Mọi Điều Ta Chưa Nói

Chương 4



Mười giờ sáng, Julia rời khỏi căn hộ của mình, quyết định sẽ dành cả ngày hôm nay ở văn phòng. Công việc của cô đang chậm trễ và có ở nhà ăn không ngồi rồi hoặc tệ hơn là đi xếp dọn những thứ dĩ nhiên sẽ trở nên lộn xộn trong vài ngày tới cũng chẳng để làm gì. Gọi điện thoại cho Stanley cũng vô ích, anh hẳn vẫn đang ngủ nướng; ngày Chủ nhật, trừ phi kéo anh ra khỏi giường để rủ đi ăn bữa sáng gộp hay hứa rằng sẽ có bánh quế kếp, nếu không anh sẽ chỉ xuất đầu lộ diện vào tầm giữa chiều.

Horatio Street vẫn còn ít người qua lại. Julia chào mấy người hàng xóm đang ngồi trong sân hiên quán Pastis rồi rảo bước. Trên đường ngược lên Đại lộ số 9, cô gửi qua di động một tin nhắm thắm thiết cho Adam, và sau hai ngã tư kế tiếp, cô bước vào tòa nhà Chelsea Farmer’s Market. Nhân viên trực thang máy đưa cô lên tầng trên cùng. Cô quẹt tấm thẻ từ qua khe đọc đảm bảo an ninh lối vào khu văn phòng rồi đẩy cánh cửa kim loại nặng nề.

Ba chuyên viên đồ họa đang ngồi làm việc. Cứ nhìn vẻ mặt họ, rồi số cốc giấy đựng cà phê bị vò nát trong thùng giấy kim loại, Julia hiểu rằng họ đã thức làm cả đêm qua. Vấn đề nan giải đang huy động toàn bộ ê kíp của cô từ nhiều ngày nay hẳn là vẫn chưa được giải quyết. Không ai thiết lập được thuật toán phức tạp cho phép truyền sự sống tới một đơn vị chuồn chuồn được giả định sẽ bảo vệ một tòa lâu đài khỏi sự xâm lược sắp tới của một đội quân bọ ngựa. Bằng kế hoạch được lập dán trên tường chỉ rõ rằng cuộc tấn công phải được lập trình xong muộn nhất là trước thứ Hai tuần tới. Nếu từ giờ đến đó mà phi đoàn chuồn chuồn không cất cánh nổi thì hoặc là thành trì sẽ thất thủ dưới tay quân địch không có chút kháng cự nào, hoặc là bộ phim hoạt hình mới sẽ chậm lại rất nhiều; cả hai phương án đều khó có thể chấp nhận.

Julia đẩy chiếc ghế xoay tiến tới và ngồi chen vào giữa hai cộng sự. Sau khi đã tham khảo tiến trình công việc của họ, cô quyết định ngay lập tức đẩy nhanh tiến độ. Cô nhấc điện thoại và gọi, lần lượt từng người một, tất cả những thành viên của ê kíp. Cuộc gọi nào cũng kèm theo lời xin lỗi vì đã phá hỏng buổi chiều Chủ nhật của họ, cô triệu tập họ đến phòng họp trong vòng một tiếng nữa. Dù có phải sửa đổi toàn bộ dữ liệu và dù việc này có kéo dài hết đêm, cũng sẽ không có chuyện tới sáng thứ Hai vẫn chưa có lũ chuồn chuồn tràn ngập bầu trời Enowkry.

Và trong khi ê kíp đầu tiên buông khí giới, Julia chạy xuống lối đi của khu chợ và chất đầy hai thùng các tông bánh ngọt và bánh sandwich đủ loại để tiếp viện lương thực cho đội quân của mình.

Mười hai giờ trưa, ba mươi bảy người đã có mặt hưởng ứng lời kêu gọi. Và không gian tĩnh lặng của khu văn phòng buổi sáng đã nhường chỗ cho không gian của một tổ ong, nơi các chuyên viên hình họa, đồ họa, màu họa, lập trình và những chuyên gia dựng phim trao đổi những báo cáo, phân tích cùng những ý tưởng ngông cuồng nhất.

Năm giờ chiều, một hướng giải quyết được phát hiện bởi một tân binh mới toanh đã phát động bầu không khí huyên náo cùng một cuộc tranh luận trong phòng họp lớn. Charles, kỹ sư tin học vừa được tuyển dụng tăng viện, vừa nhận việc cách đây tám ngày. Khi Julia yêu cầu cậu ta trình bày lý thuyết của mình, giọng Charles run run và chỉ thốt ra những câu lắp bắp. Trưởng ê kíp còn gây thêm khó khăn khi chế giễu cách nói năng diễn đạt của cậu ta. Nhưng chuyện đó chỉ kéo dài đến khi cậu thanh niên quyết định gõ lên bàn phím máy tính, trong những giây dài dằng dặc ấy, người ta có thể nghe thấy tiếng cười nhạo vang lên từ phía sau lưng cậu ta; nhưng tiếng cười nhạo ngưng bặt khi một con chuồn chuồn bắt đầu đập cánh giữa màn hình và bay vút lên, vẽ thành một vòng tròn hoàn hảo trên bầu trời Enowkry.

Julia là người đầu tiên chúc mừng cậu ta, rồi ba mươi lăm đồng nghiệp của cô cùng vỗ tay tán thưởng. Giờ đây, việc còn lại chỉ là làm cất cánh bảy trăm bốn mươi con chuồn chuồn đeo giáp khác. Lần này, chàng kỹ sư tin học trẻ tuổi đã chắc thắng, cậu ta trình bày phương pháp nhờ đó người ta có thể bội nhân công thức của mình. Trong khi cậu ta trình bày chi tiết dự án của mình, chuông điện thoại reo vang. Người đồng nghiệp ra bắt máy ra hiệu cho Julia, cuộc gọi tìm gặp cô, và chuyện có vẻ gấp. Cô nhắc khẽ người ngồi cạnh nhớ thất kỹ những gì Charles đang giảng giải rồi rời khỏi phòng họp để về phòng mình nhận điện.

* * *

Julia nhận ngay ra giọng của ông Zimoure, chủ tiệm giày nằm ở tầng trệt ngôi nhà trên Horatio Street. Chắc chắn là hệ thống vòi nước của nhà cô lại thêm một lần nữa chết tắc. Nước đã nhỏ tong tỏng qua trần xuống những bộ sưu tập giày của ông Zimoure, mỗi đôi trong số đó trị giá ngang bằng nửa tháng lương của cô, suốt một tuần trong đợt bán hàng hạ giá. Julia càng rõ chuyện này hơn vì đó chính xác là những gì hãng bảo hiểm của cô đã nói rõ khi trả cho ông Zimoure một tấm séc giá trị lớn hồi năm ngoái, để bồi thường những thiệt hại do cô gây ra. Julia đã quên khóa vòi nước trong cái máy giặt kiểu cổ khi ra khỏi nhà, nhưng ai mà lại chưa từng quên những kiểu chi tiết nhỏ nhặt như vậy chứ?

Ngày hôm đó, đại diện hãng bảo hiểm đã cam đoan với cô rằng đây là lần cuối cùng họ chịu trách nhiệm bồi thường cho một tai nạn loại này. Chỉ vì Tilly là người hùng của lũ con anh ta, đồng thời là vị cứu tinh của chính anh ta vào mỗi sáng Chủ nhật kể từ khi anh mua cho chúng phiên bản DVD của bộ phim hoạt hình, nên anh ta đã muốn thuyết phục hãng không thẳng tay hủy hợp đồng bảo hiểm.

Mối quan hệ giữa Julia với ông Zimoure đòi hỏi rất nhiều nỗ lực vun đắp. Một lời mời đến dự tiệc đêm vào dịp Lễ Tạ ơn tổ chức tại nhà Stanley, một lời kêu gọi đình chiến vào dịp Giáng sinh, cùng vô số sự ân cần khác là thiết yếu để không khí giữa hàng xóm láng giềng lại trở nên hòa thuận. Nhân vật được nhắc đến ở đây có bản tính không mấy niềm nở, chuyện gì cũng đem ra lý luận, và thường chỉ cười với những câu nói hóm hỉnh của bản thân. Julia nín thở, chờ người đối thoại thông báo mức độ thảm họa.

– Cô Walsh ạ…

– Ông Zimoure, dù đã xảy ra chuyện gì, xin ông biết cho rằng tôi vô cùng lấy làm tiếc.

– Vẫn không thể bằng tôi đâu, cô Walsh ạ, tiệm của tôi đang chật ních khách hàng, và nhiều việc khác cần phải làm hơn là lo đến món hàng được giao đến nhà cô trong lúc cô vắng mặt.

Julia cố làm dịu nhịp đập thình thịch nơi tim mình và cố hiểu xem vấn đề ở đây là gì.

– Món hàng nào ạ?

– Nhưng chính cô mới là người nói cho tôi biết chứ, thưa cô!

– Tôi rất tiếc, tôi không đặt mua gì cả, và dù sao đi nữa, tôi lúc nào cũng đăng ký giao mọi thứ về nơi làm việc.

– A, lần này thì dường như không phải vậy. Tôi đang thấy một chiếc xe tải to uỳnh đỗ ngay trước cửa hàng. Chủ nhật là ngày quan trọng nhất đối với tôi, chuyện này gây ra cho tôi một tổn thất khá lớn. Hai gã khổng lồ vừa dỡ cái hòm được gửi đến cho cô không chịu đi chừng nào ai đó chưa ký nhận. Tôi hỏi cô, chúng tôi biết phải làm gì bây giờ?

– Một cái hòm ạ?

– Chính xác là cái mà tôi vừa nói đấy thôi, cô còn muốn tôi nhắc lại từ đầu đến cuối thêm một lần nữa chăng, trong khi khách hàng của tôi đang phát sốt ruột?

– Thật ngại quá, ông Zimoure, Julia nói tiếp, tôi không biết phải nói với ông thế nào nữa.

– Thí dụ như nói tôi biết bao giờ thì cô về đến nơi, để tôi báo cho mấy quý ngài đây biết quãng thời gian mà cả đám chúng tôi sẽ mất nhờ có cô?

– Nhưng nhất định tôi không thể quay về ngay bây giờ được, công việc chỗ tôi đang ngập đầu ngập cổ…

– Thế cô nghĩ tôi đang ngồi làm bánh kẹp đấy chắc, cô Walsh?

– Ông Zimoure ạ, tôi không chờ một món hàng nào cả, không thùng các tông, không phong bì chứ đừng nói đến một cái hòm! Vả chăng, đây dĩ nhiên là một sự nhầm lẫn.

– Từ quầy kính trong tiệm, tôi không cần đến kính mà vẫn đọc thấy trên nhãn kê, bởi vì kiện hàng của cô được đặt ngay trước chỗ tôi mà, rành rành tên cô bằng chữ in hoa ngay trên địa chỉ khu nhà chúng ta và ngay dưới chữ “dễ vỡ”; hẳn là cô quên đấy thôi! Đây đâu phải lần đầu tiên trí nhớ của cô phản chủ, đúng không nào?

Ai có thể là người gửi kiện hàng này nhỉ? Một món quà của Adam chăng, một món hàng cô đã đặt mua rồi quên chăng, hay một thiết bị dành cho văn phòng mà cô đã sơ suất đăng ký giao về địa chỉ nhà riêng? Dù thế nào chăng nữa, Julia cũng không thể bỏ mặc các cộng sự mà cô đã triệu tập đến xưởng phim vào một ngày Chủ nhật. Giọng của ông Zimoure buộc cô phải tìm cho ra một ý nào đó trong thời gian ngắn nhất, nếu không muốn nói là ngay tức khắc.

– Tôi nghĩ là tôi có một giải pháp cho rắc rối của chúng ta rồi, ông Zimoure. Với sự giúp đỡ của ông, chúng ta có thể khắc phục tình hình.

– Giờ thì tôi càng thêm nể phục cái đầu óc lô gíc của cô rồi đấy. Đáng lẽ cô nên nói rằng cô có thể giải quyết cái vấn đề cho tới lúc này vẫn là vấn đề của riêng mình cô, chứ không phải của tôi, nhờ thế mà không một lần nữa làm liên lụy đến tôi, cô làm tôi kinh ngạc đấy, cô Walsh ạ. Thế nên tôi đang lắng nghe cô cực kỳ chăm chú đây.

Julia thổ lộ với ông rằng cô giấu một chìa khóa dự phòng dưới thảm trải cầu thang, ở bậc thứ sáu. Ông chỉ việc đếm bậc. Nếu không phải bậc thứ sáu thì sẽ là bậc thứ bảy hoặc có thể là bậc thứ tám. Như thế ông Zimoure có thể mở cửa cho những nhân viên giao vận và cô chắc chắn rằng ngay khi làm xong, họ sẽ rút đi không một giây chậm trễ với cái xe tải to đùng đang chắn trước cửa tiệm.

– Và tôi hình dung rằng lý tưởng nhất là tôi phải đợi cho tới lúc họ đi khỏi để khóa lại cửa căn hộ của cô, có đúng không?

– Lý tưởng, tôi sẽ không thể tìm ra từ nào chuẩn xác hơn, ông Zimoure ạ…

– Nếu đây là một thiết bị điện gia dụng, thưa cô Walsh, tôi sẽ vô cùng biết ơn nếu cô cho thợ lành nghề đến lắp đặt. Cô hiểu tôi muốn nói gì rồi đấy!

Julia muốn trấn an ông, cô không đặt mua bất kỳ thiết bị nào loại đó, nhưng người hàng xóm của cô đã gác máy. Cô nhún vai, suy nghĩ vài giây rồi quay lại với công việc đang choán hết toàn bộ trâm trí.

* * *

Khi màn đêm buông xuống, tất cả mọi người tập hợp trước màn hình trong phòng họp lớn. Charles thao tác trên máy tính và những kết quả hiển thị trên màn hình có vẻ rất đáng khích lệ. Thêm vài giờ làm việc nữa và “cuộc chiến đấu của những chú chuồn chuồn” sẽ có thể diễn ra đúng giờ dự kiến. Các chuyên viên tin học kiểm tra lại các phép tính, các chuyên viên đồ họa hoàn thiện những chi tiết cuối cùng của phối cảnh và Julia bắt đầu cảm thấy sự xuất hiện của mình là vô ích. Cô tới phòng căng tin, ở đó cô gặp Dray, một chuyên viên hình họa đồng thời là một cậu bạn cô đã học cùng trong một khoảng thời gian dài.

Thấy cô vươn vai, anh đoán chứng đau cột sống đã hạ gục cô và khuyên cô hãy về nhà nghỉ ngơi. Cô may mắn vì sống cách đây chỉ vài dãy phố, cô phải tận dụng lợi thế ấy. Anh sẽ gọi cho cô ngay khi những thử nghiệm hoàn tất. Julia cảm động trước cử chỉ ân cần ấy nhưng cô có nhiệm vụ ở lại sát cánh cùng các cộng sự; Dray bác lại rằng nhìn cô đi từ phòng này sang phòng khác chỉ dồn thêm áp lực không cần thiết vào nỗi mệt nhọc chung.

– Và từ khi nào sự hiện diện của tớ lại trở thành một gánh nặng tại nơi này thế? Julia hỏi.

– Đừng thổi phồng mọi chuyện như vậy, tất cả mọi người đều đang quá tải. Chúng ta đã không có được lấy một ngày nghỉ nào từ sáu tuần nay.

Julia lẽ ra đang trong thời gian nghỉ phép cho tới Chủ nhật tuần sau và Dray thừa nhận rằng toàn bộ nhân viên đang hy vọng có thể tranh thủ dịp này để xả hơi một chút.

– Cả đám bọn tớ cứ nghĩ cậu đang hưởng tuần trăng mật chứ… Đừng hiểu sai điều ấy, Julia. Tớ chỉ là phát ngôn viên của họ thôi, Dray nói tiếp vẻ bối rối. Đó là cái giá phải trả cho những trách nhiệm mà cậu đã nhận về mình. Từ ngày cậu được bổ nhiệm chức giám đốc bộ phận sáng tạo, cậu không còn đơn thuần là một đồng nghiệp nữa, cậu đại diện cho một uy quyền nào đó… Bằng chứng đây, hãy nhìn số người cậu đã huy động được chỉ với vài cuộc điện thoại và hơn nữa, lại vào một ngày Chủ nhật!

– Tớ có cảm tưởng chuyện này cũng đáng công đấy chứ, phải không? Nhưng tớ tin là mình đã hiểu được bài diễn thuyết rồi, Julia trả lời. Bởi vì uy quyền của tớ có vẻ như đang đè nặng lên năng lực sáng tạo của người này người kia, tớ không làm phiền nữa. Chắc chắn gọi cho tớ lúc nào cậu xong nhé, không phải vì tớ là sếp đâu, mà vì tớ cũng là thành viên trong đội!

Julia vớ cái áo đi mưa cô vắt trên thành ghế, kiểm tra xem chìa khóa còn ở đáy túi quần jean không rồi rảo bước về phía thang máy.

Khi ra khỏi tòa nhà, cô bấm số điện thoại của Adam, nhưng chỉ nhận được tin nhắn thoại của anh.

– Là em đây, cô nói, em muốn nghe giọng anh. Ngày thứ Bảy thê thảm và ngày Chủ nhật cũng buồn rầu không kém. Cuối cùng, em không biết liệu ở một mình có phải là một ý tưởng hay hay không. Ít ra thì em cũng giúp anh tránh được tâm trạng bực bội của em. Em hầu như vừa bị các đồng nghiệp đuổi khéo khỏi văn phòng. Em sẽ đi dạo một lát, anh có lẽ đã trở về từ nông thôn và đi ngủ rồi cũng nên. Em chắc là mẹ anh đã làm anh kiệt sức. Lẽ ra anh nên để lại cho em một lời nhắn. Hôn anh. Em định dặn anh gọi lại cho em, nhưng như thế ngốc quá vì chắc anh ngủ mất rồi. Dù thế nào đi nữa, em vẫn tin rằng tất cả những điều em vừa nói với anh là ngu ngốc. Hẹn mai gặp lại. Lúc nào dậy anh gọi cho em nhé.

Julia cất điện thoại vào túi xách rồi bước dọc theo thân kè. Nửa tiếng sau, cô về đến nhà và nhìn thấy một chiếc phong bì được dán bằng băng dính trong ở cửa ra vào tòa nhà. Trên đó tên cô được viết thoáy. Cô mở ra, lòng hết sức tò mò. “Tôi đã mất một khách hàng trong khi lo đến món hàng được giao cho cô. Chìa khóa ở nguyên chỗ cũ. TB: Dưới bậc thứ mười một chứ không phải bậc thứ sáu, bảy hay tám! Chủ nhật tốt lành!” Lời nhắn khép lại bằng chữ ký của người gửi.

– Ông ta lại còn vẽ đường cho bọn trộm nữa chứ! Cô vừa gắt gỏng vừa leo cầu thang.

Càng lên gần đến tầng hai, cô càng cảm nhận rõ ràng nỗi sốt ruột muốn khám phá thứ đựng bên trong kiện hàng đang chờ cô trong nhà. Cô rảo bước nhanh hơn, lấy lại chìa khóa để dưới thảm, quyết định tìm cho nó một chỗ giấu khác rồi bật đèn khi bước vào nhà.

Một cái hòm to kếch xù được đặt theo chiều dọc đang chễm trệ giữa phòng khách.

– Nhưng là cái gì mới được nhỉ? Cô vừa nói vừa bỏ lại đồ đạc trên cái bàn thấp.

– Mảnh nhãn dán bên hông, ngay dưới lời cảnh báo Dễ vỡ, ghi rõ tên cô. Julia bắt đầu bằng việc đi một vòng quanh cái hòm to tướng bằng gỗ sáng màu. Vật này quá nặng để cô nghĩ đến việc dịch chuyển nó, dù chỉ vài mét. Ít nhất cũng phải có một cây búa và chiếc tuốc nơ vít, ngoài ra cô không thấy còn cách nào để mở nó ra.

Adam không bắt máy, chỉ còn lại mối chi viện quen thuộc của cô, cô bấm số của Stanley.

– Em có phiền anh không?

– Một buổi tối Chủ nhật, mà lại vào giờ này sao? Anh cứ chờ em gọi rủ anh đi chơi.

– Nói để em yên tâm nào, anh không gửi đến nhà em một chiếc hòm ngớ ngẩn cao gần hai mét đấy chứ?

– Em đang nói đến cái gì vậy, Julia?

– Đúng như em đã nghĩ! Câu hỏi tiếp theo, người ta làm cách nào để mở một chiếc hòm ngớ ngẩn cao tới hai mét?

– Nó làm bằng chất liệu gì?

– Bằng gỗ!

– Có lẽ là với một cái cưa chăng?

– Cảm ơn anh đã giúp, Stanley, em nên trữ sẵn thứ đó trong túi xách của em hoặc trong tủ thuốc mới phải, Julia nói.

– Anh mạn phép tò mò chút nhé, bên trong là gì vậy?

– Là cái mà em đang rất muốn biết đây! Và nếu anh muốn có lời giải đáp, Stanley ạ, hãy lên ngay một chiếc taxi rồi đến phụ giúp em một tay.

– Anh đang mặc đồ ngủ, em thân mến!

– Em tưởng anh đang sửa soạn đi chơi?

– Từ trên giường anh!

– Em sẽ xoay xở một mình vậy.

– Khoan đã, để anh suy nghĩ đã nào. Không có tay nắm à?

– Không!

– Thế còn bản lề?

– Em không thấy có.

– Đó có thể là một tác phẩm nghệ thuật hiện đại, một chiếc hộp không mở được, chế tác bởi một nghệ sĩ vĩ đại? Stanley vừa nói tiếp vừa cười châm chọc.

Sự câm lặng của Julia khiến anh hiểu rằng đây hoàn toàn không phải là lúc để đùa cợt.

– Em đã thử đơn giản là đẩy nhẹ một cái hay đá mạnh một cú, như để mở mấy cái cửa tủ quần áo ấy? Một cú đẩy và hấp…

Và trong khi anh bạn tiếp tục cắt nghĩa, Julia đặt tay mình lên mặt gỗ. Cô ấn xuống như Stanley vừa gợi ý và mặt trước của cái hòm liền xoay đi chậm rãi.

– Alô? Alô, Stanley hò hét hết hơi trong điện thoại. Em vẫn ở đó chứ?

Điện thoại tuột khỏi tay Julia. Sửng sốt, cô lặng ngắm vật nằm bên trong hòm và thứ cô vừa phát hiện dường như khó mà tưởng tượng ra nổi.

Giọng của Stanley vẫn tiếp tục lạo xạo trong chiếc di động rơi dưới chân cô. Julia chậm rãi cúi xuống để nhặt lại, mắt vẫn không rời khỏi cái hòm.

– Stanley à?

– Em làm anh sợ xanh cả mặt, mọi chuyện ổn chứ?

– Có thể nói vậy.

– Em có muốn anh mặc quần dài vào và đến chỗ em ngay lập tức không?

– Không, cô đáp bằng một giọng đều đều không âm sắc, không cần đâu.

– Em mở được hòm rồi à?

– Vâng, cô lơ đễnh đáp, mai em gọi anh sau.

– Em làm anh lo quá!

– Ngủ lại đi, Stanley, hôn anh.

Rồi Julia cúp máy.

– Ai có thể gửi cho mình một thứ như thế này cơ chứ? Cô lớn tiếng, một mình đứng giữa căn hộ riêng.

* * *

Bên trong hòm, một dạng tượng sáp bằng cỡ người thật, bản sao hoàn hảo của Anthony Walsh đang đứng trước mặt cô. Thứ đồ giả gây ấn tượng mạnh; chỉ cần nó mở mắt ra người ta có thể tin là nó sống. Julia khó khăn lắm mới thở được bình thường. Vài giọt mồ hôi chảy dọc trên gáy cô. Cô tiến lại gần từng bước một. Bản sao kích cỡ như người thật của bố cô thật phi thường, màu sắc và vẻ dáng của làn da giống thực đến đáng ngạc nhiên. Đôi giày, bộ quần áo màu xám chì, áo sơ mi vải cô tông trắng, tất cả giống hệt với những thứ y phục bất di bất dịch của Anthony Walsh. Cô những muốn chạm vào má ông, bứt một sợi tóc để tin chắc đó không phải là ông, nhưng Julia và bố cô từ lâu nay đã đánh mất niềm ham muốn đối với sự tiếp xúc dù là nhỏ nhất. Không một cái ôm khẽ nhất, không một nụ hôn, thậm chí không cả một cú sượt tay, không gì bề ngoài có thể giống với một cử chỉ âu yếm. Cái hố do năm tháng đào sâu không thể nào lấp đầy, đừng nói đến chuyện lấp đầy với một bản sao.

Bây giờ cần phải giải quyết điều không thể tưởng tượng ra nổi. Ai đó đã nảy ra cái ý tưởng kinh khủng là đặt làm một bản sao của Anthony Walsh, dáng vẻ tương tự như những bản sao ta thường thấy trong một số bảo tàng nộm sáp ở Québec, Paris cũng như Luân Đôn, một hình nộm giống thật hơn tất cả những hình nôm cô nhìn thấy từ trước đến nay. Và hét lên chính xác là điều mà Julia đang ước chi mình có thể.

Trong lúc quan sát tác phẩm điêu khắc, cô nhận thấy ở phần măng sét lật có một mẩu giấy nhắn được ghim vào, trên mẩu giấy là một mũi tên vẽ bằng mực xanh chĩa về phía túi trên của áo vest. Julia gỡ nó ra và đọc mấy chữ viết nguệch ngoạc trên mặt sau tờ giấy: “Kích hoạt bố đi”. Cô ngay lập tức nhận ra nét chữ hết sức đặc biệt của bố mình.

Từ túi áo được mũi tên chỉ rõ, nơi thông thường Anthony Walsh vẫn gài một chiếc khăn lụa nhỏ, nhô lên mỏm đầu của một thứ giống như thiết bị điều khiển từ xa. Julia chộp lấy. Thiết bị đó chỉ có một nút duy nhất trên bề mặt, nút bấm hình chữ nhật màu trắng.

Julia tưởng như ngất đi được. Một cơn ác mộng, lát nữa cô sẽ tỉnh giấc, nhễ nhại mồ hôi, phá lên cười vì đã để bị cuốn theo một cơn mê sảng như vậy. Chính cô, người tuy vậy đang thề với mình là đã nhìn thấy cỗ quan tài của bố mình được hạ huyệt, rằng đám tang của ông đã kết thúc từ lâu, rằng cô sẽ không thể chịu đựng sự vắng mặt của ông ngay cả khi nó đã trở nên quen thuộc từ gần hai chục năm nay. Chính cô, kẻ hầu như vẫn tự hào về độ chín chắn, lại bắt đầu bị cái vô thức của bản thân gài bẫy như vậy, điều này gần như vô lý và nực cười. Bố cô đã rời khỏi những đêm thơ ấu của cô, nhưng không thể có chuyện ký ức về ông lại kéo đến ám ảnh những đêm trong quãng đời trưởng thành của cô.

Tiếng động của chiếc xe ben chở rác xóc nảy trên mặt đường không có gì là phi thực tại. Julia đúng là đang thức và, trước mặt cô, một pho tượng với đôi mắt nhắm nghiền dường như đang đợi cô quyết định nhấn, hoặc không, lên nút của chiếc điều khiển từ xa có cấu tạo đơn giản.

Chiếc xe tải đi xa dần trong phố, Julia những mong nó không đi mất; cô sẽ lao đến bên cửa sổ, sẽ van xin các nhân viên dọn vệ sinh tống khứ cơn ác mộng kỳ quặc này ra khỏi căn hộ của mình. Nhưng con phố lại lần nữa chìm trong tĩnh lặng.

Ngón tay cô lướt nhẹ trên nút bấm, hết sức nhẹ nhàng, không tìm ra sức mạnh để đặt lên nó một áp lực nhỏ nhất.

Phải kết thúc chuyện này đi thôi. Khôn ngoan nhất là đóng hòm lại, tìm trên mảnh nhãn địa chỉ liên lạc của hãng vận chuyển, gọi cho họ ngay đầu giờ sáng sớm, yêu cầu họ đến bốc dọn cái con rối thảm thê này đi và rốt cuộc cũng tìm ra tung tích tác giả của trò đùa tai quái. Ai có thể nghĩ ra một trò lường gạt tương tự, ai trong số những người thân cận có thể đùa ác như vậy?

Julia mở toang cửa sổ và hít đầy phổi khí trời đêm dịu mát.

Bên ngoài, thế giới vẫn hệt như cô để nó lại khi bước qua ngưỡng cửa vào nhà. Những chiếc bàn của nhà hàng Hy Lạp xếp chồng lên nhau, đèn trên biển hiệu đã tắt, một phụ nữ dắt chó đi dạo đang vượt qua ngã tư. Chú chó giống labrador màu sô cô la đang chạy theo hình chữ chi, kéo căng sợi dây buộc, khi thì để chạy đến hít ngửi chân một cột đèn đường, khi thì hít ngửi một bậu tường.

Julia nín thở, siết chặt chiếc điều khiển từ xa trong tay. Cô cố sức xét kỹ lại danh sách người quen cũng vô ích, một cái tên duy nhất không ngừng trở đi trở lại, một người duy nhất có khả năng nghĩ ra một kịch bản như vậy, một sự dàn cảnh tương tự. Bị thôi thúc bởi cơn giận, cô quay phắt lại, băng ngang căn phòng, lúc này đã cương quyết xác minh cái linh cảm đã thuyết phục được cô là có căn cứ hay không.

Ngón tay cô ấn nút, một tiếng “tách” nhỏ vang lên và mí mắt của thứ giờ đây đã không còn là pho tượng vén lên; khuôn mặt hé nở một nụ cười và giọng của bố cô cất lên:

– Con đã phần nào nhớ bố rồi ư?


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.