Mười Hai Năm Kịch Cố Nhân

Chương 20



Nhân Tế là nơi cô nghĩ tới đầu tiên.

Thế là cô quyết định đi luôn.

Tòa nhà Nhân Tế to hơn cô nghĩ rất nhiều, đông như trẩy hội. Cô bước vào đại sảnh bệnh viện, tìm một y tá, hỏi thăm nơi này có ai tên “Tiền Nguyên” hay không. Người nọ nghi hoặc lắc đầu, nói rằng Nhân Tế không có người này.

Chẳng lẽ nhớ nhầm tên bệnh viện? Không đâu, bệnh viện nổi tiếng như thế, nghe một lần thì không quên được.

Thẩm Hề ngẫm nghĩ, lại hỏi y tá đó, khoa Ngoại có bác sĩ nào vừa mới xuống tàu trở về không? Hai người, một người Anh, một người Trung Quốc. Nói đến đây y tá mới mỉm cười đáp rằng có.

Thẩm Hề vội vàng đưa hộp thuốc lá cho y tá, người nọ cũng nhiệt tình dặn cô chờ ở đại sảnh.

Một lát sau, người Anh nọ tươi cười bước ra.

“Tôi dẫn cô đi tìm anh ta.” Người Anh nói, đưa cô lên tầng hai tìm cái người tên “Tiền Nguyên” ấy. Lên tầng, vừa đúng lúc bóng chiều râm mát, ánh nắng không đủ, hành lang lại không bật đèn nên hơi tối. Gạch men trên sàn đều mới lát, lóe sáng trong nơi âm u.

Người Anh đẩy một cánh cửa ra.

Trên mặt đất bên trong căn phòng phủ toàn giấy trắng tinh. Một người đàn ông quỳ trên sàn quay lưng về phía họ sắp xếp tài liệu, nghe thấy tiếng động bèn quay đầu, nhìn thấy Thẩm Hề, lập tức cười nói:”Quả nhiên cô đã tới.”

“Tôi tới rồi, nhưng suýt bị người khác tưởng là kẻ lừa đảo.” Cô “lễ phép” trả lời.

“Lừa đảo?” Người đàn ông sực tỉnh, đứng thẳng người dậy, “Ồ đúng rồi, tôi dùng tên giả với cô.”

Anh ta lại cười, lấy khăn lông ướt lau sạch tay rồi mới đưa tay phải ra, chính thức giới thiệu bản thân:”Kẻ hèn này họ Đoàn, Đoàn Mạnh Hòa.”

Thẩm Hề bắt tay với anh ta lấy lệ.

“Trước tiên, tôi xin được xin lỗi.” Đoàn Mạnh Hòa chỉ vào ghế sô pha, “Ngồi xuống đã, tôi sẽ cho cô một lời giải thích hợp lý.”

Tuy rằng bị cô lừa, nhưng ngẫm lại mình cũng dùng tên giả, cũng từng nói dối mình và Phó Đồng Văn là vợ chồng. Hai bên hòa nhau, cô còn lừa anh ta nhiều hơn nên cũng không thực sự tức giận, ngồi xuống sô pha theo ý anh ta.

Đoàn Mạnh Hòa tiễn đồng nghiệp người Anh đi, lúc quay về còn cố ý chốt cửa lại, đưa cho cô tách trà.

Anh ta ngồi xuống cái ghế trước mặt Thẩm Hề, nụ cười dần tan biến, dường như đang suy nghĩ xem nên giải thích thế nào vừa ngắn gọn vừa hợp lý.

“Trên chuyến tàu ấy, vị tiên sinh bên cạnh cô Thẩm bị bệnh tim khá nặng, mang thân phận du học sinh, hơn nữa còn họ Phó, nhà ở thành Bắc Kinh, tôi đoán anh ta chính là cậu ba Phó, đúng không?”

Thẩm Hề khẽ nhếch môi:”Nếu anh muốn hỏi dò về anh ta, tôi xin phép đi luôn ngay bây giờ.”

Đoàn Mạnh Hòa lắc đầu:” Nghe tôi nói đã. Tôi giấu tên thật của mình, bởi vì đoán anh ta là Phó Đồng Văn.” Anh ta ngừng lại trong giây lát rồi nói tiếp:”Thật ra tôi và nhà họ Đoàn có quan hệ thân thích, Đoàn Kỳ Thụy (1)… chắc cô nghe thấy cái tên này rồi.”

(1) Đoàn Kỳ Thụy (1865-1936) là một quân phiệt và chính khách quan trọng của Trung Quốc cuối thời Thanh và đầu thơi Dân Quốc. Ông từng đảm nhiệm vị trí chỉ huy trưởng quân đội Bắc Dương và là đại tổng thổng tạm quyền của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Bắc Kinh trong giai đoạn 1924-1926.

Cánh tay đắc lực của đại tổng thống Viên? Thẩm Hề thảng thốt.

Vậy xem ra nhà anh ta và nhà họ Phó đều thuộc phái quân Bắc Dương, cùng phe cùng phái với nhau, hà cờ gì làm như không quen biết?

“Tôi rất sợ chuyện mình ở Thượng Hải bị gia đình biết được, họ vẫn nghĩ rôi đang ở nước ngoài nghiên cứu chuyên sâu.” Đoàn Mạnh Hòa cười đầy bất lực, “Vì vậy tôi mới nói dối các cô, cô Thẩ, xin lỗi.”

“Anh về nước không thông báo cho người nhà ư?”

“Về nước năm năm, chưa một lần về nhà.” ANh ta đáp, “Cho nên hy vọng cô có thể hiểu nỗi khổ của tôi.”

Lời này rất nặng nề.

Thẩm Hề khẽ lắc đầu:”Tôi không tức giận, Đoàn tiên sinh không nói xin lỗi mãi thế.””

“Vậy tốt quá.” Đoàn Mạnh Hòa nhẹ nhõm hẳn, “Nào, giờ đến lượt cô. Cô thay đổi ý định, muốn đến Nhân Tế sao?”

“Cũng không hẳn.”

“Vậy thì?” Anh ta cười tủm tỉm nhìn Thẩm Hề, “Tại sao?”

“Tôi chỉ có ba tháng ở Thượng Hải, muốn tìm việc làm nên đến đây tự tiến cử.” Cô nhìn đống giấy chất cao như núi trên sàn, trên đó là tiếng Anh, “Anh cần trợ lý không? Một trợ lý là sinh viên khoa Y, thông thạo tiếng Trung lẫn tiếng Anh, Trung y cũng biết sơ sơ.”

Đoàn Mạnh Hòa đôi phần cảm thấy bất ngờ, nhưng rất vui vẻ:”Đương nhiên.” Anh ta chỉ đống giấy cao ngất ngưởng vè túi tài liệu trên sàn, “Tôi đang phát sầu vì mấy thứ này, chắc chắn cô là thiên thần được ông trời phái xuống cứu tôi rồi.”

Trên sàn là bênh án và ghi chép sau phẫu thuật mà các khoa lưu trữ lại.

Vì Nhân Tế sắp chuyển tới tòa nhà mới nên những tài liệu này được lôi ra, phải sắp xếp lại từ đầu. Viện trưởng vôn muốn giao cho nhóm bác sĩ điều trị, nhưng người trong bệnh viện đã thiếu, đến thời gian làm việc cò không đủ, nào có ai rảnh rang mà sắp xếp tài liệu tồn đọng. Bởi vậy vấn đề nan giải này được vứt cho Đoàn Mạnh Hòa vừa mới đến Thượng Hải.

Ở Thượng Hải, một người vừa biết tiếng Anh vừa biết y học là nhân tài khó tìm, dù tìm thấy thì người ấy cũng muốn làm bác sĩ chứ không phải là trợ lý và thư ký chuyên lo tài liệu.

Vậy mới nói, Thẩm Hề chính là thiên thần.

Thiên thần đến cứu anh ta.

“Ở đây, có tài liệu của khoa Xương không?” Thẩm Hề cảm thấy rất hứng thú.

Thời gian ba tháng không đủ làm một nghề tử tế, nhưng công việc này vừa hay lại phù hợp.

“Có lẽ cô phải thất vọng rồi, cho đến hôm nay, trong nước vẫn chưa có bệnh viện Tây y nào có chuyên khoa xương.” Đoàn Mạnh Hòa mỉm cười giải thích, “Người dân vẫn tin vào Trung y hơn.”

Hóa ra là thế.

Cô hiểu rất rõ, kinh nghiệm lâm sàng là tài nguyên quan trọng nhất.

Vì vậy những bệnh án này cũng rất quý báu với cô, kinh nghiệm lâm sàng đều ở đây, là những giáo trình bổ ích nhất.

Thẩm Hề vui vẻ nhận công việc này, cũng là công việc đầu tiên trong cuộc đời cô.

Và cô không muốn lãng phí cơ hội có được ở bệnh viện Nhân Tế. Sau khi được Đoàn Mạnh Hòa đồng ý, mỗi ngày cô đều mang một ít giấy tờ về nhà, những chỗ không hiểu thì ngày hôm sau mang tới bệnh viện hỏi. Làm như vậy, ban ngày cô vẫn còn thời gian đi theo bác sĩ người Anh thực tập ở khoa Ngoại, chẩn đoán hoặc thăm phòng bệnh. Nếu như không có chuyên khoa Xương thì khoa Ngoại cũng không quá lệch hướng với những gì cô học ở New York.

Vả lại ở Nhân Tế, không ít bác sĩ phải luân chuyển các khoa khác nhau.

Đoàn Mạnh Hòa nói anh ta từng làm việc ở khoa Nội, khoa Ngoại và khoa Nhi, thậm chí là khoa Sản.

“Luân chuyển phòng ban sẽ giúp bác sĩ hiểu sâu hơn về y học lâm sàng.” Anh ta giải thích như vậy.

Trong đống tài liệu có rất nhiều bệnh án từ mấy mươi năm trước, nét chữ viết ngoáy. Đoàn Mạnh Hòa bàn bạc với cô, hy vọng cô chịu khó sao chép lại một bản để người khác tiện tìm đọc. “Không sao, anh lo tìm mực đi.” Cô nhận lời.

Vậy nên, tháng Tám năm 1915, bầu bạn lâu nhất bên cô mỗi tối không phải Phó Đồng Văn mà là cây bút máy anh tặng

Một buổi tối, lọ mực đã cạn, nhưng vẫn còn nửa trang giấy chưa sao chép xong.

Cô muốn làm xong rồi mới ngủ nên đi khắp nhà tìm mực, nghĩ bụng anh từng sống ở đây thì chắn hẳn có văn phòng phẩm. Đồ đạc Phó Đồng Văn đều được xếp trong một góc ở tầng một, hòm gỗ không khóa, mở thử hai cái, đều là sách.

Trong tủ cô tìm thấy mấy quyển nhật ký, là món đồ rất riêng tư…

Thẩm Hề không nhìn nhiều, để nguyên vị trí của rồi tìm góc bên phải chiếc tủ,thoáng nhìn thấy xấp thư.

Phong thư phía trên cùng có mấy dòng chữ xinh đẹp, viết bằng kiểu chữ tiểu khải… Thân gửi Đồng Văn.

Đêm khuya bỗng nhiên nhìn thấy thứ này, giống như một con quỷ đùa dai đang rêu rao trong lòng, lượn qua lượn lại, bám dính lấy cô, thủ thỉ bên tai cô rằng:”Đọc đi, đọc đi, không sao đâu.”

Ngón tay Thẩm Hề chần chừ lúc lâu trên sợi dậy buộc xấp thư, lén lút đọc bìa ngoài phong thư thứ hai, phong thư thứ ba, nét chữ rất giống nhau, rõ ràng đều được gửi từ một cô gái. Con quỷ ấy lại thì thầm thúc giục, cuối cùng Thẩm Hề dứt khoát nhét thư về chỗ cũ, đóng tủ lại.

Không được phép nhìn, không được phép đọc, không được phép nghĩ thêm.

Cô xỏ dép chạy lên tầng, chưa được mấy bước thì quay trở lại, tắt đèn.

Trở về căn phòng trên tầng hai, cô mặc kệ chuyện hôm nay chớ để ngày mai, quyết định đi ngủ luôn.

Ba tháng sau.

Lọ mực rỗng đã chất đầy bàn sách.

Thẩm Hề không vứt chúng đi mà giữ lại làm kỉ niệm, thế nên đặt những lọ mực đã dùng xong lên giá sách.

Ngày nào cô cũng tính, tính đến ngày cuối cùng.

Cô đã sắp xếp xong tất cả văn bản, bệnh án trong phòng làm việc của Đoàn Mạnh Hòa, còn phân loại ghi chú rõ ràng cho anh ta. Ngày đưa tài liệu đến tay Đoàn Mạnh Hòa, cô cò có chút không nỡ. Cô chỉ sợ anh ta không hiểu nên kiên nhẫn giải thích từng trang một.

Đoàn Mạnh Hòa là người rất thích nói đùa, nhưng hôm ấy lại cực kì kiệm lời, chỉ nghe cô nói.

Cuối cùng cô đặt chìa khóa phòng làm việc bằng đồng lên bàn:”Đoàn tiên sinh, anh phải ăn sáng đúng giờ đấy.”

Một mặt nào đó Đoàn Mạnh Hòa gần giống cô, mỗi khi tập trung vào công việc đều sẽ quên ăn quên ngủ. Thời gian dùng cơm của bác sĩ điều trị ở đây rất chặt chẽ, nhưng Đoàn Mạnh Hòa là bác sĩ điều trị chính, không bị ràng buộc, vậy mà cuộc sống sức khỏe còn không bằng bác sĩ thông thường khác.

Quy định cứng nhắc thỉnh thoảng vẫn có tác dụng.

“Tôi luôn muốn hỏi cô.” Đoàn Mạnh Hòa mở ngăn kéo, cất chìa khóa vào, “Cô và Phó tiên sinh là vợ chồng giả phải không? Hay là gì khác?”

Phó Đồng Văn từng căn dặn cô, tuyệt đối không được nói cho người ngoài biết về mối quan hệ giữa hai người.

Cô im lặng trong giây lát mới nói:”Là người nhà, anh ấy là người nhà của tôi. Tôi là trẻ mồ côi, không có gia đình, anh ấy là người thân duy nhất.”

Anh ta ngạc nhiên:”Cô chưa từng nhắc tới bao giờ.”

Nhắc thế nào? Thẩm Hề cuối đầu cười:” Anh có gia đình mà không muốn về, nhưng luôn có một cánh cửa, một ngọn đèn đang chờ anh. Còn tôi thì khác, tôi từng sống ở New York, Thượng Hải, Quảng Châu, sống ở đâu cũng không khác gì trên biển, người ta gọi là lang bạt.”Cô ngẫm nghĩ rồi tiếp tục, “Đương nhiên, tôi có thể nuôi sống chính mình, chứ không muốn ỷ lại vào người nhà. Hơn nữa còn là người trong lòng.”

Khi chán nản nhất, lý tưởng chẳng là gì cả, khi tâm hồn và thể xác đều mệt mỏi, dù không còn sức lực trở về nhà, dù chết mất xác giữa đường thì cũng phải biết có một nơi thuộc về riêng mình.

Cô cười:”Anh không hiểu hết đâu, ít nhất hãy thông cảm cho tôi nhé?”

Không tự mình trải qua, sẽ không thấu hiểu nổi.

Thẩm Hề nói xong bèn ra dấu tạm biệt, Đoàn Mạnh Hòa tỏ ý muốn tiễn cô.

“Tiễn đến cổng thôi nhé?” Thẩm Hề nói. Với người đàn ông vừa là thầy vừa là bạn này, từ lúc gặp gỡ đến giờ cô luôn giữ bí mật của mình. Về chỗ ở, về Phó Đồng Văn, về bản thân cô, không tiết lộ nửa câu.

Đoàn Mạnh Hòa cười đáp:”Ừ, đến cổng thôi.”

Anh ta nói được làm được, không nuốt lời, đưa cô đến cổng bệnh viện thì dừng chân.

Bên trái cổng bệnh viện có bà lão bán hoa ngồi xổm trên nên đất, bên chân đặt cái giỏ, phía trước trải tấm vải thô màu xanh da trời, từng nụ hoa nho nhỏ được xếp ngay ngắn trên tấm vải, mỗi nụ hoa đều dùng sợi dây mảnh buộc lại.

“Hoa dành dành, hoa lan trắng, mỗi bông năm xu tiền Tây.” Bà lão hỏi trong gió thu, “Tiên sinh, mua một bông tặng cô ấy nhé?”

Đoàn Mạnh Hòa trầm ngân, rút ví ra.

Thẩm Hề sợ anh ta tốn kém, nhanh chóng đếm năm đồng xu rồi đặt lên tấm vải, cầm một bông hoa lan trắng lên.

Cô từng thấy bà Chúc cài loài hoa này trên cúc áo dọc vạt áo, khi đi đến gần, mùi hương say đắm lòng người. Nhưng bây giờ đang cuối thu, trên người mặc áo khoác to sụ, không tiện cài lên vạt áo, vì vậy cô cầm bằng ngón trỏ, nắm hờ trong lòng bàn tay, làm vậy trên đường về có thể giữ lại mùi hoa lan trên tay, trong ống tay áo. Mang theo mùi hương này đi gặp anh… cũng thật ngọt ngào.

Thẩm Hề nóng lòng về nhà, bèn chào từ giã:”Đoàn tiên sinh, tạm biệt.”

Đoàn Mạnh Hòa nhìn cô, không cười:”Tạm biệt”

Khi quay đầu bước đi, cô chợt nghe thấy anh ta cất tiếng:”Mùa thu Bắc Kinh lạnh, cô mặc phong phanh quá.”

Thẩm Hề “ừ” một tiếng, bước tiếp mà không ngoảnh đầu lại.

Đoàn Mạnh Hòa mặc áo khoác dạ màu đen, không cài cúc, bần thần đứng trước cổng bệnh viện hồi lâu.

Cho đến khi bóng lưng cô hoàn toàn biến mất, anh ta vẫn chưa đi vào.

Bà lão lẩm bẩm:”Tiên sinh à, câu nên trả tiền mới đúng. Trả tiền rồi, cô gái ấy mới hiểu tấm lòng của cậu”

Hiểu thì sao? Anh ta tự giễu:”Có một số mối quan hệ, tốt nhất là không nên thẳng thắn.”

Sao mà đúng với câu: Muốn nói lại thôi, muốn nói lại thôi, chỉ rằng: Trời mát, mùa thu đẹp (1).

(1) Câu thơ trong bài Thái tang tử của Tân Khí Tật.

Thẩm Hề về đến nhà, trời vẫn chưa tối.

Cô không lên tầng hai mà ngồi dưới tầng một chờ đợi, vali đã được đặt bên cửa từ lâu, sẵn sàng để bất cứ lúc nào cũng có thể xách lên và đi.

Cô chống cằm, ngồi trước cửa phòng bếp, chiếc mũ rộng vành được đặt trên đầu gối, trên người mặc áo khoác, dựa lưng vào cửa, vân vê bông hoa lan trong tay. Nghịch một lúc, cô lại ngửi lòng bàn tay rồi bật cười.

Những ngày ở Thượng Hải cô đã đọc rất nhiều báo, chuẩn bị rất nhiều lời để nói, đủ để trò chuyện với anh ba ngày đêm.

Mới đầu, trong phòng vẫn còn ánh nắng buổi xế chiều, lúc sau là ánh đèn bên nhà hàng xóm, cuối cùng chỉ còn lại ngọn đèn chưa tắt trong sân nhà đối diện. Đến khi ngọn đèn ấy tắt ngúm, xung quanh cô đều là bóng đêm.

Trời tối rồi.

Cô ngồi bên cửa, trong lòng dâng lên nỗi chán nản không nói thành lời.

Trên mặt đất là ánh trăng.

Vừa đói, vừa mệt, thấp thỏm chờ từ lúc hoàng hôn đến đêm khuya, ngón tay không buồn cử động. Cô đành phải tựa người vào khung cửa phòng bếp, nhắm mắt lại nghỉ ngơi. Không dám lên tầng, sợ mình ngủ quên mất không nghe thấy tiếng người tới đón.

Trong hốt hoảng, không gian thời gian vỡ thành những mảnh vụn nhỏ, bay lượn trong đầu.

Hình ảnh từ Quảng Châu quay ngược trở lại, về đến trên tàu, về lại New York, cuối cùng trở về ngôi nhà họ Phó. Ngày hôm ấy, anh chị em họ cùng tập trung ở đại sảnh… “Anh cả à, vạn việc không bằng chén trên tay, đời mấy khi thấy trăng trên đầu.” Phó Đồng Văn của thuở ấy phong lưu, khi nói chuyện khóe miệng còn hơi nhếch lên thành nụ cười châm biếm và rẻ rúng, từ đáy mắt lan tới tận chân mày.

Thẩm Hề giật mình tỉnh lại vì tiếng gõ cửa gấp gáp.

Cô lật đật bò dậy, mặc kệ chiếc mũ rơi trên mặt đất, xông tới mở cửa.

Trong ánh nắng chói mắt, người đừng bên ngoài là Đoàn Mạnh Hòa.

Anh ta vẫn mặc áo khoác dạ của ngày hôm qua, hình như vẫn chưa về nhà thay quần áo. Thẩm Hề nhìn rõ gương mặt này, trong lòng nặng trĩu:”Đoàn tiên sinh?” Cô giả vờ ung dung hỏi, “Anh.. sao anh biết tôi sống ở đây?”

“Xin lỗi, trước đây tôi từng đi theo cô.” Đoàn Mạnh Hòa thấp giọng hỏi:”Cô về nhà từ chiều hôm qua, đến giờ đã gần hai mươi tiếng đồng hồ, buối tối không nhìn thấy nhà bếp sáng đèn, cũng không thấy cô mang đồ ăn về. Có đói không?””

Phản ứng của Thẩm Hề hơi chậm:”Không… Không đói lắm.”

“Hôm qua cô nói phải đi rồi mà? Nhưng người đến đón cô vẫn chưa tới ư?”

Cô đang lo lắng Phó Đồng Văn, nghe thấy câu hỏi của anh ta, trái tim bỗng run lên, vội vàng cúi đầu che giấu cảm xúc, mỉm cười:”Tôi đâu có nói là hôm qua, có lẽ là hôm nay. Thời buổi rối ren, chậm một, hai ngày cũng là bình thường.”

Hàng xóm bên ngoài đi qua, nhìn nhìn ngó ngó bóng lưng Đoàn Mạnh Hòa, vì đây là người khách đầu tiên đến nhà Thẩm Hề.

“Tôi có thể vào không?” Đoàn Mạnh Hòa thấy sắc mặt cô rất kém, bèn nhẹ nhàng hỏi.

Vào được không? Thẩm Hề lưỡng lự, cô nhìn xung quanh nhà mình:”Hình như không tiện lắm.”

“Thế thôi vậy.” Đoàn Mạnh Hòa cũng không làm khó cô.

Anh ta mang bữa sáng tới, sandwich kiểu Tây.

Mới đầu Thẩm Hề không nhận, nhưng anh ta nói mấy tháng trong bệnh viện, Thẩm Hề hay đưa bữa sáng cho anh ta, hôm nay coi như mời lại cô. Thấy anh kiên quyết, Thẩm Hề không tiện từ chối nữa bèn cảm ơn, ôm túi giấy vào trong lòng:” Đoàn tiên sinh, vẫn nên nói tạm biệt thôi.”

“Được… tạm biệt.” Đoàn Mạnh Hòa trả lời.

Thẩm Hề lịch sự gật đầu với anh ta, sau đó đóng cửa.

Nói chuyện với Đoàn Mạnh Hòa quá lâu, cô sức cùng lực kiệt, đứng cũng không vững, đến tầng trên, cô cởi áo khoác ra, treo lên móc áo rồi nằm rạp lên giường, ăn hai, ba miếng sandwich xong thì kéo chăn trùm người, ngủ thiếp đi.

Ba tháng là phòng tuyến tâm lý của cô.

Ngày cuối cùng trôi qua, tất cả nỗi lo lắng về Phó Đồng Văn đều trao dâng, cô vừa sợ vĩnh viễn không nhận được tin tức của anh, vừa sợ khi nhận được lại là tin anh không còn nữa. Tâm ma giày vò cô, không còn sự bình yên của ba tháng qua, càng không còn lòng tin với Phó Đồng Văn.

Đến Bắc Kinh tìm anh ư? Ngộ nhỡ anh đang trên đường đến đây thì sao?

Trước kia cô nghĩ rằng, dù hơn ba tháng vẫn có thể chờ đợi, nhưng đến bây giờ, tâm trạng cô như kiến trên chảo nóng.

Sức khỏe của anh, nơi đang giam giữ anh, điều anh muốn làm, mỗi một thứ đều ngập tràn nguy hiểm. Chỉ cần nghĩ tới chuyện anh có thể sẽ chết hoặc đã chết, cả người cô đều lạnh run.

Người ngâm trong bồn ngập nước nóng, mà như đang ngủ trên tảng băng.

Một ngày, hai ngày…

Cô lại chờ thêm mười mấy ngày trong vô tri vô giác.

Vẫn không có tin tức của Phó Đồng Văn.

Một buổi sáng, cô tắm rửa, nhìn khuôn mặt mình trong gương, thấy gầy xọp hẳn đi. Người trong gương không còn nét bầu bĩnh trẻ con, đôi mắt trông to tròn hơn, người thật và cái bóng nhìn nhau.

Hình như tầng dưới có người gõ cữa?

Cô sực tỉnh, không kịp khoác thêm áo ngoài, mặc áo ngủ chạy xuống.

Cô thở hổn hển mở chốt, cười rạng rỡ kéo cửa ra.

Giấy phút nhìn thấy người bên ngoài, cô cứ ngỡ mình gặp ảo giác, trái tim lạnh buốt:”Đoàn tiên sinh…”

Gió lạnh tháng Mười một lùa vào qua cánh cửa mở toang, lần này Đoàn Mạnh Hòa không hỏi ý Thẩm Hề, đỡ lấy vai cô nhường đường cho mình bước vào rồi trở tay đóng cửa.

“Đoàn tiên sinh, anh muốn làm gì?” Thẩm Hề lùi lại một bước, đầu đụng phải cầu thang gỗ.

“Đừng sợ, cô nghe tôi nói đã.” Đoàn Mạnh Hòa vội vã rút một tờ điện báo trong ngực áo ra, “Cô cứ chờ tiếp thế này sẽ suy sụp đấy, cô đã chờ trong nhà ba mươi ngày rồi.”

“Liên quan gì đến anh?” Tâm trạng tệ hại của Thẩm Hề hoàn toàn bùng nổ, vừa rồi cô chạy xuống tầng, tràn trề hy vọng bao nhiêu thì bây giờ lại ê chề thất vọng bấy nhiêu, “Xin anh đừng tự tiện tới đây nữa, được không? Đây là nhà của tôi và anh ấy.”

“Thẩm Hề.” Đoàn Mạnh Hòa tiến lên một bước, “Cô đọc điện báo đi đã, đây là do người nhà tôi gửi tới, có tin tức liên quan tới anh ta.”

Thẩm Hề sững người.

Đoàn Mạnh Hòa kéo tay cô, đặt điện bao vào lòng bàn tay:”Người cô đang chờ ở Bắc Kinh.”

Thẩm Hề không còn nghĩ tới điều gì khác, mở điện báo ra, bên trên chi chít những con số, cứ mỗi bốn chữ số bên cạnh lại có một chữ Hán viết tay, là lời dịch của tờ điện báo.

Cô gấp gáp lướt mắt, nối lại thành một câu:


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.