Mười Hai Năm Kịch Cố Nhân

Chương 4



Bức tranh này con người ấy là ánh nắng còn sót lại trong hoàng hôn, là ánh lửa nhuộm đỏ đường chân trời.

Kì lạ thay, Thẩm Hề chợt nhớ về khung cảnh khi anh xuất hiện trong động thuốc phiện đêm đó.

Cô bị trói cả chân lẫn tay, co ro trên nền đất bẩn thỉu, bên cạnh chính là gã nghiện đã chết. Phía sau là một chiếc giường lớn, dùng ván gỗ ghép lại với nhau, bên trên là những tên vô tri gầy trơ xương đê mê trong cơn phê thuốc, chen chúc xếp thành hàng dài, cầm tẩu thuốc đặt lên đèn châm lửa, rít một hơi về với trời, thêm hơi nữa quay về đất. Có gã ăn xin nhặt được vải xô gói thuốc, cúi người nửa đi nửa bò, không liếc mắt nhìn cô tới một cái.

Viên quan được ai đó gọi ra ngoài, không tới một lát Phó Đồng Văn bước vào nhìn thấy cô.

Cô vẫn còn nhớ, anh chỉ cần đi ba bước là tới trước mặt mình, khuỵu gối phải xuống, tư thế nửa quỳ như để cô không phải ngước, nhìn gương mặt cô: “Bị đánh ư?”

Đây là câu đầu tiên anh hỏi cô. Ba từ, một câu nghi vấn.

“Sao thế?” Phó Đồng Văn thấy cô thất thần, thì hỏi tiếp.

Thẩm Hề hoàn hồn: “Lúc xế chiều anh ngủ trên giường ấy có quen không?”

Lại là một câu ngốc nghếch gì đây.

“Cũng tàm tạm.” Anh đặt bát xuống, tay trái chống lên bệ bồn rửa bát bằng sứ, để ngón tay lên theo thói quen, ngón trỏ và ngón giữa nhẹ nhàng gõ nhịp theo tiết tấu. Thẩm Hề để ý, trong phòng khách nhà anh, anh cũng đánh nhịp bằng chân như thế. Xem ra…Anh hết kiên nhẫn rồi.

Nét mặt Phó Đồng Văn vẫn bình thường, nhưng nhìn ra cô đang mất tự nhiên, thấy cô không nói tiếp, anh thuận miệng nói: “Trong hành lý của tôi có mấy quyển “The Lancet” (1), ngày mai sẽ bảo người đưa cho em.”

“Lancet ư?” Cô ngạc nhiên.

Anh sưu tập tạp chí y học làm gì? Không lẽ anh từng học y? Nhưng hình như không phải.

Phó Đồng Văn giải đáp nghi hoặc không dám hỏi của cô: “Bọn họ không nói với em sao? Chú tư trước đây học y.”

“Có nhắc được nửa câu.” Cô nhớ lại.

“Ồ?” Phó Đồng Văn mỉm cười hỏi nhỏ: “Sao lại là nửa câu?”

“Vì…” Cô nghĩ lại năm ấy, thì thầm giải thích, “Vì họ sợ em đau lòng, vì…”

Anh hiểu những lời cô chưa nói: “Vì tôi bảo em kết hôn giả.”

Cô gật đầu.

Phó Đồng Văn nâng tay trái lên, chỉ ra ngoài cửa: “Đi nào, chúng ta lên lầu thôi.”

Cuộc hẹn chín giờ tối đã đến lúc kết thúc.

Thẩm Hề tưởng rằng hai người cùng dưới một mái nhà, sẽ chung sống với nhau một khoảng thời gian, nhưng không ngờ, ngày hôm sau anh rời khỏi New York, gửi lại một vài quyển tạp chí đêm qua anh nhắc tới và một phong thư, bên trong là những tấm hình màu chụp đường phố Paris. Chỉ vậy, không để lại nửa chữ.

Thẩm Hề ngồi vào bàn ăn, vai kề vai với Uyển Phong, ngắm kĩ từng tấm hình.

Một tấm trong đó chụp đầu đường Paris, các căn nhà nối tiếp với nhau, san sát không một kẽ hở, giống như những hộp diêm được xếp ngay ngắn, cùng chung một mái nhà hẹp và rất dài. Mỗi căn nhà sơn một màu khác nhau, màu trắng, màu cà phê nhạt, màu cà phê đậm, màu đỏ thẫm.

“Cô nhìn này, trên tấm biển của họ viết tiếng Anh.” Uyển Phong chỉ vào bảng hiệu trên một cửa hàng.

Quả nhiên là tên nhà trọ nghỉ viết hoa chữ cái đầu tiên bằng tiếng Anh

Uyển Phong chưa đến Pháp bao giờ nên rất thích thú khi ngắm những tấm hình này.

Thẩm Hề lật tới lật tui ba mươi tấm hình một lúc lâu, để tìm điểm khác biệt trong ấy.

“Đêm qua cô và cậu ba nói gì vậy?” Uyển Phong tranh thủ dò hỏi.

“Không có gì,” Cô thật thà trả lời, “Không có gì thật mà.”

“Sao lại không có gì,” Uyển Phong đặt cằm lên cánh tay Thẩm Hề, “Hai người còn nói chuyện rất lâu trong phòng bếp mà, tôi muốn xuống nhưng không dám, nghĩ rằng hai người đang nói chuyện gia đình.”

Chuyện gia đình nào cơ, số câu nói ra đếm được trên đầu ngón tay.

Thẩm Hề không tiện nói lại, chỉ cười cười muốn cho qua chủ đề này.

“Năm ấy lần đầu tiên gặp cậu ba, là trên con tàu chuẩn bị rời bến, anh ấy đích thân đến tiễn tôi và Cố Nghĩa Nhân.”

Anh đích thân đi tiễn ư?

Thẩm Hề nhớ lại ngày cô vội vã rời đi, muốn gặp anh một lần mà không thể.

“Ừ,” Uyển Phong như đang độc thoại: “Cũng không biết cậu ba đi thăm bạn cũ bao giờ mới về?

Thăm bạn cũ?

Thẩm Hề nhận ra mình không thể nói tiếp được nữa, mỗi câu của Uyển Phong đều là những chuyện cô chưa từng nghe thấy.

Để hiểu anh nhiều hơn, từ một Thẩm Hề không thích đánh bài cũng dần học cách tham gia. Từ tú lơ khơ đến bài Trung Quốc, chỉ cần bọn họ mở bàn chơi, cô sẽ đến xem học tán gẫu. Dần dà Cố Nghĩa Nhân cũng nói nhiều hơn với cô, đều là những chuyện cô mới nghe lần đầu.

Phó lão gia và cậu cả là chính khách, cậu hai là người tri thức, cậu tư học y. Còn cậu ba, vốn cũng làm trí thức, nhưng có người muốn nương nhờ cửa họ Phó, biếu rất nhiều cổ phiếu công ty và nhà xưởng. Mấy vị thiếu gia không có hứng thú gì với công thương nghiệp, cậu ba dùng tiền của anh em trong nhà thu mua tất cả cổ phiếu, rồi vay tiếp một triệu bạc trắng và trăm ngàn đồng bạc từ ngân hàng, tự mình kinh doanh công xưởng. Nhưng những việc này không cần Phó Đồng Văn đích thân làm, mà có người quản lý, cho nên việc kinh doanh này chỉ nên để người ngoài biết, không nên để người ngoài hiểu, Cố Nghĩa Nhân đương nhiên sẽ không tự nhiên mà tiết lộ. Cậu ba có tiền, mọi người đều biết, nhưng cậu ba rốt cuộc có bao nhiêu tiền, ma quỷ mới biết.

“Năm Quang Tự thứ ba mươi, có thể mượn ngân hàng nhiều bạc trắng như thế, cả thành Bắc Kinh chỉ có mỗi cậu ba thôi.” Cố Nghĩa Nhân rất sùng bái sự quyết đoán và tài năng của Phó Đồng Văn, trong lời nói của anh ta tràn đầy sự khâm phục.

Thẩm Hề nghe đến “Năm Quang Tự thứ ba mươi”, trái tim xao động.

Cô đặt lá bài trong tay xuống bàn: “Tôi thua. Được rồi, mọi người cứ chơi đi, tôi đi đọc sách.”

Sau đó mấy quyển “The Lancet” bị Trần Lận Quan phát hiện, anh ta bám dai như đỉa đòi mượn về. Thẩm Hề vốn không nỡ nhưng nghĩ Trần Lận Quan cũng vì nghiệp học nên đồng ý. Nhưng trước khi đưa cho anh ta, cô bọc sách cẩn thận, dặn đi dặn lại: Không được làm bẩn, làm rách, làm mất.

Tháng ngày chầm chậm trôi qua như thế, lại sắp đến một năm mới.

Căn phòng ở cuối hành lang lầu hai vẫn trống trải.

Từ Giáng sinh cho đến năm mới, các trường học, doanh nghiệp, công ty đều được nghỉ. Ba năm nay, vì chịu ảnh hưởng của gia đình Cơ Đốc giáo nên tín ngưỡng của Uyển Phong thay đổi theo, trước tiên là lễ phép đồng ý những lời mời, rồi rất thích thú với những hoạt động náo nhiệt trong ngày lễ. Năm nay Uyển Phong bắt đầu nói với cô, có lẽ cô ấy thật sự cần tín ngưỡng tôn giáo. Khi Uyển Phong nói câu này, cô ấy còn băn khoăn: “Cậu ba…liệu có tức giận không nhỉ?”

Thẩm Hề không hiểu ý cô ấy.

“Cô quên rồi sao, cậu ba luôn dặn dò chúng tôi, không được để cô quá gần gũi với gia đình Cơ Đốc giáo.” Uyển Phong nhắc nhở cô.

“Tôi thấy ý anh ấy là, sợ họ quá nhiệt tình mời lưu học sinh đến, sẽ ảnh hưởng đến việc học của Thẩm Hề?” Cố Nghĩa Nhân đoán.

“Ảnh hưởng cái gì?” Uyển Phong dở khóc dở cười, “Hiếm khi cậu ấy chơi bài với chúng ta, cũng phải sám hối vì “phạm lỗi” ư?”

Thẩm Hề bị chọc cười: “Hai người cứ đi đi, tôi thu dọn nhà cửa đây.”

Cô nhớ ra cửa sổ cuối hành lang đã lâu không động tới, nên định lau dọn. Dù sao cửa sổ ấy nằm ở sát phòng Phó Đồng Văn nên không thể để bẩn được. Sau khi Uyểm Phong và Cố Nghĩa Nhân đi, cô bưng một chậu nước sạch lên lầu hai dọn dẹp.

Cô lười đun nước nóng, nước trong chậu lạnh đến thấu xương, như ngâm trong tảng băng lớn. Cô chợt nhớ đến động thuốc phiện ấy, những cánh cửa sổ vĩnh viễn không nhìn thấy ánh mặt trời, bị khói thuốc hun đến đen xì. Ở nơi đó, ông chủ không cho họ lau kính.

Qua cửa sổ có thể nhìn thấy trong cửa hàng ở bên kia con đường, nam nhân viên tóc vàng cắt ngắn đứng đằng sau tấm kính, đang treo những món đồ trang trí lên cây cọ. Hôm nay là ngày ba mươi mốt, ngày mai là năm mới rồi.

Một chiếc xe lái vào cửa hàng, một người đàn ông tóc đen xuống xe.

Bàn tay cầm khăn của Thẩm Hề ngừng lại một giây, rồi lau mạnh lên tấm kính hai cái, muốn nhìn rõ người đàn ông đang vào cửa hàng. Rất giống bác sĩ Đàm bên cạnh Phó Đồng Văn. Một lát sau, người đàn ông ấy đẩy cửa ra, quả nhiên là anh ta. Người trên chiếc xe kia chắc chắn là Phó Đồng Văn.

Thẩm Hề bỏ khăn vào trong nước, bưng chậu đến nhà vệ sinh, đổ nước bẩn đi, không kịp rửa sạch chậu đã ném nó vào bồn nước. Thu dọn xong, cô thả lỏng hít một hơi, lần này không thể nhếch nhác như lần trước được. Trấn an bản thân mình xong, cô mới thay dép lê bằng đôi giày cao gót bằng da, đi xuống lầu.

Nhưng mới đi được nửa đường, thì nghe thấy tiếng cãi nhau ở cửa.

Thẩm Hề lao như bay xuống, thấy Phó Đồng Văn mặc đồ Tây vải dạ màu đen đứng trong phòng khách, quay người nhìn về phía cửa. Người xô xát là người làm của anh và một sinh viên trẻ tuổi. Tay sinh viên ấy cuộn lại thành nắm đấm, chỉ chực chờ ra tay với Phó Đồng Văn, nhưng bị cậu thiếu niên cản lại, phía sau còn có hai tôi tớ trung niên nữa, ba người vây kín anh ta trên hành lang.

“Trần Lận Quan?” Thẩm Hề thảng thốt.

“Thẩm Hề, tôi không nói chuyện với cậu,” Trần Lận Quan giãy giụa, chỉ tay vào Phó Đồng Văn: “Tôi muốn nói chuyện với anh ta.”

Một tay Phó Đồng Văn lấy chiếc mũ đen xuống, nhìn Thẩm Hề: “Em quen cậu ta à?”

“Là du học sinh Trung Quốc, cũng học y,” Giọng Thẩm Hề dần bé xuống, “Trần Lận Quan, trong thư em từng nhắc tới.”

Phó Đồng Văn nhớ ra người này, không tranh cãi với anh ta thêm: “Mời anh ta về đi.”

Rồi anh quay đầu lên lầu.

“Phó Đồng Văn,” Trần Lận Quan hét lớn, “Mày không biết tao, nhưng tao biết mày, cổ phiếu công ty than cha tao được đưa hết cho nhà mày, mày và cha mày, không, là mày! Là chính mày dùng thủ đoạn, ép cha tao viết đơn từ chức! Chính mày cướp cổ phiếu công ty cha tao!

Bước chân Phó Đồng Văn không dừng lại, thậm chí nét mặt anh không hề gợn sóng, đi lướt qua vai Thẩm Hề.

Bên ngoài đang có tuyết, giày da anh đi trên sàn để lại những dấu chân.

Cậu thiếu niên thấy Phó Đồng Văn lên lầu, bèn đẩy Trần Lận Quan ra, ngón tay gần như đánh trẹo khuôn mặt anh ta: “Nếu anh còn muốn về nước, thì lễ độ với cậu ba chút.” Nói xong, cậu ta đi theo Phó Đồng Văn.

Vì Thẩm Hề biết anh ta, cậu thiếu niên khi đi qua người Thẩm Hề cũng lạnh lùng liếc cô một cái.

Thẩm Hề không hề tức giận khi bị lườm, ánh mắt thấp thỏm nhìn trên lầu.

Cho đến hai người trung niên kéo Trần Lận Quan khỏi cửa, cô mới hoàn hồn chạy ra ngoài.

Vì Phó Đồng Văn dùng từ “mời”, đầy tớ trung niên không dám quá thô bạo, đẩy Trần Lận Quan đến đường thì dừng tay.

“Trần Lận Quan, lúc nãy cậu quá trớn rồi.” Thẩm Hề khẽ trách.

“Cậu và nhà họ Phó qua lại sao? Thẩm Hề, không ngờ cậu có quan hệ với nhà họ Phó!”

Thẩm Hề bất lực nhìn xung quanh, trước cửa cửa hàng bên kia đường, nhân viên tóc vàng đang nhìn bọn họ.

“Ừ, đúng vậy,” Cô nhanh chóng chất vấn, “Liên quan gì đến cậu sao? Cậu có quyền gì mắng chửi anh ấy ở nhà tôi?”

“Cậu là gì của hắn ta?” Trần Lận Quan tóm lấy điểm quan trọng.

Thẩm Hề bị hỏi cứng người.

“Ai ai nhà họ Phó không gian thì ác, cùng một bè lũ với quân Bắc Dương (2)! Cái tên Phó Đồng Văn đó nắm thế lực trong nhà, ép buộc cổ phiếu bao nhiêu công ty, cậu biết không? Hắn ta dồn bao nhiêu thương nhân táng gia bại sản, cậu biết không?”

Trong tai Thẩm Hề vang lên ong ong, dùng sức đẩy anh ta ra: “Cậu đi đi.”

Một chiếc xe ngựa đi qua, người đánh xe và cô gái trên xe đều tròn mắt nhìn hai người đang cãi nhau.

Cô không hề hiểu gì về Phó Đồng Văn, trừ việc anh cứu cô, trừ việc anh giúp đỡ Uyển Phong và Cố Nghĩa Nhân, những chuyện khác chưa ai nói với cô. Nên cô không thể thanh minh thay anh, nhưng cô nghe anh ta nói mà tức giận run người: “Còn nữa! Cậu nhớ không, Lancet là anh ấy mang tới cho tôi, bình thường cậu đi xem người khác làm phẫu thuật ngoại khoa, tiền đưa cho người ta cũng từ anh ấy ra!”

Trần Lận Quan sững người bởi những câu cô nói, gương mặt đỏ bừng, đôi mắt cũng đỏ quạch vì giận dữ. Anh ta lấy mấy quyển tạp chí được bọc giấy báo cẩn thận trong ngực ra, ném mạnh xuống đất: “Không ngờ, cậu lại là người như thế.”

Tạp chí bung khỏi tờ báo, rơi vào nước tuyết lầy lội.

Thẩm Hề đẩy Trần Lận Quan ra, nhặt những quyển tạp chí lên, chạy thẳng về nhà trọ mà không ngoái đầu lại.

“Thẩm Hề!” Trần Lận Quan buột miệng gọi tên cô.

Tôi tớ đứng ở cửa cản anh ta lại, không cho anh ta cơ hội bước vào nửa bước.

Thẩm Hề ôm tạp chí, từ phòng khách chạy lên lầu.

Khi đến cầu thang lầu hai, Phó Đồng Văn đang đứng ở cuối hành lang, tay trái đút vào túi quần tây, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Tư thế “cậu ấm” này rất giống mấy người bạn của anh ngày ấy, thoạt nhìn ai cũng ôn hoà, nhưng thật ra “ôn hoà” của họ là nhìn từ trên cao xuống, mang theo sự lạnh lùng và từ bi của người xem kịch. Cứ tưởng rằng mình có thể lọt vào mắt họ, nhưng có lẽ chỉ là một người trong kịch để mặc họ bình phẩm, thưởng thức.

Phó Đồng Văn nghe thấy tiếng bước chân, bèn quay đầu lại.

Khoảng cách rất xa, cô không nhìn rõ vui buồn của anh: “Vừa rồi, xin lỗi.”

Phó Đồng Văn không cảm kích, giọng nói không hề vui vẻ: “Sao em phải xin lỗi thay người ta?”

Nếu không phải vì cô, Trần Lận Quan sẽ không biết căn nhà này, hôm nay sẽ không bất ngờ xảy ra ầm ĩ. Thẩm Hề ôm tạp chí, lòng vẫn âm ỉ đau, không dám để Phó Đồng Văn nhìn thấy tờ bìa bị bẩn. Đây là những quyển tạp chí được xếp ngay ngắn trong hành lý của anh, vượt biển cả nghìn trùng để đến được đây. Tròng trành trên biển, mưa gió đường dài không làm nó sứt mẻ. Thế nhưng ở bên ngoài nhà trọ, nó lại bị chà đạp đến nông nỗi này.

Bốn bề khốn đốn (3), tuy kẻ địch chỉ có một, nhưng giờ này phút này, cô cảm thấy cả thế giới đều coi mình là địch. Cô là Tây Sở Bá Vương bị ép lùi đến bờ sông…Hoặc là Ngu Cơ…không đẹp đến thế.

“Vào thay quần áo đi.” Anh nói.

Lời vừa dứt, Thẩm Hề cúi đầu nhìn, hoá ra quần áo bị nước bùn trên tạp chí làm bẩn rồi.

Hoá ra, anh đã nhìn thấy tạp chí không còn sạch sẽ.

Cô cúi gằm, cổ như bị ngàn cân đè lên, miệng nín thinh.

Ngược lại Phó Đồng Văn không tức giận, anh không bao giờ đặt tình cảm lên những vật ngoài thân, huống chi chỉ là mấy cuốn tạp chí.

“Hôm nay không cần làm bài tập nhỉ?” Anh hỏi.

“Vâng.” Cô nghe thấy câu trả lời của mình.

“Vậy chúng ta đi đón năm mới.”

“Đi đâu ạ? Có cần chú ý việc gì không ạ?” Thẩm Hề nhìn anh, vì muốn đền bù việc ban nãy, nên càng căng thẳng hơn, “Nhưng em không có quần áo đẹp, làm sao đây? Nơi cần đến, hoặc người cần gặp có quan trọng không ạ?”

“Đến một nơi không có ai chú ý đến em và tôi.” Anh đáp lại.

(1) The Lancet: là một tuần san y khoa tổng quan đánh giá đối chiếu hàng tuần. Đây là một trong những tập san y khoa tổng quan và lâu đời nhất và được coi là một trong những tập san y khoa có uy tín nhất trên thế giới. The Lancet được bác sĩ phẫu thuật người Anh Thomas Wakley (1795-1862) lập ra vào năm 1823.

(2) Quân Bắc Dương: là lực lượng quân sự kiểu phương Tây do triều đình nhà Thanh thành lập vào cuối thế kỷ 19. Đây là lực lượng cốt lõi trong chương trình cải tổ quân đội của nhà Thanh. Quân Bắc Dương đã đóng một vai trò quan trọng trong nền chính trị Trung Quốc suốt khoảng 3 thập kỷ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Nó tạo điều kiện cho cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 thành công và tạo ra tình trạng cát cứ ở Trung Quốc bởi các quân phiệt.

(3) Câu gốc là “Tứ diện Sở ca”: Dựa theo tích Hạng Vũ bị Lưu Bang đem quân bao vây, nửa đêm nghe thấy xung quanh vang lên toàn các điệu dân ca nước Sở, Hạng Vũ và binh sĩ hết sức kinh ngạc, nghĩ Lưu Bang đã đánh chiếm quê họ, và bắt nhiều người thân ở quê, hơn nữa tiếng hát quen thuộc này cũng gây nên lòng nhớ nhung quê hương của binh sĩ. Lúc đó, tinh thần binh sĩ của Hạng Vũ bị dao động, nhiều binh sĩ chạy trốn nhân lúc trời tối, 100 nghìn quân chỉ còn lại mấy trăm. Cuối cùng, Lưu Bang giành được thắng lợi cuộc chiến ở Cai Hạ, Hạng Vũ buộc phải tự tử ở bờ sông Ô Giang.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.