kate và Nick.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.