Cô hầu gái phúng phính mắt đen xuất hiện năm lần mỗi ngày với món nước xuýt mùi lạ. Năm lần mỗi ngày, Philip đỡ Jessup dậy, trong khi cô Jones kiên nhẫn đút từng thìa chất lỏng ấy vào trong ông. Đến cuối tuần đầu tiên, Jessup có vẻ như đã đỡ hơn phần nào. Đến cuối tuần thứ hai, sức khỏe ông ta tiến triển rõ ràng. Trong khoảng thời gian này, cô Cavencourt cũng tiếp tế những chiếc gối phồng và đồ lanh sạch từ kho dự trữ của cô.
Philip không quá vui sướng gì khi thấy mình phải chịu ơn quá lớn của cô như vậy. Tuy thế, anh vẫn tự nhắc mình là cô đã cứu mạng Jessup.
Vì vậy, buổi chiều đó Philip tìm cô ở lan can, đang nhìn ra ngoài biển, để cám ơn. Có vẻ như cô đã ở cả ngày ngoài lan can, đôi khi với bà Gales hoặc Bella, nhưng hầu hết là một mình. Không biết bao nhiêu lần anh lên trên với dăm phút hưởng khí trời và thấy cô Cavencourt đang đứng đó. Một giờ sau, anh quay lại cho một lần hít thở khí trời vội vã nữa, nhưng cô vẫn đứng đó, gần như xa lạ với xung quanh, cái nhìn của cô dính chặt xuống mặt nước.
Bấy giờ trước lời chào lịch sự của anh, cô giật mình và dường như cô vẫn đang ở nơi nào đó rất xa, phải mất một lúc lâu sau đôi mắt vàng của cô mới sáng lên nhận biết.
Đang giữa chừng bài diễn văn chính tắc nho nhỏ mà anh đã chuẩn bị, Philip chợt cảm thấy một mùi hương lạ vẩn trong bầu không khí mặn. Dầu hoắc hương. Nhưng thoang thoảng, chỉ là chút dấu vết. Có thể từ chiếc khăn. Khăn kashmir thường được cất với hoắc hương, để phòng côn trùng. Không có gì đáng ngại về điều đó, anh nghĩ khi tiếp tục với đôi chút xao lãng để miêu tả tình trạng tiến triển của Jessup và bày tỏ lòng biết ơn.
“Thật là dễ chịu khi được tán dương,” cô nói khi cuối cùng Philip cũng hạ cánh tới một điểm dừng, “nhưng phần lớn lời khen nên dành cho Padji. Đó là công thức bí mật của anh ta, anh biết đấy.”
“Quả thực vậy. Chúng tôi rất may mắn vì cô đã mang anh ta theo cùng.” Philip quả quyết trả lời.
“Có vẻ như anh rất tận tâm với ông Wringle,” cô nói, cái nhìn lướt trên ve áo trái của anh. “Anh đã làm việc cho ông ta lâu chưa?”
Giờ thì chuyện đó bắt đầu, anh mai mỉa nghĩ. Song vì sẵn trông chờ một sự kiểm định không sớm thì muộn, anh đã chuẩn bị câu trả lời của mình. Như thường lệ, anh không nói gì tới sự thật hay giả dối ngoài những gì thực sự cần thiết.
“Tôi được biết ông Wringle một thời gian rồi,” anh nói, “nhưng tôi làm cho ông ấy mới đây thôi, nhờ ông Groves.” Ông Groves kẻ kém cỏi. Jessup cố vấn pháp luật và Philip thằng hầu, khi nói về chuyện đó theo một cách khác! Nhưng đó không phải hoàn toàn lỗi của Randall, đúng không? Mỗi khi Philip vắng mặt, Jessup phải đóng vai ông chủ. Họ hầu như không cười Monty Larchmere vì chỉ có một người hầu, bất kể đến sự tuyệt vọng biết bao của… [8]”
[8] thiếu
“Thế thì sự trung thành của anh lại càng đáng ngưỡng mộ hơn.” Cái nhìn của cô quét lên và anh thấy mình đang hướng về phía luồng sáng màu vàng đó, nơi có những chiếc bóng lung linh. “Suốt hai tuần này anh hầu như không rời khỏi bên giường ông ấy.”
“Đương nhiên rồi, người ta luôn mong có mặt ngay lập tức khi ông chủ cần thứ gì.”
“Tuy vậy, anh cũng không mong mình bị ốm chứ. Anh sẽ không có ích gì cho ông ta nếu anh cũng ốm, và vẻ mặt tái nhợt của anh cho tôi thấy anh chưa được một đêm ngủ yên giấc – hay một bữa ăn đúng cách nào – suốt thời gian.”
Tới giây phút đó, Philip vẫn chẳng cảm thấy có chút nào không khỏe cả. Bỗng nhiên anh để ý tới các cơ đau nhức của mình, và cùng với sự nhận biết ấy, sự mệt mỏi bắt đầu xâm chiếm anh. Cứ như anh đã là một cái máy suốt hai tuần qua.
Bây giờ cô ta nói những từ đó, máy móc bắt đầu rã ra.
“Anh không thể khỏe mạnh được nếu như cứ ở quá lâu trong cái không gian kín ấy,” cô tiếp tục, tảng lờ sự phản đối anh mấp máy trên môi. “Ít nhất thì khi Bella ở đó, anh có thể rời đi với lương tâm thanh thản, và đi dạo trong không khí trong lành.”
Không khí trong lành. Cô ta là đồ chết dẫm. Nhưng cô ta không thể biết về nó. Cô ta chỉ muốn anh tránh đường.
“Tôi đánh giá cao sự quan tâm của cô, thưa cô, nhưng tôi e là việc chăm nom vẫn cần hai người.”
“Ồ… phải rồi… đương nhiên. Dù trong bất cứ tình huống nào, anh cũng đang ở đây rồi, phải không nào? Thật ngớ ngẩn khi bảo anh đi làm cái việc anh đang làm. Ngớ ngẩn hơn là khiến anh đứng đây và chịu đựng một bài thuyết giảng, trong khi tôi mới chỉ gợi ý việc tập thể dục. Hãy cầu nguyện đừng để tôi giữ anh lại.” Cô quay ra phía biển.
Philip vội vã quay lại cabin, chắc mẩm một trong các tay sai của cô Cavencourt đang vẩn vơ quanh đó. Rồi việc anh chẳng thấy tay sai nào, hay một chút vật phẩm nào quấy nhiễu cũng không làm cho anh khuây khỏa. Anh leo lên chiếc võng thiếu tiện nghi và cố gắng làm một giấc. Quá muộn. Cô ta đã triệt hạ giấc ngủ rồi, phải không?
Vì Jessup, Philip chất các suy nghĩ riêng tư lại, đóng khóa và niêm phong. Anh ghét cái ca bin. Monty Larchmere đã cháy túi như mọi người nghi ngờ, hoặc là hắn chẳng bao giờ ở trong cái lỗ khốn khổ khốn nạn thế này. Nơi này vừa hẹp vừa tối, không khí cũ mốc đã là tốt nhất rồi, nhưng phần lớn lại hôi hám. Philip thà ngủ trên boong còn hơn, nếu như anh dám. Anh không dám. Anh không thể rời khỏi ca bin mà không có ai canh gác lúc đêm, kể cả khi khóa cửa. Một chiếc khóa thì là gì với tên Ấn Độ quỷ quyệt kia, tiên sư hắn. Tiên sư cả cô ta nữa – Pandora, với đôi mắt vàng lừa lọc kia. Cô ta lẩm bẩm vài từ và con yêu tinh anh đã khóa chặt lại chui ra bóp nghẹt anh.
Buổi chiều hãy còn sớm nhưng ánh sáng hầu như không len được tới nơi này. Nó tối tăm, hôi hám, ngột ngạt. Quá giống nhau.
Đã là một quãng đời trước, anh tự bảo mình khi cố gắng nhắm mắt lại. Một cuộc đời khác, của một đứa trẻ, còn anh là một người đàn ông. Đã bao nhiêu lần trong mười lăm năm qua anh táo bạo vội vàng tiến đến cái chết gần như cầm chắc? Anh không còn là một thằng bé yếu đuối, vô tích sự nữa. Anh không còn sợ hãi… bất cứ thứ gì.
Song anh lại cảm thấy nó xâm chiếm anh bằng một dòng suối chậm chạp, băng giá: Sự khiếp sợ. Thật là vô duyên vô cớ, thật là vô lý, đầu óc trưởng thành của anh khăng khăng, ngay cả khi nó vùi một mồi lửa vào sự hoảng sợ lạnh lẽo ấy.
5.2
Mấy phút sau, Philip ra khỏi ca bin, hấp tấp mò mẫm trong hành lang. Rồi cuối cùng anh cũng ra được nơi có ánh sáng, ra được nơi có khí trời, hít thở nó thật tham lam cho tới khi đầu óc anh nổi lên khỏi cái bẫy băng giá kia và tim anh trở lại nhịp đập đều đặn bình thường. Nguyền cô ta xuống địa ngục, sự hồi phục của Jessup vẫn còn thất thường như trước và tuần lễ kế tiếp thật là một sự tra tấn từ từ. Dĩ nhiên là người ta cần ăn và nghỉ và tập thể dục. Philip đâu phải thằng khờ. Nhưng sự thèm ăn của anh bị thu nhỏ lại, bóp nghẹt khi nguyên do của anh là, vì phải ngó nhìn không bao giờ ngơi cái ngăn bé xíu, nóng nực này. Cảnh thức ăn làm anh phát ốm, và anh đau nhức mệt mỏi tới tận xương tủy đến mức mà leo lên cái boong trên ngày hôm nay cũng như leo cả nghìn bậc vách đá.
Bắt gặp bóng anh, cô Cavencourt hành quân qua boong tàu và bắt đầu bài thuyết giảng tiếp theo. Philip nhìn cô ta chằm chằm, tuyệt đối không có khả năng hiểu lấy một âm tiết. Rồi có cái gì đó bắt đầu vù vù rất lớn trong tai anh, các cơ của anh giật điên cuồng, và cô Cavencourt và cả thế giới chìm nghỉm trong một lớp dày đen như mực.
Một đứa trẻ đang la hét, đang thổn thức, ở đâu đó. Một cánh cửa, dày và nặng… và nặng trĩu, ngột ngạt bóng đêm. Nó không thể thở nổi. Đôi bàn tay nó nóng bỏng, trầy trật vì đấm thùm thụp và thanh chắn sừng sững. “Làm ơn đi, con sẽ không làm chuyện đó nữa, Ba ơi. Làm ơn đi, Ba. Con xin lỗi.”
Lúc ấy có cái gì đó mát và ướt chạm vào nó, và một bàn tay dịu dàng vuốt ve trán nó. Mắt Philip mở to trước luồng ánh sáng màu vàng lung linh giữa những bóng tối ấy. Mùa thu ở Felkonwood, an toàn trong rừng. Ánh sáng rót xuống ấm áp và gió thổi ngọt ngào với …mùi hoắc hương?
Đầu óc anh quay lại thế giới và phát hiện một người đàn bà đang nghiêng xuống anh. Anh cố gắng nâng người dậy.
“Đừng, anh Brentick, đừng quá nhanh thế,” cô Cavencourt dịu dàng nói. “Anh sẽ khiến mình ốm đấy.”
Cảm giác buồn nôn ứ lên theo một đợt sóng chòng chành. Anh lại nằm xuống và thở một hơi dài, từ từ. “Chuyện gì xảy ra thế?” anh hỏi. Giọng anh như vọng lại từ hàng dặm xa.
“Anh ngã quỵ,” cô nói, “bởi gánh sự trách mắng của tôi.”
Một làn hơi ấm lộn xộn lan tỏa khắp mặt anh. Quỷ bắt nó đi. Anh đã ngất dưới chân cô ta – anh, Chim ưng – và giờ hẳn anh đang đỏ mặt như cậu học trò.
Một nụ cười mờ làm cong chiếc miệng đầy đặn của cô, nhưng cái nhìn cô dịu sang màu hổ phách tỏa khói. “Anh phải nghe tôi, anh Brentick. Nhưng tôi sẽ chỉ nói ‘Tôi bảo anh thế,'” cô thêm vào, nụ cười tắt dần đi, “miễn là anh nghe theo sự chỉ dẫn của tôi từ bây giờ trở đi. May mắn thay, không có cơn sốt nào. Đơn giản là anh chỉ quá mệt và yếu đi vì đói. Tôi muốn anh cố gắng chợp mắt. Lát nữa khi Bella cho ông chủ anh uống, cô ấy cũng sẽ mang cho anh chút nước xuýt. Anh phải cố gắng uống hết. Ngay cả nếu lúc đầu anh cảm thấy hơi buồn nôn, nó cũng sẽ giúp ích cho anh, tôi hứa đấy.”
Cô đứng dậy, và chỉ khi đó anh mới nhận ra anh đã nằm, không phải trong chiếc võng mắc trên giường Jessup, mà trên chiếc nệm hẹp trên sàn. Quỷ quái làm thế nào mà cô ta lo được chuyện này? Khi cô bước đi, Philip thoáng thấy một bờ vai rộng màu nâu ở góc ô cửa mở. Padji. Vậy ra đó là thế nào.
Trời ơi, anh đã nằm bất tỉnh bao lâu rồi? Giờ chắc họ đã lục lọi khắp ca bin rồi.
Philip kiên nhẫn đợi đến khi cặp đôi đi hẳn và tiếng bước chân họ tắt dần. Rồi anh từ từ ngồi dậy, cố chống lại sự thôi thúc muốn ói, và bò bằng cả hai tay hai chân. Chiếc rương vẫn được nêm chặt vào tường, và chiếc đệm của anh đã được đẩy sát vào nó. Anh lần tìm trong áo khoác, thấy chiếc chìa, và mở rương. Hai cánh tay anh dường như được làm bằng bún. Anh phải mất ba lần cố gắng để nâng chiếc nắp lên.
Một vài phút thót ruột gan dài vô tận sau, anh ngả sụp lưng lên chiếc nệm. Họ chẳng chạm vào thứ gì cả. Chiếc lông đánh dấu vẫn nằm nguyên tại nơi anh đặt nó, Nàng Công Chúa Cười vẫn náu nguyên trong tấm nệm nhỏ. Anh phải chắc chắn mọi thứ vẫn như xưa trước khi đặt tất cả lại vị trí.
Cô ta lởn vởn ở đây làm cái quỷ gì? Một cơ hội vàng, còn cô ta và tên Ấn Độ bỏ qua nó. Tại sao cô ta lại bận tâm đến anh, đến Jessup? Tại sao cô ta không để cho Jessup chết? Sẽ chỉ còn có một vật cản trên đường. Và hôm nay – một cơ hội lý tưởng cho Padji tự tay loại bỏ anh. Quá dễ dàng để dựng một vở bất tỉnh chí tử, với cô chủ ở bên để tạo ra bất cứ sự đánh lạc hướng cần thiết nào. Tại sao lại chẳng có điều gì xảy ra? Rốt cuộc thì, liệu có thể cô ta chẳng biết gì không? Hay là cô ta còn tinh ranh hơn cả anh tưởng tượng?
Anh không thể nghĩ gì hơn nữa. Không phải bây giờ. Lát nữa. Đầu anh nện xuống gối, và vài phút sau anh ngủ thiếp đi.
***
5.3
“Nó ở trong bộ lông chồn,” Amanda nói. Cô đưa đôi tay run rẩy nâng chiếc cốc vại đựng rượu vang lên môi và nhấp. Cô và bà Gales đang ngồi trên chiếc nệm ghế dài dưới một dãy cửa sổ.
Chiếc kim đan của bà Gales không chậm rãi như thường lệ. “Cô đã hứa là cẩn thận.” bà nói. “Việc đó thật là liều lĩnh dại dột, Amanda. Giả sử anh ta hay ông Wringle thức dậy thì sao?”
“Padji lo chuyện đó. Tôi không biết anh ta đã dùng thứ gì. Dù sao, tôi cũng đã phủ vải lên mắt anh Brentick, và Padji rất nhanh. Anh ta lấy chùm chìa khóa khi mang anh Brentick về ca bin. Rồi chúng tôi vội vàng mang anh ta lên chiếc nệm. Để cho chắc chắn, tôi đã hỏi xem có đồ lanh sạch không. Nếu bất cứ ai thức dậy, đó sẽ là cái cớ lục lọi của chúng tôi.” Amanda nuốt thêm một chút rượu vang trước khi thêm vào, “Padji đã mở ra đóng vào chiếc rương trong một phút. Tôi hầu như không quay đầu trước khi anh ta làm xong.”
“Rõ rồi. Có công mài sắt có ngày nên kim, tôi tin thế.” Bà Gales nói tỉnh queo. “Song, năng khiếu của cô trong chuyện này mới đáng ngạc nhiên. Sự nhanh trí của cô mới quả là phi thường.”
“Chẳng đáng gì. Nếu Padji không ở bên thì tôi không bao giờ nảy ra ý định lợi dụng tình huống đâu. Khi anh Brentick ngất đi, tôi cũng gần như vậy, tôi đã quá … sốc.”
Sợ hãi, suýt chết. Mỗi ngày cô quan sát công việc mạo hiểm của anh ở trên, và trái tim cô lại có cảm tình với anh, anh dường như quá ốm, quá đáng thương.
Đầu tiên cô tự bảo mình rằng đó chỉ là vì anh xứng đáng phải nhận cho việc hợp tác với tên tội phạm thấp hèn như ông Wringle. Nhưng Lý trí nhanh chóng chỉ ra rằng hoàn toàn có khả năng người hầu không hay biết ông chủ mình đang can dự việc gì. Tại sao Wringle phải kể cho người hầu của hắn chứ? Nếu hắn ta kể, tại sao người hầu lại phải mạo hiểm cả sức khỏe của mình để quan tâm cho một kẻ như vậy? Chỉ cần giả sử anh Brentick cũng cùng loại bất lương như thế. Tại sao anh ta không khôn ngoan hơn là để ông chủ chết và tự mình lĩnh thưởng? Chắc chắn phải có một phần thưởng – một phần đáng giá – khiến cho Wringle rời khỏi Calcutta trong tình trạng như vậy.
Càng ngẫm nghĩ, Amanda càng thấy nhiều bằng chứng chứng tỏ người hầu chỉ là một kẻ ngoài cuộc. Và hôm nay…
Cô mới ước mình không phải ở lại trong cabin để chăm sóc anh làm sao. Lẽ ra cô nên gọi Bella. Nhưng mà, cô hầu gái đâu có biết gì về bức tượng, ngoại trừ việc nó bị đánh cắp ở Calcutta. Lương tâm của cô sẽ không gào thét khi cô nghe những lời mê sảng mấp máy của anh Brentick. Người đàn ông tội nghiệp đang khóc gọi cha mình.
Một ký ức tuổi thơ kinh hoàng nào đó chắc đã tác động đến anh. Amanda có thể hiểu điều đó. Cô cũng có những cơn ác mộng của riêng mình. Mọi người đều có. Nhưng trái tim cô đã nhức nhối trước những lời nài xin đáng thương đó, và cả lúc sau, khi mắt anh mở ra. Sự kinh hoàng còn đọng lại trong chiều sâu màu xanh sâu thăm thẳm ấy, và trong tích tắc thoáng qua trước khi anh hoàn toàn thức dậy, trông chúng dường như là đôi mắt ngây thơ, sợ hãi của một cậu bé. Cỗ đã muốn… thực sự, ngớ ngẩn làm sao. Anh ta là một người đàn ông trưởng thành, và ốm. Anh ta chỉ đơn giản là có một cơn ác mộng, hay một cơn ảo giác do kiệt sức – hay do bất cứ thứ gì Padji đã thuốc anh.
Bà Gales đang nói điều gì đó, và nhìn cô khá lạ lùng.
“Tôi xin lỗi,” Amanda nói. “E là đầu óc tôi đang lang thang.”
“Tôi đã hỏi tại sao cô lại không lấy bức tượng khi có cơ hội.”
Amanda tống hình ảnh anh hầu sang bên. “Quá mạo hiểm,” cô nói. “Padji, Bella, và tôi là những người duy nhất bên ngoài vào trong ca bin, và chuyện đó làm cho chúng tôi thành nghi can số một. Ngay khi việc mất cắp bị phát hiện, thuyền trưởng sẽ cho soi khắp các ngóc ngách trên tàu. Và sau cùng họ thấy bức tượng, sẽ chỉ còn câu nói của tôi chống lại ông Wringle là Nàng công chúa cười đúng là của mình.”
Bà góa thở dài. “Tôi hiểu. Có thể thuyền trưởng sẽ để vấn đề đó được giải quyết ở Anh, và-”
“Và thánh Juggernaut- Hedgrave- sẽ nghiền nát tôi.” Amanda uống nốt chút rượu còn sót. “Bà thấy đấy, “nhiệm vụ cần sự khéo léo, tinh ranh, và kiên nhẫn, ít ra là thế. Nó cũng cần Chim ưng nữa, thực sự vậy, nhưng vì chúng ta không có hắn, chúng ta sẽ phải cần Padji.”
***
5.4
“Làm ơn đừng nhắc đến nữa, thưa ngài, không thì người ta lại nghĩ ngài đang trở thành người hay làm to chuyện,” Jessup nói khi ông ta đang kéo mình ngồi dậy. “Không phải cái đồ vật đáng nguyền rủa kia được giấu quá tốt sao? Không phải tôi đang có khẩu súng này dưới gối sao? Không phải tôi quan sát suốt thời gian cô gái ở đây sao? Đấy là chưa kể, người ta nói là lắm thầy nhiều ma, ngài có hiểu ý tôi không?”
“Ông chẳng khỏe mạnh gì để mà ve vãn những hầu gái của các quý bà,” Philip nói. “Và tôi phải nhắc ông rằng người nữ hầu đó thuộc về người đàn bà tôi đã cướp.”
Anh đã có một buổi nói chuyện không thỏa mãn hôm trước với Bella, người phật lòng trước đề nghị cô thôi trách nhiệm của anh. Họ đã ở trên biển hai tháng, và Jessup, dù vẫn còn yếu đã đủ cảnh giới để chú ý đến xung quanh. Đó lại là vấn đề. Ông ta chú ý đến cô Bella phúng phính – và cô ta chú ý tới ông, rõ rành rành, vì hiện tại cả hai cư xử như một đôi trẻ hâm hâm gàn gàn.
Jessup tự mình thiết kế một lời thanh minh cho bài diễn văn hèn mọn và cử chỉ thô lỗ của mình, bởi vì, ông nói, ông đã mệt mỏi khi phải đưa ra những câu trả lời chỉ có một từ. Ông chỉ “thú nhận” rằng ngài Groves đã phóng đại địa vị của ông – ông chỉ là một thư ký của ngài cố vấn pháp luật. Bella sẽ bỏ qua việc phát giác này. Vì vậy, chí ít là khi Jessup trở nên đủ khỏe để mạo hiểm với những người khác, không ai sẽ đoán ra điều gì ngoài một gã thường thường như ông. Cùng lúc ấy, ông muốn có nhiều riêng tư hơn.
“Tôi không quên khi ngài nhắc cho tôi chú ý tới nó trong từng từ,” Jessup gắt gỏng trả lời. “Cứ như tôi chưa từng trải qua dăm chục trận đấu với ngài, đấy là chưa kể chúng ta phải chịu đựng một hợp đồng tồi tệ hơn khi bỏ việc chiến đấu để đi khoắng trộm. Ít ra trong một trận đấu, một anh chàng có thể bị mất chân hay tay, hay cái gì sạch sẽ như thế. Anh ta sẽ không bị đầu độc và dẫn đầu vào Bedlam rồi quay trở lại không chút hy vọng là được chết và được xong với nó.”
Khi mọi chuyện thất bại, Jessup không phải kẻ cao ngạo để từ chối làm những việc sai quấy. Ông đã được lên chức, còn ngài chủ của ông sẽ chịu đựng vị trí của ông nhiều tháng nữa trước khi ông trở lại sự cường tráng của mình. Giờ thì chủ nhân muốn từ chối ông sự an ủi của một người đàn bà: một cô hầu mũm mĩm, thân thiện với đôi tay dịu dàng và giọng nói êm ái.
Ở vị trí của Jessup, Philip cũng sẽ muốn điều tương tự. Hơn nữa, anh là một người đàn ông với ba mươi cộng năm mùa hạ, không phải một thanh niên miệng còn hơi sữa. Có lẽ mặc dù không tương xứng với những mánh khóe xảo quyệt của Rani, song Jessup cũng đã thích ứng với mọi loại sắp đặt. Ông biết giá trị của bức tượng gỗ. Ông sẽ không mạo hiểm phần thưởng của mình vì sự lộn xộn với bất cứ người đàn bà nào.
“Tôi đoán là mình cư xử như một cô giữ trẻ nhặng xị,” Philip thảm não nói, khi anh bắt đầu bước trong không gian tí tẹo của ca bin.
“Còn tệ hơn,” người hầu của anh sống sượng đáp. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai bồn chồn như thế trong đời. Tại sao ngài không đi quanh boong và để tôi yên?”
“Tôi không bồn chồn,” Philip nạt. “Và tôi đã đi quanh boong như ông nói, cả một buổi chiều đáng nguyền rủa. Không có một thứ gì cho tôi làm, và không có một ai để nói chuyện ngoại trừ các thủy thủ. và họ lại thích dành thời gian rỗi để liến thoắng với nhau bằng thứ tiếng lóng khó hiểu của họ hơn. Tại sao họ không thể nói ‘phải’ và ‘trái’ như người bình thường được? Có chuyện gì không ổn với đằng trước và đằng sau, tiến và lùi? Ông có biết bao nhiêu cánh buồm trên con tàu này không? Ít nhất là một nghìn, và mỗi chiếc lại có một cái tên khác nhau, tôi đoán thế,” anh kết thúc trong sự cáu điên người.
“Cô ấy có đẹp không?” Jessup hỏi.
“Cái gì?” Philip quay rất nhanh đến mức đỉnh đầu anh tạo thành một vệt sáng. “Ông đang nói về cái quỷ quái gì vậy?”
“Cô Cavencourt ấy. Cô ấy có đẹp không?”
“Trí khôn của ông lại đi lang nữa à? Điều đó thì nói lên cái gì?”
“Chỉ hỏi thôi mà, thưa ngài. Không cần thiết phải để ruột gan của ngài nháo nhào phản ứng thế. Tôi đã quá ốm yếu để mà để ý khi cô ấy ở đây, và tôi không nhìn thấy cô từ khi tôi khỏe hơn. Chỉ không biết liệu cô ấy có mũm mĩm như cô hầu của mình không.”
“Cô ta chẳng mũm mĩm tí nào, nên ông không cần phải thèm chảy dãi cả hai.”
“Phải rồi, một trong hai người gầy trơ xương, tôi đoán thế. Một bà cô già, tôi nghĩ ngài đã nói cô ấy thế?”
“Chưa bao giờ tôi nói cô ấy là một bà cô già gầy nhẳng. Chưa kể đó không phải là chuyện ông cần quan tâm.”
“Chúng ta có bức tượng của cô ta, nên cô ấy cũng là một chút lo lắng, phải không?”
“Nó là của cô ta trong chưa đầy một giờ. Đó là của Công chúa Mèo cái chết tiệt suốt muôn đời đáng nguyền rủa. Hay, nói chính xác hơn, nó ở trong sự sở hữu của cô ta. Cả hai ta đều biết đấng Mệnh phụ Ác ôn đó đánh cắp nó khỏi Hedgrave.”
“Thế đó, nhưng cô Cavencourt có vẻ không cùng kiểu phải không? Từ những gì tôi nghe được, cô ấy đang lo lắng về ngài như một con gà mái mẹ.”
“Chắc chắn. Bà chủ trại bao giờ chẳng quan tâm tới những nông nô ốm yếu.” Philip bực tức trả lời.
Người hầu dụi mắt. “Ôi, tôi không đổ lỗi cho ngài vì đã cảm nhận theo cách đó. Không thể nuốt trôi được, đúng vậy, phải cúi đầu chào và choãi chân ra đằng sau và bị ra lệnh làm cái này cái kia. Nhưng mà, đó là công việc, và ngài sẽ không vội thúc chiếc tàu chạy nhanh hơn vì tất cả những lo lắng rối rít của ngài.” Jessup lại ngả xuống gối. “Tôi chưa bao giờ thấy ngài quá hốt hoảng như vậy, y như con mèo rơi vào chậu nước. Tha cho tôi, hãy lo cho ngài ấy.”
“Cái không thể nuốt trôi được,” Philip nghiến răng ken két, “là bị mắc bẫy trên một con tàu với một pho tượng đẽo trị giá năm mươi nghìn bảng, một tên Ấn Độ có thể giết chúng ta trong giấc ngủ, một người đàn bà, cứ cho là chủ của hắn, đã bị tôi cướp. Nghĩ đi, ông già. Cô ta xuyên thủng sự an toàn của ca bin này. Còn ông thì mê tít nàng hầu béo tốt của cô ta. Ông có muốn biết rằng tôi hốt hoảng không?”
“Không, tôi không muốn biết, thưa ngài,” người bệnh đáp. “Tôi chỉ ước ngài sẽ hốt hoảng ở chỗ khác.”