Mùa Hè

Chương 5



Chưa bao giờ có một tháng Sáu như vậy ở hạt Eagle. Thường thường đó là một tháng của những trạng thái, với sự luân phiên thay đổi đột ngột của những đợt lạnh giá muộn màng và cái nóng giữa mùa hè. Năm nay, ngày qua ngày thời tiết nằm trong vẻ đẹp ôn hòa. Mỗi buổi sáng, có một cơn gió nhẹ không ngừng thổi từ trên đồi xuống, về chiều, trời tạo nên những bức màn mây trắng, tỏa bóng mát dịu xuống những cánh đồng và những rừng cây; rồi trước khi hoàng hôn buông xuống, những cụm mây lại tan ra và ánh sáng trong suốt phía tây tràn ngập vùng thung lũng.

Vào một buổi chiều như vậy, Charity Royall nằm lên một mỏm đá trên một thung lũng chan hòa ánh sáng, nàng úp mặt xuống đất và nghe hơi ấm từ cỏ chạy cùng khắp thân thể. Trong tầm mắt, nàng thấy một nhánh cây dâu đen phơi những cánh hoa trắng mỏng và những chiếc lá xanh vươn lên trời. Ngay ngoài kia, một chòm dương xỉ thơm đang nẩy mầm trong đám cỏ, và kìa một con bướm vàng rập rờn trên đó như một vệt nắng. Đó là tất cả những gì nàng thấy, rồi nàng nghĩ đến những gì đang ở quanh nàng, nào là những cây sồi to lớn bao phủ chỏm đá, nào là những cây vân sam hình nón có màu xanh nhạt lượn tròn với vô số nhánh, kia là những cây dương xỉ hình lá lược mọc đầy trong các khe trên dốc đá dưới rừng cây, xa xa là những mầm cây râu dê mọc thành nhóm và những cây i-rít vàng trên đồng cỏ bên dưới. Tất cả những nhựa cây, và vô số đài hoa đã mang đến cho nàng mùi thơm phưng phức được hòa trộn. Mỗi một chiếc lá, mỗi một nụ hoa, mỗi một gân lá dường như đóng góp vào cái mùi ngọt ngào đê mê quyến rũ. Mùi cay cay của rau húng, mùi nhựa thông cho đến mùi hương của cây dương xỉ hòa quyện trong mùi đất ẩm, giống như hơi thở của một con vật khổng lồ đang nằm sưởi ấm dưới ánh nắng mặt trời.

Charity đã nằm ở đó một lúc lâu, bất động. Mặt trời ấm lên trên dốc đá nơi nàng nằm, một con bướm đang tung tăng giữa hai mắt nàng và kia là một chân của người đàn ông trong một chiếc ủng to, mòn, dính đầy đất đỏ.

“Ôi, đừng!” – nàng la lên, nhổm người lên trên khuỷu tay và dang một bàn tay ra để cảnh cáo.

“Đừng cái gì?” – một giọng nói cộc cằn phát ra phía trên đầu nàng.

“Đừng giẫm lên những bụi hoa mâm xôi đó, đồ ngu!” – nàng nhanh nhẩu, lắc lư hai đầu gối. Cái chân dừng lại và rồi để xuống một cách vụng về trên cành cây mỏng nhỏ. Khi nhướn cặp mắt lên, nàng thấy gương mặt ngơ ngác của một người đàn ông luộm thuộm có bộ râu mỏng, cháy nắng và đôi cánh tay trắng lộ ra ngoài chiếc áo sơ mi tả tơi.

“Bộ chưa bao giờ nhìn bất cứ thứ gì như thế hả Liff Hyatt?” – nàng tấn công hắn ta, khi hắn ta đứng trước nàng với cái nhìn của một người đàn ông đang khuấy động “tổ ong” bắp cày.

Anh ta cười toe toét: “Tôi thấy cô! Vậy là tôi xuống đây.”

“Ở đâu xuống đây?” – nàng vừa hỏi vừa cúi khom người để thu gom những cánh hoa tan tác dưới chân hắn ta.

Hắn ta chỉ lên đỉnh núi: “Chặt cây cho nhà Dan Targatt.”

Charity hồi tưởng cảnh đáng thương của mình và nhìn hắn ta một cách đăm chiêu. Nàng không sợ anh chàng nghèo Liff Hyatt mặc dù hắn ta “từ trên Núi xuống”, vậy mà vài cô gái bỏ chạy khi nhìn thấy hắn ta. Hắn ta là một sinh vật vô hại, là sợi dây liên lạc kết nối giữa người miền núi và những người văn minh, người mà thỉnh thoảng làm việc đốn cây cho một nông dân có đôi bàn tay bị mất. Ngoài ra nàng biết những người miền Núi không bao giờ làm hại nàng: bản thân Liff một lần nọ đã nói khi nàng còn là cô bé con, và nàng cũng đã gặp anh ta ở bờ rìa cánh đồng cỏ của luật sư Royall. “Họ sẽ không để ai chạm đến cô khi cô đến đó. Nhưng tôi nghĩ cô sẽ không đến.” – hắn ta nói thêm một cách thản nhiên, rồi nhìn xuống đôi giày mới của nàng và nhìn cái nơ đỏ mà bà Royall đã cột trên tóc nàng.

Charity tin rằng chẳng bao giờ nàng có một chút hy vọng được thăm viếng nơi mình sinh ra. Nàng không cần biết mình từ vùng Núi xuống, và cũng thấy ngại khi nói chuyện với Liff Hyatt. Nhưng hôm nay nàng không hối tiếc vì sự xuất hiện của hắn ta. Nhiều điều vĩ đại đã xảy đến với nàng kể từ ngày Lucius Harney bước vào thư viện Hatchard Memorial, nhưng sự thật, có lẽ không một ai đoán được bỗng nhiên nàng cảm thấy thoải mái trong việc nói chuyện với Liff Hyatt. Nàng tiếp tục tò mò nhìn lên gương mặt dạn dày sương gió của hắn ta, với những chỗ hóp sâu dưới xương gò má và đôi mắt vàng ệch của một con thú vô hại. “Mình tự hỏi liệu hắn ta có liên quan gì đến mình không nhỉ?”- nàng rùng mình khinh bỉ.

Liff Hyatt ngắm nghía nàng với vẻ ngạc nhiên một lúc, rồi hắn ta gãi đầu, chuyển tấm thân thể nặng nề của mình trong bộ dạng tơi tả sang phía khác.

“Vẫn những người như trước sông trong ngôi nhà màu nâu.” – hắn ta nói và nhăn răng cười.

“Họ ở trên đó giống như anh phải không?”

“Tên của họ giống như tên tôi.” – hắn ta ngập ngừng đáp lại.

Charity vẫn nhìn hắn ta với đôi mắt cương quyết của mình: “Nè, tôi muốn lên trên vùng Núi một ngày nào đó có dẫn theo một người lịch sự. Người ta đến những vùng này để vẽ tranh.”

Nàng không giải thích câu nói này. Thật là quá khả năng của Liff Hyatt trong việc đánh giá này. “Người ta muốn xem ngôi nhà màu nâu, và đi khắp nơi trên đó.” – nàng nói tiếp.

Liff vẫn còn lúng túng với những ngón tay trong đám tóc bù xù màu rơm của mình. “Một gã đến từ thành phố hả?” – hắn ta hỏi.

“Ừ. Người ta vẽ nhiều thứ. Người ta xuống đó để vẽ ngôi nhà Bonner.” – Nàng chỉ một ống khói ở cánh đồng cỏ dưới rừng cây.

“Nhà Bonner hả?” – Liff lặp lại có vẻ ngờ vực.

“Ừ. Anh sẽ không hiểu đâu – đó không phải là vấn đề. Tất cả những gì tôi muốn nói là người ta sẽ đến gia đình Hyatt trong một hai ngày tới.”

Liff có vẻ càng lúc càng bối rối: “Bash đôi khi tồi tệ vào những buổi chiều.”

Nàng ngửa đầu ra sau, đôi mắt nàng nhìn vào đôi mắt Hyatt: “Tôi cũng sẽ đến đó: anh nói với ông ta nghen.”

“Không một ai làm phiền cô đâu, gia đình Hyatt cũng không. Sao cô lại muốn mang theo một người lạ chứ?”

“Tôi đã nói cho anh nghe rồi mà, phải vậy không? Anh phải nói với ông Bash Hyatt nghen.”

Anh ta nhìn ra rặng núi xanh xa xa phía chân trời, rồi đôi mắt nhìn chằm chằm về đỉnh ống khói dưới đồng cỏ.

“Hiện giờ gã ở dưới đó hả?”

“Ừ!”

Hắn ta di chuyển cái thân hình nặng nề của mình lần nữa, khoanh tay và tiếp tục quan sát khung cảnh đằng xa. “Ừ, tạm biệt!” – sau cùng hắn ta nói một cách lửng lơ và quay lại, lóng ngóng chạy lên sườn đồi. Từ một rìa đá, hắn ta dừng lại và gọi vọng xuống: “Tôi sẽ không ở đó vào ngày Chủ Nhật”. Hắn ta leo lên cho đến những cây gần mình nhất. Chẳng mấy chốc, Charity nghe tiếng búa từ trên cao vọng xuống.

Nàng nằm trên một chỏm đá ấm, nghĩ nhiều thứ mà sự xuất hiện của một anh tiều phu đã khuấy động trong nàng. Nàng không biết tí gì về cuộc sống trước đây của mình và cũng chưa bao giờ tò mò muốn biết về nó: chỉ là một sự miễn cưỡng u sầu mà những hình ảnh còn đọng lại một cách lờ mờ trong một góc ký ức mà thôi. Nhưng tất cả xảy đến với nàng chỉ trong vòng vài tuần qua, đã làm xáo trộn giấc ngủ bình yên của nàng. Nàng đã trở nên quan tâm đến mình một cách tỉ mỉ hơn và tất cả mọi thứ đã xảy ra trong dĩ vãng phải được làm sáng tỏ bằng một sự tò mò đột ngột.

Nàng ghét “cái sự thật” là nàng được mang từ vùng Núi xuống hơn bất cứ thứ gì hết, nhưng giờ thì nàng không còn lạnh nhạt với điều đó nữa. Mọi thứ ảnh hưởng đến nàng thì sống động và muôn màu muốn vẻ: ngay cả những thứ nàng ghét bỏ cũng lớn mạnh trong sự quan tâm của nàng bởi vì chúng là những phần trong cuộc đời nàng.

“Mình tự hỏi liệu Liff Hyatt biết ai là mẹ mình không nhỉ?” – nàng mơ màng. Điều này dâng lên một sự rung động trong nàng khi nghĩ đến một người đàn bà nào đó đã có một thời trẻ tuổi, mảnh khảnh, hoạt bát có dòng máu giống như nàng, đã cho nàng bú mớm và nhìn nàng lúc ngủ. Nàng đã luôn luôn nghĩ mẹ mình đã không còn có mặt trên cõi đời này, nhưng bây giờ nàng lại nghĩ người đàn bà ngày nào còn trẻ trung đó có lẽ vẫn còn sống mà nay đã có nếp nhăn và đầu bù tóc rối đôi khi nàng gặp trong cửa ngôi nhà màu nâu nơi Lucius Harney muốn vẽ.

Ý nghĩ đó đã mang anh ta về giữa tâm trí nàng mà nàng đã để lạc mất từ khi có sự xuất hiên của Liff Hyatt. Những sự suy đoán liên quan đến quá khứ không thể níu giữ nàng lâu khi hiện tại đẹp đẽ, tương lai tươi sáng. Và khi Lucius Harney ngồi trên hòn đá đằng kia, đang cúi xuống trên tập vẽ nháp, cau mày, tính toán, đo đạc và rồi ngửa đầu ra sau với một nụ cười bất chợt mà nó tỏa sáng trên mọi thứ.

Nàng rón rén bò đi, nhưng khi nàng làm thế thì thấy anh ta đang đi đến đồng cỏ rồi ngồi xuống để đợi. Khi anh ta đang vẽ và đo đạc một trong những ngôi “nhà của mình”, nàng thường đi lang thang trong rừng cây hay trên sườn đồi.

Đó là vì ngại mà nàng làm thế. Nàng đau đớn vì có cảm giác không tương xứng, nhất là khi bạn đồng hành của nàng đang mải mê trong công việc. Anh ta quên rằng sự ngu dốt, thiếu khả năng nhận thức làm nàng không thể hiểu được về nghệ thuật và cuộc sống của anh ta.

Để tránh đi sự lúng túng khi phải đối diện với cái nhìn ngạc nhiên của những dân cư ở các ngôi nhà đó nên nàng lẩn vào một nơi để không ai nhìn thấy. Anh ta dừng ngựa và mở tập vẽ nháp ra, trong nơi ẩn nấp nàng có thể quan sát anh ta làm việc hay ít ra cũng nhìn xuống ngôi nhà mà anh ta đang vẽ. Trước hết, nàng vui vì đã đưa người họ hàng của cô Hatchard từ North Dormer đến vùng quê lân cận trên chiếc xe độc mã mà anh ta đã thuê của luật sư Royall. Nàng đã luôn luôn giữ cho mình một khoảng cách với những chàng trai trong làng, không biết chắc chắn đó có phải vì sự mặc cảm sâu sắc về nguồn gốc không tốt của mình hay vì nàng đang mong muốn một định mệnh tươi sáng hơn. Với cảm giác ủy mị của mình, đôi khi nàng ghen tị với những cô gái khác. Nhiều giờ liền, nàng nghĩ đến sự tán tỉnh của các chàng trai trẻ trong làng, nhưng khi nàng phác họa chân dung mình với mớ tóc quăn, cột dây nơ mới trên nón của mình, ngồi chờ Ben Fry hay một trong những chàng trai nhà Sollas, tự nhiên nàng thấy bồn chồn rồi cơn thờ ơ lại tái phát.

Bây giờ nàng biết cái ý nghĩa của sự khinh bỉ và sự miễn cưỡng. Nàng biết mình “có giá” khi Lucius Harney ngập ngừng trong lời nói và đỏ mặt lúc nhìn nàng lần đầu tiên khi anh ta tựa mình trên chiếc bàn của nàng. Nhưng một sự e thẹn khác nảy sinh, nàng sợ người ta phát hiện ra kho tàng hạnh phúc bí mật của mình. Nàng không cảm thấy hối tiếc vì để cho những người hàng xóm nghi ngờ nàng “đi với” một người đàn ông trẻ tuổi từ thành phố đến, nhưng nàng không muốn tất cả những người nhà quê biết nàng đã trải qua bao nhiêu giờ khắc trong những ngày dài của tháng sáu. Nàng lo sợ nhất về những lời bàn tán không thể tránh được đó sẽ đến tận tai ông Royall.

Theo bản năng, Charity biết không có việc gì qua khỏi đôi mắt yên lặng dòm ngó của người đàn ông mà nàng sống chung cùng một mái nhà. Nàng cảm thấy nàng phải trả giá cho những gì nàng đã nói trắng trợn với ông Royall. Trả giá thế nào thì nàng chưa biết nhưng nỗi sợ thì tăng lên. Nếu nàng chấp nhận sự để ý của một trong những chàng trai trẻ trong làng, nàng sẽ ít lo sợ hơn vì ông Royall không thể ngăn nàng lập gia đình nếu nàng quyết định. Nhưng mọi người biết nàng “đã đi với một thanh niên thành phố thì lại khác. Rồi mọi người trong làng sẽ cho nàng là nạn nhân của một sự liều lĩnh hiểm nghèo. Và nỗi lo ông Royall can thiệp vào vừa làm tăng thêm niềm vui vào những giờ phút mà nàng được ở bên chàng trai trẻ Harney, vừa làm cho nàng ngượng khi bị thấy đi chung với anh ta.

Khi anh ta đến, nàng nhổm gối lên, soải hai cánh tay trên đầu nàng với điệu bộ lười nhác trong cái cách bày tỏ con người mình đang hoàn toàn thoải mái.

“Tôi sẽ đưa anh đến ngôi nhà trên kia dưới Porcupine.” – nàng tuyên bố.

“Ngôi nhà nào? Ồ, vâng, cái nơi đổ nát xiêu vẹo, với những người nom có vẻ như dân Gipsy (giống như dân Ấn Độ) đứng ở gần đó. Thật kỳ lạ, một ngôi nhà với những vết tích có kiểu kiến trúc nghiêm túc lại được xây dựng ở nơi như vậy. Nhưng con người thì nom có vẻ tối tăm – theo cô, họ cho chúng ta vào không?”

“Họ sẽ làm bất cứ điều gì tôi bảo.” – nàng tự tin.

Anh ta ném mình xuống bên cạnh nàng. “Vậy sao?” – chàng ta tham gia vào với một nụ cười mỉm. “Ừ, tôi thích xem bên trong ngôi nhà. Và tôi cũng thích trò chuyện với những người ở đó. Ai là người sẽ kể cho tôi nghe rằng một ngày nọ họ đã xuống từ Núi?”

Charity phóng sang một bên và nhìn vào anh ta. Đó là lần đầu tiên anh ta nói về vùng Núi ngoài nét đẹp về phong cảnh. Còn gì nữa mà anh ta biết về nó, và sự liên quan giữa nàng với nó? Trái tim nàng bắt đầu đập liên hồi, dồn dập.

“Vùng Núi ư? Tôi không sợ vùng Núi!”

Giọng nàng dường như công khai phản đối anh ta. Anh ta tựa ngực xuống cỏ, ngắt những chồi húng cây và đặt chúng lên môi mình. Xa đằng kia, trên những bãi rào súc vật gần những ngọn đồi, ngọn Núi phóng mình một cách đe dọa trong hoàng hôn vàng vọt.

“Tôi phải đến đó. Tôi muốn xem nó.” – anh ta nói tiếp.

Nhịp đập trái tim nàng uể oải và nàng quay ra để quan sát nét mặt nhìn nghiêng của anh ta. Nó thật ngây thơ không có ý định bất lợi nào cho nàng.

“Anh muốn lên Núi để làm gì?”

“Ừ, có lẽ đó là nơi khá kỳ lạ. Có một thuộc địa kỳ quặc ở trên đó, cô biết không: loại ngoài luật pháp, một vương quốc nhỏ độc lập. Dĩ nhiên cô đã nghe họ nói về nó, nhưng tôi được kể lại rằng người ta không có việc gì để làm cho những người ở những thung lũng – sự thật người ta khinh bỉ những người ở Núi. Tôi cho rằng họ là những người thô lỗ nhưng ắt hẳn họ phải có nhiều nghị lực.”

Nàng không biết nhiều những gì chứa trong câu nói “có nhiều nghị lực” nhưng giọng điệu của anh ta diễn đạt một sự thán phục, điều này làm bừng lên trong nàng sự tò mò một cách sâu sắc. Bây giờ nó đánh động nàng một cách kỳ lạ vì nàng biết rất ít về Núi. Nàng không bao giờ hỏi và không một ai sẵn sàng soi sáng cho nàng. North Dormer xem Núi như một sự dèm pha trong ngữ điệu hơn là phê phán một cách công khai.

“Thật là kỳ lạ, cô biết không!” – anh ta nói tiếp – “rằng ở trên đó, trên đỉnh đồi, có nhiều người nhưng họ không kết tội người khác bao giờ.”

Những lời lẽ đó làm nàng rùng mình. Theo nàng, chúng nó dường như là manh mối trong cuộc nổi dậy và thách thức của riêng mình, nàng muốn nghe anh ta nói lâu hơn.

“Tôi không biết nhiều về họ. Họ luôn luôn ở đó chứ?”

“Dường như không ai biết chính xác là bao lâu. Ở dưới Creston họ bảo tôi rằng những tên thực dân đầu tiên đã bắt những người đàn ông làm con đường sắt 40 hay 50 năm qua, giữa Springfield và Nettleton. Vài người trong số họ nghiện rượu, hay là bị phiền phức với cảnh sát, họ trốn đi – biến mất trong rừng cây. Một hay hai năm sau có một bản báo cáo nói rằng họ sống trên Núi. Rồi tôi cho rằng những người khác nhập bọn – và những đứa bé ra đời. Bây giờ họ nói có hơn một trăm người sống trên đó. Dường như họ sống ngoài lề pháp luật. Không trường học, không nhà thờ – và không bao giờ có cảnh sát đi lên trên đó để xem họ ra sao. Nhưng người ta ở North Dormer không bao giờ nói gì về họ hay sao?”

“Tôi không biết. Họ nói những người trên đó xấu xa.”

Anh ta cười: “Vậy sao? Chúng ta sẽ lên đó xem sao, phải vậy không?”

Nàng đỏ mặt với lời đề nghị đó, và quay mặt sang anh ta: “Tôi nghĩ, anh chưa bao giờ nghe – tôi từ đó xuống. Họ mang tôi xuống khi tôi còn bé.”

“Cô?” – Chàng ta nhổm người lên khỏi khuỷu tay, nhìn nàng với vẻ thú vị bất ngờ. “Cô từ trên Núi xuống hả? Ôi lạ lùng làm sao! Hèn chi mà cô khác thế!”

Dòng máu hạnh phúc của nàng phừng phừng lên tận trán. Chàng ta đang khen nàng – và khen nàng bởi vì nàng từ trên Núi xuống!

“Bộ tôi khác hả?” – nàng hân hoan với một sự ngạc nhiên giả tạo.

“Ôi, cực kỳ khác!” – anh ta nắm lấy bàn tay nàng và đặt một chiếc hôn trên những khớp tay cháy nắng.

“Đi nào!” – anh ta nói – “Chúng ta hãy đi.” Anh ta đứng lên và giũ những cọng cỏ từ bộ quần áo rộng của mình. “Trời đẹp biết bao! Cô sẽ đưa tôi đi đâu vào ngày mai?”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.