Mưa tạnh và một giờ sau, khi nàng bắt đầu ra đi thì ánh sáng mặt trời chan hòa trên những cánh đồng.
Sau chuyến ra đi của Harney, nàng đã trả chiếc xe đạp về chủ của nó ở Creston, và nàng không chắc có thể đi bộ suốt đường dài lên Núi. Ngôi nhà hoang nằm trên con đường đó, nhưng những ý tưởng trong đêm làm nàng không thể chịu đựng nổi, và nàng nghĩ sẽ cố gắng đến Hamblin, nơi nàng có thể ngủ lại trong nhà gia súc bằng gỗ nếu sức mạnh giúp nàng đi đến đó. Những kế hoạch được vạch ra một cách cẩn thận. Trước khi ra đi nàng bắt mình phải cố uống một ly sữa và ăn một miếng bánh mì, rồi nàng bỏ vào cái túi vải một gói nhỏ sô-cô-la mà Harney luôn mang theo trong cái túi để ở xe đạp. Nàng nghĩ, trên tất cả mọi thứ là phải giữ gìn sức khỏe để nàng đến nơi mình mong muốn mà không bị phát giác.
Từng dặm từng dặm đường cũ bỏ lại phía sau, mà trên đó nàng rất thường khi bay tới người yêu. Khi nàng đến ngã ba nơi con đường đi vào rừng phân nhánh từ quốc lộ, nàng nhớ lại căn lều của nhóm giảng dạy Phúc âm – giờ vẫn đứng trong chòm cây và nàng bắt đầu thấy lo sợ khi người truyền giáo mập mạp đã nói trước đây: “Chúa lòng lành biết tất cả mọi sự. Hãy đến và thú nhận tội lỗi.” Bây giờ trong nàng không có một ý nghĩ tội lỗi nào, mà chỉ có một mong muốn là bảo vệ bí mật của nàng khỏi những đôi mắt xoi mói, và sẽ bắt đầu lại cuộc sống giữa những người quê mùa trong cái làng mà không ai biết đến. Sự thôi thúc không hình thành trong tâm trí nàng: nàng chỉ biết mình phải cứu lấy đứa bé và ẩn mình một nơi nào đó mà không ai có thể đến để quấy rầy mẹ con nàng.
Nàng đi và tiếp tục đi, đôi chân càng lúc càng nặng nề khi ngày dần tan. Dường như có một sức mạnh tàn bạo cưỡng bách nàng từng bước, từng bước chân trở lại con đường xưa đến ngôi nhà hoang. Rồi nàng bước vào vườn cây ăn quả, mái nhà nghiêng bóng qua những cành cây nặng trĩu, sức khỏe nàng đánh gục nàng và buộc phải ngồi lại bên vệ đường. Nàng ngồi đó một lúc lâu, cố gắng thu hết can đảm để tiếp tục lên đường. Nàng đi qua cái cổng gãy và những bụi hồng gai không cắt tỉa đang bung cánh màu đỏ thắm. Một vài giọt mưa đang rơi, và nàng nghĩ đến những buổi tối nồng nàn khi nàng và Harney đã ngồi ôm nhau trong phòng tôi, và âm thanh mùa hè râm ran trên mái nhà, xào xạc qua những nụ hôn của họ. Một hồi lâu nàng hiểu rằng nếu nàng còn nấn ná thì mưa có thể buộc nàng phải trú lại căn nhà qua đêm. Nàng tiến bước, ngoảnh mặt lại khi nàng đến gần cái cổng màu trắng và đi ngang qua khu vườn không được chăm sóc.
Thời gian trôi qua, nàng đi càng lúc càng chậm, dừng lại lúc này lúc khác rồi nghỉ ngơi, ăn một chút bánh mì và một quả táo hái bên lề đường. Cơ thể nàng dường như mỗi lúc một nặng hơn theo từng tấc đường, và nàng tự hỏi làm sao nàng có thể mang con mình sau này chứ, nếu thật sự anh ta để lại gánh nặng như vậy cho nàng. Một luồng gió mát thổi qua bắn tung những giọt mưa rơi từ trên núi xuống. Chẳng mấy chốc những cụm mây hạ thấp và một vài mũi tên trắng phóng vào mặt nàng: đó là đợt tuyết rơi đầu tiên trên vùng Hamblin. Những mái nhà trên ngôi làng đơn côi nằm phía trước chỉ nửa dặm đường, nàng quyết tâm đi đến đó và cố gắng đến Núi ngay trong đêm. Nàng không có kế hoạch rõ ràng để hành động, ngoại trừ việc định cư tại đó, nàng nghĩ mình sẽ tìm Liff Hyatt để anh ta đưa nàng đến với mẹ nàng. Nàng đã được sinh ra cũng như con nàng sắp được sinh ra như vậy. Và cho dù cuộc sống của mẹ nàng như thế nào, bà không thể nhớ lại quá khứ và chấp nhận đứa con gái đang đối mặt với phiền phức như bà ngày xưa.
Dường như đã kiệt sức, nàng ngồi lại bên bờ sông tựa đầu lên một gốc cây đã cắt. Con đường xa tít và khung cảnh u ám đã biến mất trong đôi mắt nàng, và trong một lúc nàng cảm thấy mình như bay lượn xung quanh bóng tối hãi hùng. Rồi nàng ngất đi.
Khi mở mắt ra nàng thấy một chiếc xe độc mã chạy lên gần nàng và một người đàn ông nhảy xuống nhìn nàng với gương mặt bối rối. Dần dần nàng tỉnh lại và thấy đó là Liff Hyatt.
Nàng lờ mờ hiểu anh ta đang hỏi nàng điều gì đó và nàng nhìn anh ta im lặng, cố gắng lấy hơi để nói. Hồi lâu giọng nàng lúng búng trong cổ họng, rồi thều thào nói: “Tôi đi về Núi.”
“Lên Núi hả?” – anh ta lặp lại, lùi về sau một tí; và khi anh ta chuyển động nàng thấy phía sau anh ta, trong chiếc xe độc mã, một người trang phục nặng nề và gương mặt hồng hào quen thuộc mang cặp kính trên chiếc mũi giống người Hy Lạp.
“Charity! Cái gì xảy ra làm cho con ở đây vậy?” – Ngài Miles vừa kêu lên vừa ném cây roi da trên lưng ngựa và leo xuống xe độc mã.
Nàng nhướn cặp mắt nặng nề nhìn ngài: “Con đang đi gặp mẹ của con.”
Hai người đàn ông liếc nhìn nhau, và trong một lúc không ai nói lời nào.
Rồi ngài Miles nói: “Con có vẻ yếu lắm, cưng ạ, mà đường thì xa. Con nghĩ việc làm này thông minh sao?”
Charity đứng lên: “Con phải đến với bà ấy.”
Một nụ cười buồn rầu mơ hồ hiện lên trên gương mặt của Liff Hyatt, và ngài Miles ngập ngừng nói: “Con biết rồi, chắc con đã nghe kể?”
Nàng trừng mắt nhìn ngài: “Con không biết ngài nghĩ gì. Con muốn về với mẹ của con.”
Ngài Miles đang nhìn nàng một cách dò xét. Nàng thấy một sự thay dổi trong cách diễn đạt của ngài, và máu nóng phừng phừng lên trán: “Con chỉ muốn về với mẹ của con!” – nàng lặp lại.
Ngài đặt bàn tay mình trên cánh tay nàng: “Ôi, con bé bỏng của ta, mẹ con đang hấp hối. Liff Hyatt xuống để rước ta lên. Vào xe và đi với chúng tôi.”
Ngài giúp nàng lên xe và ngồi bên cạnh, Liff Hyatt leo lên phía sau, và họ chạy về hướng Hamblin. Lúc đầu Charity chưa nắm bắt được những gì ngài Miles nói nhưng khi đầu nàng hết nhức nàng bắt đầu hiểu. Nàng biết miền Núi hiếm khi giao thiệp với vùng thung lũng, nàng đã thường nghe người ta nói không ai lên trên đó ngoại trừ mục sư, khi có ai đó đang hấp hối. Và bây giờ là mẹ nàng đang hấp hối. Như vậy nàng sẽ cô đơn ở miền Núi hay bất cứ nơi nào khác trong thế giới này. Ý nghĩ chia ly không thể nào tránh khỏi là tất cả những gì nàng cảm thấy trong khoảnh khắc, rồi nàng bắt đầu lấy làm lạ tại sao ngài Miles đảm trách thi hành chuyện vặt vãnh này. Ngài không có vẻ giống như loại người cần phải lên miền Núi. Nhưng ở đây ngài ngồi bên cạnh nàng, điều khiển con ngựa với một bàn tay rắn chắc và cúi nhìn nàng với cái nhìn tử tế dưới cặp mắt kính, như thể không có gì bất bình thường trong việc họ đi chung với nhau trong những trường hợp như thế này.
Trong một lúc nàng thấy không thể nói gì, và ngài dường như hiểu điều này nên cũng không hỏi nàng câu nào. Nhưng rồi nước mắt nàng trào dâng và tuôn rơi trên đôi má hốc hác của mình, ắt hẳn ngài Miles cũng thấy nên đặt bàn tay mình vào đôi tay nàng và nhỏ nhẹ nói: “Sao con không nói với ta con gặp rắc rối gì?”
Nàng lắc đầu, và ngài không nài nỉ, nhưng sau một lúc ngài nói cũng cùng âm điệu nhẹ nhàng để những lời nói không bị nghe lén: “Charity, con biết gì về tuổi thơ của con, trước khi con xuống North Dormer không?”
Nàng tự kiềm chế và trả lời: “Không nhiều, chỉ những gì con nghe ông Royall nói vào một ngày. Ông ta nói ông đã mang con xuống vì cha con bị bắt vào tù.”
“Và từ đó con chưa bao giờ lên Núi sao?”
“Chưa bao giờ.”
Ngài Miles lại yên lặng, rồi nói: “Ta vui vì bây giờ con đi với ta. Có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy mẹ con còn sống, và có lẽ bà biết con đến.”
Họ đã đến Hamblin, nơi trận mưa tuyết để lại những mảng trắng trên đám cỏ bờm xờm dọc theo vệ đường và trong những ngóc ngách trên những nóc nhà hướng mặt về phương bắc. Nó là một ngôi làng nghèo hoang vắng dưới sườn núi đá gra nít, và ngay khi họ rời nơi đó thì họ bắt đầu leo lên. Con đường rất dôc và đầy những vết lún, ngựa bắt đầu đi từng bước khi họ lên cao và lên cao, thế giới tụt xa phía bên dưới họ trải dài qua rừng và cánh đồng trong khoảng trời xa xanh thẫm.
Charity thường mơ thấy mình lên Núi nhưng nàng không biết nó là một xứ sở rộng lớn như vậy, và quang cảnh của những vùng đất lạ trải rộng bôn bề cho nàng cảm giác mới về sự cách biệt với Harney ở một nơi xa xôi. Nàng biết anh ta ắt hẳn phải ở hàng ngàn dặm xa dưới những dãy đồi sau cuối mà dường như bên rìa của mọi thứ, và nàng tự hỏi làm thế nào nàng có thể tìm anh ta ở tận Nữu Ước được.
Con đường về quê càng lên cao càng hoang vắng hơn. Họ lái xe băng qua cánh đồng cỏ úa trắng vì nằm lâu nhiều tháng dưới tuyết. Cây thanh lương trà từng chùm ánh lên màu đỏ đậm, nhưng không có nhiều cây thông mọc bên rìa núi đá gra nít. Gió đang thổi dữ dội qua sườn núi trảng, con ngựa đối mặt với gió cúi đầu cô” bám vào sườn núi, chiếc xe ngựa lắc lư làm cho Charity phải bấu vào khung xe.
Ngài Miles không nói gì, dường như ngài hiểu nàng muốn ở một mình. Sau một lúc, con đường họ đang theo có ngã rẽ và ngài ghì cương ngựa vì chưa biết phải đi con đường nào. Liff Hyatt nghểnh đầu từ phía sau, và hét to trong gió: “Bên trái!” và họ quẹo vào rừng thông rụng lá rồi bắt đầu chạy xuống bên kia sườn Núi.
Ở đằng xa chừng một vài dặm, có mây căn nhà thâp nằm trên cánh đồng đầy đá, chen mình trong những tảng đá lớn như thể tự ôm mình vào chúng để tránh gió. Chúng khó có thể coi là nhà ở. Chúng được cất lên bằng những khúc gỗ và những tấm ván thô ráp với những ống khói bằng thiếc gắn thò ra trên mái. Mặt trời đang lặn, và hoàng hôn dành sẵn cho thế giới bên dưới, nhưng những tia sáng vàng vọt vẫn còn đọng lại bên sườn đồi cô đơn và những căn nhà ẩn mình trong đá. Giây lát sau trời tối dần và khung cảnh chìm trong bóng tối mùa thu.
“Đằng kia!” – Liff la lên, đưa cánh tay dài ngoằng của nó qua vai ngài Miles. Vị mục sư quay sang trái, băng ngang qua một mảnh đất đầy cỏ chi chít và cây tầm ma, rồi dừng lại trước những căn nhà bị hư hại gần hết. Một ống khói cong thò ra từ một cửa sổ, và những miếng cửa kiếng bể được dán chằng chịt bằng những mảnh giấy.
So sánh với một nơi ở như vậy thì căn nhà nâu dưới đầm lầy được coi là “nhà” một cách đúng nghĩa hơn.
Khi chiếc xe độc mã chạy tới, hai ba con chó lai phóng ra và sủa ầm vang, một người đàn ông thò đầu ra cửa sổ nhìn. Trong tranh tối tranh sáng, Charity thấy gương mặt của ông ta toát lên vẻ u mê đần độn giống như gương mặt của Bash Hyatt vào cái ngày nàng thấy ngủ bên lò sưởi. Ông ta không muốn làm cho những con chó im lặng, mà tựa vào cánh cửa như thể vừa tỉnh dậy sau cơn say khi ngài Miles bước ra khỏi xe ngựa.
“Ở đây hả?” – vị mục sư hỏi nhỏ và Liff gật đầu.
Ngài Miles quay sang Charity, ngài nói: “Giữ con ngựa một phút, con yêu. Ta sẽ vào trước.” – ngài đặt hai dây cương vào trong tay nàng. Nàng cầm lấy chúng một cách thờ ơ và ngồi nhìn chằm chằm vào phía trước trong bóng đêm khi ngài Miles và Liff Hyatt vào trong nhà. Họ ngồi trong nhà nói chuyện với người đàn ông trong ít phút, và ngài Miles trở ra. Khi ngài đến gần, Charity thấy trên gương mặt hồng hào của ngài mang một vẻ sợ hãi nghiêm trọng.
“Mẹ con đã chết, Charity! Con nên đi theo ta!” – ngài nói.
Nàng xuống xe theo sau ngài, còn Liff thì dẫn ngựa ra chỗ khác. Khi đến cửa, nàng tự nói với mình: “Đây là nơi ta sinh ra, ta thuộc về nơi này”. Nàng thường tự nói với mình khi nàng nhìn về Núi qua những thung lũng chan hòa ánh nắng, nhưng rồi nó không có ý nghĩa gì cả vậy mà giờ đây nó đã trở thành hiện thực. Ngài Miles dẫn nàng đi bằng cánh tay dịu dàng, và họ vào cái nơi gọi là phòng trong căn nhà. Trời thật tối nhưng nàng có thể nhận thấy một tá người ngồi hay nằm uờn ra xung quanh chiếc bàn bằng những miếng ván đặt ngang trên những thùng rượu. Họ bơ phờ nhìn ngài Miles và Charity bước vào, và giọng lè nhè của một người đàn bà vang lên: “Đây là ông giáo sĩ.” Nhưng không một ai nhúc nhích.
Ngài Miles dừng lại và nhìn xung quanh, rồi quay sang người đàn ông trẻ đã gặp ngài và Charity ở cửa.
“Thi thể ở đây chứ?” – ngài hỏi.
Người đàn ông trẻ thay vì trả lời thì quay đầu về phía có người ngồi. “Đèn cầy đâu? Tau đã bảu (bảo) mầy mang đèn cầy mà.” – hắn ta thình lình nổi cáu với một người đàn bà đang quanh quẩn bên chiếc bàn. Bà ta không trả lời nhưng một người đàn ông đứng lên và lấy ra một cây nến trong góc nào đó rồi ấn vào chân nến.
“Nằm sau để đốt ló nên? Nò đã tắt gồi.” (Làm sao để đốt nó lên? Nó đã tắt rồi) – Bà ta cằn nhằn.
Ngài Miles mò trong chiếc áo choàng nặng nề của mình lấy ra một hộp diêm. Ngài đốt nến, và trong phút chốc một vùng ánh sáng yếu ớt rơi trên những gương mặt tái mét vừa ló ra từ bóng tối giống như những con vật thuộc về bóng đêm.
“Mary ở đằng kia!” – một ai đó nói, và ngài Miles cầm chân nến trong tay, đi qua phía sau chiếc bàn. Charity theo sau ngài, và họ đứng trước một cái nệm để trên sàn nhà trong một góc phòng. Một người đàn bà nằm đó, nhưng nhìn không giống một người đàn bà chết mà như bị ngã từ trên chiếc giường tả tơi trong một giấc ngủ say xỉn, và được đặt nằm tại nơi bà ta té trong quần áo rách nát và luộm thuộm. Một cánh tay vung trên đầu, một cái chân dựng lên trong chiếc váy rách để lộ cái chân trần tới đầu gối: một cái chân sưng phồng với một chiếc vớ rách tụt xuống tận mắt cá. Người đàn bà nằm ngửa, mắt nhìn lên trần không chớp trong ánh nến ngài Miles cầm trong tay.
“Bà ta té.” – một người đàn bà nói qua vai những người khác; và người đàn ông trẻ thêm vào: “Tôi vừa vào và thấy bà ta như thế.”
Người đàn ông có tuổi mái tóc lưa thưa với một nụ cười méo mó chen vào. “Đúng vậy. Tôi đã “bảu” (bảo) với bả chỉ đêm trước thôi rằng nếu bả không chừa bỏ, thì cũng có ngày.”
Một ai đó kéo ông ta ra và ngồi vào băng ghế kê sát vách. Ông ta lầm bầm những điều mà không ai thèm để ý.
Im lặng bao trùm, rồi người đàn bà trẻ lẩn quẩn chỗ bàn hồi nãy tách ra khỏi nhóm và đứng trước Charity. Chị ta có vẻ khỏe mạnh và đẫy đà hơn những người khác, và trên gương mặt dãi dầu nắng gió có một vẻ đẹp u buồn.
“Cô gái này là ai? Ai mang cô ta đến đây?”
Ngài Miles trả lời. “Tôi mang cô ấy đến đây. Cô ấy là con gái của Mary Hyatt.”
“Gì? Vậy sao?” cô gái cười nhạo báng, và người đàn ông trẻ quay sang nguyền rủa chị ta: “Câm cái mồm mày đi, đ. m., hoặc là mày xéo đi khỏi đây ngay.” Rồi ông ta trở lại trạng thái lạnh lùng như trước, ngồi phịch xuống băng ghế, đầu dựa vào vách nhà.
Ngài Miles để cây nến xuống nền nhà, cởi áo choàng ra. Quay sang Charity, ngài nói: “Nào đến đây và giúp ta một tay.”
Ngài quỳ gối xuống nệm, vuốt mắt cho người chết. Charity run lên và thấy phát bệnh, nàng quỳ gối bên cạnh ngài Miles và cố gắng giúp ngài sửa lại tư thế cho mẹ mình. Nàng kéo vớ lên cái chân đáng sợ, kéo váy xuống tận đôi ủng mòn vẹt. Khi nàng làm việc này, nàng nhìn mặt mẹ mình: gầy, đôi môi há ra trên những chiếc răng gãy. Không có một dấu hiệu nào là dành cho con người cả: bà nằm đó như xác một con chó trong cống rãnh làm cho đôi bàn tay của Charity lạnh cóng lên khi chạm vào thân thể của bà.
Ngài Miles kéo hai cánh tay bà để khoanh trên ngực, và phủ chiếc áo khoác của ngài lên, rồi lấy chiếc khăn tay của ngài đắp lên mặt và đặt cây nến phía trên đầu thi thể. Sau khi làm xong mọi việc, ngài đứng lên.
Ngài quay sang nhóm người đứng phía sau và hỏi: “Không có quan tài sao?”
Có một khoảng im lặng đầy bôi rối; rồi một giọng con gái đanh đá vang lên: “Ông phải mang theo hòm chứ. Tui tìm ở đâu “ga” “tong” cái “xó xỉng” này chứ?”
Ngài Miles nhìn hết người này đến người khác, ngài lặp lại: “Các người không thể tìm được một cỗ quan tài thật sao?”
“Tui đã nói “guồi”: họ chưa bao giờ có một cái giường để ngủ” – một người đàn bà thì thầm.
“Và ống khói cũng hổng phải của bả.” – người đàn ông tóc lưa thưa nói như để chống chế.
Ngài Miles quay ra khỏi đám người đó và bước xa ít bước. Ngài lấy từ trong túi ra một quyển sách, và sau một lúc ngài mở ra và bắt đầu đọc, ngài cầm quyển sách trong cánh tay dài và hạ thấp xuống để những trang sách có thể bắt lấy ánh nến yếu ớt.
Charity vẫn còn quỳ bên chiếc nệm, bây giờ gương mặt mẹ nàng được phủ kín vì vậy nó dễ dàng có thể ở gần nàng hơn và tránh đi được bộ mặt kinh hoàng đã làm nàng sợ khiếp vía.
“Ta là sự Sự Sống Lại và là Sự Sống,” – ngài Miles bắt đầu – “ai tin vào Ta, dù đã chết thì cũng sẽ sống. Dù thân thể có rã tan thì trong xác phàm cũng sẽ gặp được Thượng Đế.”
Trong xác phàm cũng sẽ gặp được Thượng Đế! Charity nghĩ đến cái miệng mở ra và đôi mắt như hai hòn bi đá dưới cái khăn tay, và cái chân sưng bóng.
“Chúng ta đã không mang gì theo vào cái thế giới này và chúng ta ra đi bằng tay không.”
Bỗng có tiếng xì xào và một cuộc xô đẩy nhau từ nhóm người phía sau. “Tau mang bếp nò (lò)” – ông già tóc thưa vẹt những người khác ra hai bên và nói. “Tau xuống Creston và mua nó, tau có quyền mang nó ra khỏi đây và tau sẽ đánh chết mẹ đứa nào dám nói tau không thể.”
Người đàn ông trẻ, cao đang ngủ gật trên cái băng ghế dựa bên vách nhà la lên: “Ngồi xuống, đ. m. mày!”
“Cái thứ người dương dương tự đắc ấy mà, lúc nào cũng kiêu kỳ, ồn ào, hắn ta coi ai cũng không ga (ra) gì, loại người đó thì nàm sau (làm sao) mà bảu (bảo) ai hợp được với hắn chứ…”
“Ừ, hắn ta chứ ai!” – một người đàn bà ở phía sau chen vào trong một tiếng thở dài e sợ.
Người trẻ tuổi lê bước chân khập khiễng hét to với những lời nguyền rủa: “Nếu chúng mày không im cái miệng chó chúng mày lại thì tao sẽ tống cổ hết bọn mày ga (ra) ngoài bi (bây) giờ. Ông mục sư, ông đừng để chúng nó quấy rầy ông.”
“Bây giờ Chúa Cứu thế từ trong cõi chết sống lại và Người trở thành những hoa trái đầu mùa dành cho những người đang ngủ mê. Hãy chú ý, ta sẽ chỉ cho các người một sự huyền nhiệm. Chúng ta sẽ không ngủ, nhưng chúng ta sẽ được thay đổi, trong phút chốc, trong nháy mắt, trong tiếng kèn loa cuối cùng. Sự dễ bị hư nát được đưa về tình trạng không hư nát, sự chết chóc sẽ được đặt vào nơi bất tử, như câu viết rằng: Tử thần bị nuốt chửng trong niềm vinh quang…”
Từng lời, từng lời lẽ phi thường đó rót vào đầu Charity đang cúi xuống, chúng xoa dịu nỗi kinh hoàng của nàng, chinh phục sự náo động của đám đông, kiềm chế nàng cũng như kiềm chế những sinh vật mê mụ trong cơn say phía sau lưng nàng. Ngài Miles đọc lời cuối cùng rồi xếp sách lại.
“Có huyệt sẵn sàng rồi chứ?” – ngài hỏi.
Liff Hyatt, đã vào nhà trong khi ngài đọc sách, gật đầu nói: “Rồi ạ!” và xốc tới bên chiếc nệm. Người đàn ông trẻ trên băng ghế có vẻ như có quan hệ họ hàng máu mủ với người chết, đứng lên và người sở hữu ống khói nhập bọn với hắn ta. Ở chính giữa, họ nâng chiếc nệm lên, nhưng động tác của họ không vững làm áo khoác của ngài Miles phủ trên xác chết rơi xuống sàn nhà, chường ra cái thi thể nghèo khổ đáng thương vô phương giúp đỡ. Charity nhặt cái áo rồi phủ lên mẹ mình một lần nữa. Liff mang cây đèn bão, bà già cầm lấy nó, mở cửa để cho đám người đi qua. Bên ngoài gió thôi không thổi nữa, trời đêm tối đen như mực và cực kỳ lạnh. Bà già dẫn đầu, cái đèn lắc lư trong tay và trải rộng trước bà ta là một mảnh đất đầy cỏ chết và cây dại lá mọc um tùm xung quanh một màu đen mênh mông.
Ngài Miles nắm cánh tay Charity, họ sánh vai nhau đi trước tấm nệm. Một lúc lâu bà già cầm đèn dừng lại, và Charity nhìn thấy ánh sáng rọi trên vai những người khiêng đang cúi mình trên một gò đất trên đó họ đang rẽ hướng. Ngài Miles thả tay nàng ra và đến bên phía kia của gò đất; và trong khi những người đàn ông cúi xuống thả tấm nệm vào huyệt, ngài lại bắt đầu nói:
“Con người được sinh ra bởi người đàn bà nhưng cuộc sống ngắn ngủi đầy khổ cực. Người đến và cất gánh nặng đi. Ôi, lạy Chúa lòng lành, quyền năng, nhân hậu, xin ban ơn cho chúng con khỏi những điều cay đắng ở trần gian và khỏi sự chết đời đời.”
“Được gồi (rồi), đặt bà ta xuống chưa?” – người đàn ông chủ quyền của ống khói hét như còi tàu; và người đàn ông trẻ gọi qua vai: “Liff, mang đèn lại đây, được không?”
Thời gian như ngừng trôi trong khi đó ánh đèn chập chờn trên lỗ huyệt. Có ai đó cúi xuống và giật lấy áo choàng của ngài Miles (“Không! Không! Để lại cái khăn tay.” – hắn ta can thiệp vào) và Liff Hyatt tiến về phía trước tay cầm một cái xẻng bắt đầu lấp đất.
“Vì lòng lành của Chúa toàn năng, từ bi đã đến mang linh hồn người chị em của chúng con đi, chúng con trao gửi thân thể người chị em này về lòng đất; thân cát bụi trở về nơi cát bụi…” Đôi vai gầy còm của Liff nhô lên thụp xuống trong ánh sáng cây đèn bão khi nó lấp những cục đất vào huyệt. “Chúa ơi – trời lạnh thấu xương.” – nó thì thào, chà chà hai lòng bàn tay nhau và quệt tay áo sơ mi rách bươm lên gương mặt đang toát mồ hôi của mình.
“Chúa Giê-su, Chúa chúng ta, Người sẽ thay đổi thân xác hèn mọn của chúng ta để trở thành thân xác vinh quang của Người, nhờ quyền lực toàn năng của Người. Người có thể chinh phục mọi thứ về với Người.”
“Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta, Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta, Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta…”
Ngài Miles lấy cây đèn từ tay bà già và quét một vòng ánh sáng qua những gương mặt lờ mờ. “Bây giờ tất cả cùng quỳ xuống!” – ngài ra lệnh, trong một âm điệu mà Charity chưa bao giờ nghe. Nàng quỳ xuống bên cạnh mộ, còn những người khác lúc đầu không tuân lệnh hoặc chần chờ, rồi cũng quỳ theo bên cạnh nàng. Ngài Miles cũng quỳ xuống. “Và bây giờ hãy cầu nguyện cùng ta – tất cả chúng ta biết kinh cầu nguyện này.” – ngài nói và bắt đầu: Lạy cha chúng con ở trên trời “ Một vài người đàn bà ngập ngừng bắt cao giọng lên và khi ngài chấm dứt, người đàn ông tóc lưa thưa nói với người trẻ bằng cái giọng trong cổ họng: “Có ngày rồi cũng chết cái kiểu này, Tau đã bảu (bảo) nó đêm trước gồi (rồi), tau nói với nó.” – Sự hồi tưởng của ông ta chấm dứt bằng một tiếng nấc.
Ngài Miles lấy lại chiếc áo choàng. Ngài đến bên Charity còn đang quỳ gối một cách bất động bên núm đất vừa mới đắp.
“Con yêu, con phải đi, đã trễ lắm rồi.”
Nàng nhướn con mắt lên nhìn ngài: dường như ngài đang nói từ một thế giới khác.
“Con không thể đi: con sẽ ở lại nơi này.”
“Đây hả? Ở đâu? Con nghĩ gì vậy?”
“Đây là những người của con. Con sẽ ở lại với họ.”
Ngài Miles hạ giọng: “Nhưng không thể được, con không biết con đang làm gì. Con không thể ở giữa những người này: con phải đi với ta.”
Nàng lắc đầu và đứng lên. Nhóm người tản đi trong màn đêm, nhưng bà già cầm cây đèn đứng chờ. Gương mặt bà buồn bã héo hắt nhưng không gian ác, và Charity đi đến bên bà.
“Bà có chỗ cho cháu nằm ngủ đêm nay không?” – nàng hỏi. Liff đến dẫn theo xe ngựa ra đi trong đêm tối. Nó nhìn người này rồi người kia với nụ cười yếu đuôi: “Bà là mẹ tui. Bà sẽ dẫn cô về nhà.” – nó nói và rướn gân cổ lên nói to với mẹ nó: “Đó là cô gái ở nhà ông luật sư Royall – con gái của bà Mary. Mẹ nhớ nhé”
Người đàn bà gật đầu và nhướn đôi mắt buồn rầu nhìn vào đôi mắt của Charity. Khi ngài Miles và Liff leo lên xe, bà ta đi trước để chỉ cho họ đường mà họ phải đi, rồi im lặng quay trở lại cùng Charity đi qua bóng đêm.