Cuối cùng rồi họ cũng đến Lake (Hồ Lớn). Charity và Harney tìm được một chiếc thuyền, họ rời bến trong một chiếc lều nghỉ, rồi lững lờ trôi theo dòng, men theo bóng râm của bờ hồ. Nơi đó tia sáng mặt trời rọi xuống mặt nước phản chiếu làm lóa mắt, còn những mảng mây nhỏ rọi xuống mặt hồ những chấm đen nhỏ xíu. Mặt hồ phẳng lặng, bóng loáng như có tráng men. Khi mặt trời nghiêng bóng, nước trở nên trong suốt. Charity xoay mình nhìn chằm chằm vào những đọt cây lộn ngược đan xen với những giống cây xanh mọc dưới lòng hồ.
Họ quanh qua một nơi xa hơn ở cuối hồ rồi vào một vịnh nhỏ. Họ cúi đầu để tránh một thân cây nhô ra. Một tấm mạng màu xanh của những cây liễu gai treo lủng lẳng trên dầu họ. Đằng xa, những cánh đồng lúa mì rập rờn dưới ánh mặt trời, tất cả dọc theo đường chân trời, những ngọn đồi sáng rực vì nắng.
Charity tựa lưng vào mạn thuyền lặng lẽ, còn Harney thì gác mái chèo và nằm dưới lòng thuyền mà không nói năng chi.
Kể từ khi họ gặp nhau ở hồ nhỏ Creston, anh ta là chủ thể của sự yên lặng buồn bã này, nó khác với những lần họ ngập ngừng không nói, bởi vì những lời nói bây giờ không cần thiết. Những lần như vậy nom anh ta đầy xúc cảm như nàng đã thấy lần nọ trong bóng đêm. Cái cảm tưởng có một khoảng cách giữa họ đã trở lại với nàng, nhưng thường thường những cơn lơ đãng của anh ta có kèm theo sự nổ tung vui vẻ, nên dễ dàng xua đi bóng đen trước khi nó làm nàng ớn lạnh.
Nàng vẫn còn nghĩ đến 10 đô la anh ta đã đưa cho tài xế để lái họ đi lòng vòng. Nó đã cho họ hai mươi phút vui vẻ và dường như không thể tưởng tượng được rằng không ai mua được niềm vui với cái giá đó.
Với 10 đô la anh ta có thể mua cho nàng một chiếc nhẫn đính hôn, nàng biết chiếc nhẫn của bà Tom Fry có gắn một hột xoàn trị giá 8 đô la bảy mươi lăm xu. Nhưng nàng không biết tại sao ý nghĩ đó lại xảy đến với nàng. Harney sẽ chẳng bao giờ mua cho nàng một chiếc nhẫn đính hôn: họ là bạn và là bạn thân chứ không gì khác hơn. Anh ta thật sự tốt với nàng: anh ta chưa bao giờ nói một lời nào để nàng có ấn tượng sai. Nàng tự hỏi người con gái sẽ như thế nào để chờ anh ta trao nhẫn vào tay.
Những chiếc thuyền bắt đầu dày kịt trên mặt hồ và tiếng lanh lảnh của những chiếc xe đẩy vang lên không ngừng báo hiệu sự trở về của đám đông từ vũ trường. Những bóng râm kéo dài dọc theo dòng nước màu xám ngọc trai và hai cụm mây trắng gần mặt trời chuyển thành màu vàng. Trên bờ đối diện, những người đàn ông vội vã đóng một giàn giáo bằng gỗ. Charity hỏi họ đóng giàn giáo để làm gì.
“Để bắn pháo hoa. Anh nghĩ chắc sẽ có cuộc biểu diễn lớn.” – Harney nhìn nàng và mỉm cười cả môi và mắt – “Em đã bao giờ xem trận pháo hoa lớn nào chưa?”
“Cô Hatchard luôn luôn đốt những cây pháo thăng thiên đẹp vào ngày mùng bốn.” – nàng trả lời một cách không chắc lắm.
“Ồ! Anh nghĩ đây là cuộc trình diễn lớn giống như vầy, những chiếc thuyền treo đèn kết hoa, và tất cả những gì tiếp theo nữa.”
Nàng xúc động trước hình ảnh anh ta vẽ ra: “Họ cũng bắn pháo hoa từ hồ chứ?”
“Dĩ nhiên là có. Em không thấy hàng đống pháo khi chúng ta đi ngang sao? Thật kỳ diệu khi thấy những cây pháo thăng thiên hoàn thành những quỹ đạo của chúng rồi rơi xuống chân người ta.” Nàng không nói gì và anh ta đặt mái chèo vào cọc chèo: “Nếu chúng ta ở lại, chúng ta nên kiếm cái gì đó để ăn.”
“Nhưng sau đó làm sao chúng ta trở lại?” – nàng đánh bạo bày tỏ ý kiến của mình, và cảm thấy tiếc vỡ tim nếu bỏ lỡ nó.
Anh ta tham khảo thời khóa biểu và cam đoan với nàng là có chuyến xe lửa 10 giờ. “Mặt trăng lên rất muộn, vào khoảng 8 giờ trời sẽ tối đen, và chúng ta còn hơn một tiếng đồng hồ nữa.”
Chạng vạng xuống, những ánh đèn bắt đầu sáng dọc theo bờ hồ. Những chiếc xe điện rời Nettleton gầm rú, tỏa sáng cuộn mình giống như những chú rắn đến và đi giữa những hàng cây. Những quán ăn bằng gỗ ở cạnh hồ mờ ảo với những chiếc đèn lồng. Trong tranh tối tranh sáng vọng lại những tiếng cười, la ó và những tiếng khuấy nước của những mái chèo vụng về.
Harney và Charity tìm được một cái bàn trong góc một hành lang xây trên hồ, và kiên nhẫn chờ món sô đơ. Phía dưới họ, nước vỗ bập bềnh có ngọn khi bị khuấy động bởi một chiếc tàu nhỏ màu trắng chạy bằng hơi nước có những chiếc đèn hình cầu đủ màu đưa hành khách lên và xuống lòng hồ. Trời đã tối hẳn.
Thình lình Charity nghe một giọng cười đàn bà phía sau nàng. Giọng rất quen thuộc và nàng quay lại để nhìn. Một nhóm con gái chưng diện sặc sỡ và những chàng trai trẻ ăn mặc bảnh bao mang huy hiệu đoàn thể của xã hội. Họ đội những chiếc nón rơm lật ra phía sau để lộ mái tóc cắt ca rê, họ đã chiếm hành lang và í ới gọi bàn. Người con gái dẫn đầu là người cười lúc nãy. A đội một cái nón rộng vành với một cọng lông chim màu trắng, và dưới cái mũ miệng bát, đôi mắt quét nhũ của ả nhìn Charity với vẻ hớn hở nhận ra người quen.
“Này! Đó không giống Trở về Mái Nhà Xưa chứ!” – ả nói với cô gái ở sát bên ả; khúc khích cười và liếc nhìn nàng. Charity lập tức biết đó là Julia Hawes. Ả mất đi vẻ tươi mát và đôi mắt nhũ làm cho gương mặt ả có vẻ gầy hơn, nhưng đôi môi thì vẫn còn đường cong đáng yêu và cũng cái giọng cười nhạo báng lạnh lùng như thuở nào, ả nhìn người ta như thể có một cái gì đó ngớ ngẩn trong con người đó và không ngừng muốn khám phá ra.
Mặt Charity đỏ bừng và nhìn đi chỗ khác. Nàng cảm thấy xấu hổ vì lời chế nhạo của Julia, và khó mà chấp nhận được sự phỉ báng của một sinh vật như vậy tác động trên nàng. Nàng giận run lên nhưng không để cho Harney nhận ra là đám người ồn ào kia phát hiện ra mình; nhưng chúng không tìm được bàn trông nên nói năng lung tung nghe rất khó chịu.
Chẳng mấy chốc, một làn sáng nhẹ vọt vào không trung và một cơn mưa bạc rơi từ bầu trời trong xanh lúc đêm về. Trên một hướng khác, những ngọn nến Roma vàng nhạt được bắn lên từng cái một qua những làn cây, và pháo thăng thiên có tua quét ngang giống như một điềm gở. Giữa những ánh sáng lúc ẩn lúc hiện cho thấy bóng đêm đang dần đến, và trong những khoảnh khắc tách biệt này tiếng nói của đám đông dường như chìm lắng thành những tiếng thì thầm.
Charity và Harney bị tước quyền sở hữu chiếc bàn, họ buộc phải nhường cho những người mới đến. Họ chen vào giữa đám đông và ra gần chỗ để thuyền. Trong một lúc, họ không tìm được chỗ ngồi vì có quá nhiều người đến xem, nhưng cuối cùng Harney cũng kiếm được hai chỗ trên một cái bục mà từ đó họ có thể xem pháo hoa dễ hơn. Hai chỗ ngồi thì ở cuối dãy, một chỗ ở phía trên và một chỗ bên dưới. Charity phải giở nón ra để xem được quang cảnh trọn vẹn; và cứ mỗi lần nàng ngửa cổ ra để nhìn đường đi lượn vòng của pháo thăng thiên thì nàng cảm thấy đầu mình chạm phải hai gối của Harney.
Sau một lúc, những chiếc pháo hoa được bắn lẻ tẻ rồi ngưng. Bóng tối bao trùm vạn vật một lúc lâu sau, rồi toàn thể đêm đen lại bừng sáng trong muốn ngàn hoa. Từ mọi nơi ở phía chân trời, những mái vòm bung ra ánh vàng, ánh bạc chói chang chen chúc lên nhau, những vườn cây ăn quả nở rộ, sản sinh nhiều đài hoa và treo trên cành những trái chín vàng mọng. Trong tất cả mọi lúc, không khí đong đầy lời thì thầm siêu nhiên và nghe như có tiếng chim ríu rít làm tổ kín trên những ngọn cây.
Rồi một sự tĩnh lặng bao trùm, và ánh trăng bàng bạc quét xuống mặt hồ. Trong giây lát, hàng trăm con thuyền bằng thép đậm màu, nổi bật trên mặt nước lấp lánh, gợn sóng lăn tăn, rồi mặt trăng rút lui như được bao bọc bởi một đôi cánh mờ mờ khổng lồ. Trái tim Charity reo lên vì vui sướng. Tất cả vẻ đẹp tiềm tàng của vạn vật đều phô bày ra trước mắt nàng. Nàng không thể tưởng tượng được thế giới đã nắm giữ biết bao điều tuyệt vời đến như vậy.
Nhưng gần đây nàng nghe một ai đó nói: “Em hãy chờ cho tới khi em gặp điều em mong muốn.” và liên tục nàng hy vong có một “chuyến chắp cánh bay xa” đầy tự tin. Sau cùng tất cả vòm trời giống như một cái nắp khổng lồ ấn xuống làm chói chang đôi mắt và bắn ra những tia sáng của loại đá quý. Màn đêm lại trở về, và tiếng thì thầm mong đợi lan tỏa qua đám đông.
“Kìa! Kìa!” cùng một giọng reo lên hồ hởi. Charity chợp lấy cái nón trên gối mình, nắm chặt nó trong sự cố gắng ngăn chặn niềm phấn khích của mình.
Trong phút chốc dường như đêm đen hơn, rồi một hình ảnh to lớn nổi lên trong đêm giống như một chòm sao. Trên một con thuyền vàng chuyển động chầm chậm, nổi vọt lên một cuộn giấy nhũ vàng mang dòng chữ viết “Washington vượt qua Delaware”, nó băng qua vô số tượng anh hùng lấp lánh ánh vàng nghiêm nghị và khổng lồ, hai tay khoanh trong tư thế nghiêm khắc.
Một tiếng “ồ-ồ-ồ” kéo dài từ khán giả: cái bục kêu răng rắc và rung rinh làm họ cực kỳ sợ hãi. “Ô ô… i” Charity thở hắt ra: nàng quên mình đang ở đâu, cũng quên luôn là có Harney bên cạnh. Hồn vía nàng dường như bị bắn lên tận các vì sao.
Cảnh tượng không còn nữa và bóng đêm xuât hiện. Trong sự tối tăm mờ mịt, nàng cảm thấy đầu mình bị ôm chặt bởi hai bàn tay: mặt nàng bị kéo ngửa ra sau và môi của Harney đặt trên môi nàng. Với sự sôi nổi thình lình, anh ta choàng hai cánh tay quanh nàng, giữ đầu nàng tựa vào ngực mình trong khi nàng hôn lại anh ta những nụ hôn. Một Harney chưa được biết, nay tự tiết lộ bản thân mình, một Harney đã chế ngự được nàng và trên người đó nàng cảm thấy mình chiếm hữu được một quyền lực khó hiểu mới.
Nhưng đám đông đang bắt đầu rời chỗ, và anh ta phải buông nàng ra. “Đi nào!” – anh ta nói bằng giọng bối rối. Anh ta bò trên mặt bục, và đưa cánh tay lên chụp lấy nàng khi nàng nhảy xuống. Anh ta choàng tay mình vòng ngang eo nàng, giữ chặt nàng khỏi đám người đang lao xuống. Nàng níu cứng anh ta, không nói nên lời, hoan hỉ, như thể tất cả đám đông và sự hỗn độn xung quanh họ chỉ là những điều vô nghĩa làm khuấy động không gian.
“Đi thôi” – anh ta lặp lại – “chúng ta phải cố gắng đón được xe điện.” Anh ta kéo nàng đi, nàng theo sau và vẫn còn chìm trong giấc mộng. Họ đi như thể chỉ có họ mà thôi trong tâm trạng cực kỳ hạnh phúc, không cần thấy người ta chen lấn từ mọi phía. Nhưng khi họ đến, xe điện đã sẵn sàng rời bến, sân ga đông nghẹt hành khách. Những chiếc xe chờ phía sau đã chất hàng và đám đông xung quanh sân ga quá đông đến nỗi dường như không mong gì tìm được một chỗ ngồi.
“Chuyến cuối lên hồ.” – loa phóng thanh rống lên từ phía cầu tàu, và những ngọn đèn của chiếc tàu nhỏ chạy bằng hơi nước nhảy múa tung tăng trong bóng đêm.
“Chờ ở đây không ích lợi gì, chúng ta sẽ chạy lên Hồ nhé!” – Harney đề nghị.
Họ chạy ngược về phía mép nước khi tấm ván vừa hạ xuống từ bên sườn màu trắng của con tàu. Ánh đèn điện ở cuối cầu tàu soi rõ trên những hành khách xuống tàu, và giữa đám đông Charity nhìn thấy Julia Hawes, chiếc mũ lông trắng đội lệch, và gương mặt đỏ lên với giọng cười khả ố. Khi ả bước lên từ tấm ván, ả liền dừng lại, đôi mắt đen tròn xoe phóng một cái nhìn đầy ác ý.
“Chào Charity Royall!” – ả gọi lớn, và rồi nhìn ngoái lại phía sau: “Bộ tao không nói với mi đó là buổi tiệc gia đình hay sao? Đây là con gái nhỏ của ông nội đến để mang ông về nhà!”
Một cái cười khẩy lan nhanh trong nhóm và rồi nổ tung quanh chúng nó. Tự trấn tĩnh mình một cách tuyệt vọng, ông Royall vịn lan can, cố gắng để đứng vững, rồi sau đó bước đi một cách vững chắc vào bờ. Giống như những chàng trai trẻ ở buổi tiệc, ông Royall mặc áo có gắn huy hiệu trong khuy áo choàng. Ông đội một chiếc mũ Panama mới, và cái cà vạt bản nhỏ tháo ra một nửa lòng thòng, lắc lư phía trước chiếc áo sơ mi nhàu nát. Gương mặt ông thâm tái, với những đường gân đỏ nổi lên vì giận và đôi môi móm sâu vào như môi của một ông già, đó là sự hủy hoại đáng thương.
Ông ta ở ngay sau Julia Hawes, và để một bàn tay trên cánh tay ả, nhưng khi ông rời tấm ván, ông tự đi và tránh ra một hai bước khỏi đám người đi chung cùng ông. Ông Royall nhìn thấy Charity ngay lập tức và liếc sang Harney mà cánh tay anh ta còn choàng qua người nàng. Ông đứng nhìn trừng trừng vào họ và cố gắng làm chủ đôi môi già nua của mình đang run, rồi ông tự lấy lại vẻ đường bệ và vung tay ra.
“Đồ gái điếm – khốn kiếp – đồ điếm thối không nón, mày!” – ông ta phát âm từng tiếng một.
Có tiếng cười gào thét từ nhóm người chếnh choáng hơi men và Charity vô tình đưa hai bàn tay lên đầu mình. Nàng nhớ lại nàng đã để rơi nón từ trên đùi mình khi nàng nhảy khỏi bục. Thình lình nàng tự thấy hình ảnh của mình, không nón, tóc tai bù xù với một cánh tay đàn ông quanh mình, đương đầu với nhóm người say xỉn dẫn đầu bởi người bảo hộ mình có gương mặt rất đáng thương. Hình ảnh này đong đầy trong nàng sự xấu hổ. Nàng đã biết các thói quen của ông Royall từ lúc nàng còn thơ ấu: trước khi nàng đi ngủ, nàng thấy ông ta ngồi ủ rũ trong văn phòng, với một cái chai ở khuỷu tay; hay lúc về nhà từ Hepburn hay Springfield, ông thường nặng nề, cáu gắt do việc kinh doanh không thuận lợi, nhưng ý tưởng gia nhập công khai với một băng nhóm con gái mang tai tiếng và những kẻ rong chơi lêu lổng là một nỗi lo sợ mới đối với nàng.
“Ôi!” – nàng thở hắt ra đau khổ và vùng khỏi vòng tay của Harney, nàng đi thẳng đến ông Royall.
“Ông về nhà với tôi – ông về nhà ngay với tôi!” – nàng nói với một giọng trầm nghiêm nghị, như thể nàng chưa nghe lời chửi bới của ông. Một trong những cô gái nói lớn: “Này, nó muốn bao nhiêu tên đồ tể nữa đây?”
Có một chuỗi cười khác, rồi họ dừng lại tò mò. Suốt khoảng thời gian đó ông Royall vẫn nhìn chằm chằm vào Charity. Hồi lâu ông mấp máy môi: “Tao nói, mày – đ. m. – đồ điếm!” ông lặp lại rành rọt, rồi tự mình đứng thẳng lên bên vai của Julia.
Những giọng cười và những lời chế giễu nổ ra từ vòng người ngoài nhóm của chúng nó; rồi một giọng réo to từ trong lối đi giữa: “Bây giờ bước đi một cách sôi nổi nào, các đằng ấy – tất cả lên tàu!” Cảnh vội vã của hành khách đến và đi bắt buộc những “diễn viên” tách rời khung cảnh rất nhanh và đẩy Charity và Harney lùi vào đám đông. Charity nắm chặt cánh tay Harney và thổn thức. Ông Royall đã biến mất và từ đằng xa nàng nghe giọng cười của Julia xa dần.
Chiếc tàu chật ních tận lan can, đang bập bềnh ra xa trên chuyến đi cuối của nó.