Mọi Điều Ta Chưa Nói

Chương 15



Kể từ biên giới Đức, Anthony và Julia không nói với nhau lời nào. Thỉnh thoảng, cô vặn to âm lượng radio và Anthony lại giảm xuống ngay lập tức. Một rừng thông hiện ra phía trước xe. Nơi bìa rừng, một dãy bê tông đúc khối chắn ngang một lối rẽ từ nay trở về sau đã đóng kín. Julia nhận ra từ đằng xa hình dạng thảm thê của những tòa nhà cũ kỹ tại vùng đất biên giới Marienborn, bây giờ đã trở thành một đài kỷ niệm.

– Làm thế nào các con vượt qua được? Anthony hỏi khi nhìn thấy những chòi canh tróc vữa lướt qua phía bên tay phải ông.

– Liều thôi! Một trong hai anh bạn đi cùng con có bố làm ngoại giao, bọn con cam đoan đang trên đường đi thăm bố mẹ hiện đang công tác tại Tây Berlin.

Anthony cười rộ lên.

– Về phần con, chuyện ấy xem ra vẫn thật trớ trêu.

Ông đặt hai bàn tay lên đầu gối.

– Bố xin lỗi vì đã không nghĩ đến việc trả lại bức thư đó cho con sớm hơn, ông nói tiếp.

– Bố nói thật chứ?

– Bố không biết, dẫu sao, bố cảm thấy nhẹ lòng hơn vì đã nói cho con biết. Con có muốn dừng xe lại ngay khi có thể không?

– Tại sao?

– Để con nghỉ ngơi một chút không phải là ý tồi đâu, vả lại chân bố cũng tê cứng rồi.

Một tấm biển chỉ dẫn cho thấy có một trạm dừng cách đó mười kilomet. Julia hứa sẽ đỗ lại đó nghỉ ngơi.

– Tại sao bố mẹ lại sang Montréal?

– Bố mẹ không có nhiều tiền, mà nhất là bố, mẹ con còn có vài khoản dành dụm nhưng bố mẹ nhanh chóng tiêu hết sạch. Cuộc sống tại New York mỗi lúc thêm khó khăn. Bố mẹ đã sống hạnh phúc ở Montréal, con biết đấy. Thậm chí bố còn tin rằng đó là những năm tháng đẹp đẽ nhất trong đời bố mẹ.

– Điều đó khiến bố tự hào, phải không? Julia hỏi bằng giọng ngọt ngào mỉa mai.

– Gì kia?

– Ra đi với hai bàn tay trắng và đã thành công đến thế.

– Con thì không thế sao? Con không tự hào về sự táo bạo của mình ư? Con không thỏa mãn khi nhìn thấy một đứa trẻ chơi với con thú bông sinh ra từ trí tưởng tượng của con ư? Khi con đi dạo trong một trung tâm thương mại, và con phát hiện ra trên mặt tiền rạp chiếu phim có dán áp phích bộ phim do chính con viết kịch bản, con không tự hào sao?

– Con hài lòng vì được hạnh phúc, thế đã là khá nhiều rồi.

Chiếc xe rẽ sang bãi đỗ tạm. Julia đỗ xe dọc theo vỉa hè chạy viền quanh một bãi cỏ rộng. Anthony mở cửa xe và nhìn con gái vẻ ngạo mạn trước khi bỏ đi.

– Con làm bố phát bực, Julia ạ! ông nói và đi xa dần.

Cô tắt máy rồi gục đầu lên vô lăng.

– Mình đang làm gì ở đây thế này?

Anthony băng qua khu vui chơi dành cho trẻ nhỏ và bước vào trạm phục vụ. Vài phút sau, ông quay trở ra, khệ nệ xách theo một túi đồ dự trữ, mở cửa xe rồi để những thứ vừa mua lên băng ghế.

– Con đi rửa ráy sửa sang đôi chút đi, bố đã mua mấy thứ để con ăn cho lại sức. Bố sẽ trông xe trong lúc chờ con.

Julia làm theo lời ông. Cô đi vòng qua cái bập bênh, tránh thùng cát và đến lượt mình cũng bước vào trạm phục vụ. Khi cô quay trở ra, Anthony đã nằm dài dưới chân một cầu trượt, mắt nhìn chăm chú lên trời.

– Bố ổn chứ? cô hỏi, lo lắng.

– Con nghĩ là bố đang ở trên kia sao?

Bối rối trước câu hỏi ấy, Julia ngồi xuống thảm cỏ, ngay cạnh ông. Đến lượt mình, cô cũng ngẩng đầu nhìn lên.

– Con không rõ. Con đã tìm kiếm Tomas trong những đám mây này rất lâu. Nhiều lần con chắc chắn đã nhận ra anh ấy, vậy mà anh ấy vẫn còn sống.

– Mẹ con không tin vào Chúa, bố thì có. Thế nên, con nghĩ bố có được lên Thiên đường hay không?

– Thứ lỗi cho con vì con không thể trả lời câu hỏi của bố, con không làm được.

– Không thể tin vào Chúa à?

– Không thể chấp nhận ý nghĩ bố đang ở đây, bên cạnh con, rằng con đang trò chuyện cùng bố trong khi…

– Trong khi bố đã chết rồi chứ gì! Bố đã nói với con rồi, hãy học cách không e sợ từ ngữ nữa. Những từ xác đáng là hết sức quan trọng. Thí dụ, nếu con nói với bố sớm hơn, bố ạ, bố là kẻ đểu cáng và ngốc nghếch không bao giờ hiểu được cuộc đời con, một kẻ ích kỷ muốn nhào nặn cuộc đời con theo hình mẫu cuộc đời của bản thân bố; một ông bố như nhiều ông bố khác, kẻ làm con đau đớn khi nói năng cuội rằng đó là vì lợi ích của con trong khi đó là vì lợi ích của bố, có lẽ bố đã nghe lời con rồi đấy. Có lẽ bố con ta sẽ không bỏ phí cả quãng thời gian này, bố con ta sẽ trở thành những người bạn của nhau. Thừa nhận đi, rằng chuyện chúng ta trở thành bạn của nhau cũng hay ra phết.

Julia vẫn im lặng.

– Này, thí dụ, đây là những từ xác đáng: thay vì làm một ông bố tốt, bố muốn trở thành bạn của con.

– Chúng ta phải tiếp tục lên đường thôi, Julia nói, giọng nghẹn lại.

– Chúng ta hãy chờ thêm một chút nữa, bố cho là năng lượng dự trữ của bố không đạt được mức hứa hẹn trong bản chỉ dẫn; nếu bố tiếp tục sử dụng nó theo kiểu này, bố e là chuyến đi của bố con ta sẽ không thể kéo dài như dự kiến.

– Chúng ta có thể chờ cho đủ thời gian cần thiết mà. Berlin không còn xa mấy nữa, vả lại, sau hai mươi năm, chúng ta chỉ còn cách vài giờ nữa thôi.

– Mười bảy năm, Julia ạ, không phải hai mươi.

– Chuyện ấy không thay đổi gì đáng kể.

– Ba năm trong đời ấy à? Có chứ, có chứ, thế đã là nhiều. Tin bố đi, bố biết mình đang nói gì.

Bố và con gái cùng nằm dài như thế, tay đan chéo gối sau đầu, cô nằm trong cỏ, ông nằm dưới chân cầu trượt, cả hai bất động chăm chú quan sát bầu trời.

Một giờ đồng hồ đã trôi qua, Julia thiu thiu ngủ và Anthony ngắm cô ngủ. Giấc ngủ của cô có vẻ yên bình. Đôi lúc, cô cau mày, khó chịu vì những sợi tóc gió thổi lòa xòa trên khuôn mặt. Bàn tay ngập ngừng, Anthony nhẹ nhàng gạt một món tóc về phía sau. Khi Julia mở choàng mắt, vòm trời đã chuyển sang màu sẫm của buổi tối. Anthony không còn nằm bên cô nữa. Cô nhìn về phía đường chân trời tìm kiếm và nhận ra bóng ông, đang ngồi ở phía trước ô tô. Cô xỏ lại giày mà không nhớ đã cởi chúng ra từ khi nào rồi chạy về bãi đỗ xe.

– Con ngủ lâu chưa? cô hỏi trong lúc khởi động xe.

– Hai tiếng, có lẽ là hơn. Bố không để ý.

– Thế còn bố, trong thời gian đó bố làm gì?

– Bố đợi.

Chiếc xe rời khỏi bãi đỗ tạm và lại đi theo xa lộ. Postdam chỉ còn cách tám mươi kilomet.

– Chúng ta sẽ đến nơi vào lúc đêm xuống, Julia nói. Con không có chút ý tưởng nào để lần lại dấu vết của Tomas. Thậm chí con cũng không biết liệu anh ấy còn sống ở đó không. Chung quy, đúng thế đấy, bố đã kéo theo con trong một quyết định nhất thời, ai bảo chúng ta rằng anh ấy vẫn sống ở Berlin nào?

– Phải, quả thực, đó là một khả năng, trước tình hình bất động sản tăng giá, vợ cậu ta, ba đứa con sinh ba của cậu ta và và gia đình nhà vợ cậu ta đã dọn đến ở cùng họ, có lẽ cả đại gia đình đó đang sống trong một căn nhà gỗ sang trọng ở vùng nông thôn.

Julia bực bội nhìn bố mình, người lại lần nữa ra hiệu cho cô tập trung nhìn đường.

– Cái cách nỗi sợ có thể gây ức chế tinh thần mới đáng sợ làm sao, ông nói tiếp.

– Bố định nói bóng gió gì thế?

– Chẳng gì cả, một ý nghĩ như mọi ý nghĩ khác thôi mà. Nhân tiện, bố không muốn xen vào chuyện không liên quan đến mình, nhưng có lẽ đã đến lúc con phải báo tin cho Adam rồi. Ít ra hãy làm điều ấy vì bố, bố không thể nghe Gloria Gaynor thêm lần nữa, cô ấy không ngừng hát ông ổng trong túi xách của con từ khi con đang ngủ kìa.

Rồi Anthony cất giọng nhại một đoạn sôi nổi trong “I Will Survive”. Julia cố hết sức để giữ vẻ nghiêm túc, nhưng Anthony hát càng lúc càng lớn tiếng và càng lúc cô càng mỉm cười. Khi tiến vào vùng ngoại ô Berlin, cả hai đều đã cười thoải mái.

Anthony chỉ đường cho Julia lái xe đến tận khách sạn Brandenburger Hof. Ngay khi họ tới nơi, một người phục vụ đã chào đón họ, chào mừng ông Walsh vừa từ trên xe bước xuống. “Buổi tối tốt lành, ông Walsh,” đến lượt người gác cửa nói vậy trong khi đẩy cánh cửa xoay. Anthony đi ngang đại sảnh và đến quầy lễ tân nơi người thường trực cũng lại chào ông thân mật. Mặc dù họ chưa đặt trước phòng và vào mùa này, khách sạn đang trương biển hết phòng, ông ta cam đoan hai phòng loại tốt nhất sẽ sẵn sàng để họ sử dụng. Nhưng ông rất lấy làm tiếc, hai căn phòng lại không ở cùng tầng. Anthony cảm ơn ông ta, nói thêm rằng chuyện này không quan trọng. Khi giao chìa khóa cho nhân viên phụ trách hành lý, người thường trực hỏi Anthony có muốn ông ta giữ cho họ một bàn trong nhà hàng sành ăn của khách sạn hay không.

– Con có muốn bố con ta dùng bữa tối ở đây không? Anthony quay sang hỏi Julia.

– Bố có cổ phần trong khách sạn này sao? Julia chất vấn.

– Nếu không, Anthony đáp, bố biết một nhà hàng châu Á rất tuyệt cách đây hai phút đi bộ. Con vẫn thích món ăn Trung Hoa đấy chứ?

Và vì Julia không trả lời, Anthony yêu cầu người thường trực đặt trước cho họ một bàn dành cho hai người trong sân hiên nhà hàng ChinaGarden.

Sau khi sửa sang đôi chút, Julia xuống gặp bố cô và họ đi bộ rời khỏi khách sạn.

– Con phật ý sao?

– Thật quá đáng vì mọi thứ đều thay đổi, Julia đáp.

– Con đã gặp Adam trên điện thoại?

– Vâng, con gọi cho anh ấy từ phòng mình.

– Cậu ấy nói gì với con?

– Nói anh ấy nhớ con, anh ấy không hiểu tại sao con lại ra đi như vậy, cũng không hiểu con đang theo đuổi điều gì, anh ấy đã đến Montréal tìm con nhưng ta đã rời đi một tiếng đồng hồ trước khi anh ấy đến nơi.

– Con cứ hình dung vẻ mặt cậu ta khi nhìn thấy hai bố con mình đi cùng nhau xem!

– Anh ấy cũng bốn lần yêu cầu con hứa với anh ấy là con chỉ có một mình.

– Rồi sao?

– Con đã bốn lần nói dối chứ sao!

Anthony đẩy cánh cửa nhà hàng và nhường lối cho con gái.

– Rồi con sẽ phải tập quen với chuyện đó nếu con tiếp tục, ông vừa nói vừa cười.

– Thực sự con không thấy chuyện đó có gì đáng cười!

– Chuyện buồn cười ở đây là bố con ta hiện đang ở Berlin tìm kiếm mối tình đầu của con và con cảm thấy có tội vì con đã không thể thú nhận với chồng sắp cưới của mình rằng con đã ở Montréal cùng bố mình. Có thể bố hơi lạc đề, nhưng bố thấy chuyện này đúng ra là kỳ cục, ủy mị nhưng kỳ cục.

Anthony tranh thủ bữa ăn để đề xuất một kế hoạch. Ngay khi thức dậy, họ sẽ đến thăm hội nhà báo, để xác minh phải chăng người có tên Tomas Meyer nào đó vẫn sở hữu một tấm thẻ hành nghề. Trên đường về, Julia kéo bố về phía công viên Tiergarten.

– Con đã ngủ ở đó, cô nói và chỉ vào một thân cây lớn đằng xa. Điên thật, con có cảm tưởng như mới hôm qua vậy.

Anthony nhìn cô con gái bằng một vẻ ranh mãnh. Ông đan hai bàn tay vào nhau và duỗi thẳng cánh tay.

– Bố làm gì vậy?

– Cái thang ngắn, nào, nhanh lên, không ai trông thấy đâu, ta nên tranh thủ.

Julia không đợi mời thêm, cô đặt chân vào tay ông vào trèo qua rào sắt.

– Thế còn bố? cô hỏi và đứng thẳng dậy từ bên kia rào.

– Bố sẽ đi qua cổng, ông nói và chỉ về phía lối vào cách đó một quãng. Công viên nửa đêm mới đóng cửa, ở tuổi bố, làm vậy dễ hơn.

Ngay khi ông gặp lại Julia, ông kéo cô bước vào bãi cỏ và ngồi dưới gốc cây đoạn to ban nãy cô đã chỉ.

– Thật lạ, bố cũng đã từng đánh vài giấc ngủ trưa dưới gốc cây này khi còn ở Đức. Đó là góc ưa thích nhất của bố. Mỗi khi được nghỉ phép, bố thường đến đây ngồi với một cuốn sách và bố ngắm những cô thiếu nữ dạo trên lối đi. Vào cùng độ tuổi, cả hai bố con ta đã ngồi cùng một chỗ, rốt cuộc cách đây đã vài thập kỷ. Cùng với tòa tháp ở Montréal, giờ bố con ta đã có hai nơi để chia sẻ kỷ niệm, bố rất hài lòng.

– Đây chính là nơi con thường đến cùng Tomas, Julia nói.

– Bố bắt đầu thấy cậu trai ấy đáng mến rồi đấy.

Một tiếng voi rú vang lên từ đằng xa. Vườn thú Berlin chỉ cách họ vài mét về phía sau, ở rìa công viên.

Anthony đứng dậy và bảo con gái đi theo mình.

– Hồi còn nhỏ con ghét các vườn thú lắm. Con không thích các con vật bị nhốt trong chuồng. Thời đó con muốn trở thành bác sĩ thú y. Hẳn là con quên rồi, bố đã tặng con nhân dịp sinh nhật lên sáu tuổi một con thú nhồi bông lớn, một con rái cá nếu bố không nhầm. Lẽ ra bố không nên chọn nó, nó ốm suốt và con mất bao nhiêu thời gian để chăm sóc nó.

– Không phải bố đang gợi ý rằng nhờ bố mà con đã vẽ…

– Ý nghĩ mới hay ho làm sao! Như thể tuổi thơ có thể đóng một vai trò nào đó trong cuộc sống trưởng thành của chúng ta vậy… Với tất cả những gì con đã oán trách bố, chuyện này sẽ không thay đổi gì trường hợp của bố.

Anthony thổ lộ rằng ông cảm thấy sức lực đang giảm sút theo một nhịp độ khiến ông lo ngại. Đã đến lúc quay về khách sạn, họ gọi một chiếc taxi.

Về đến khách sạn, Anthony chào tạm biệt Julia khi cô ra khỏi thang máy rồi tiếp tục quãng đường lên phòng của ông ở tầng trên cùng.

Nằm dài trên giường, Julia mất một lúc lâu để lần lượt lướt qua các số điện thoại trên màn hình di động. Cô quyết định gọi lại cho Adam, nhưng khi gặp phải hộp thư trả lời tự động của anh, cô liền gác máy để ngay lập tức quay số của Stanley.

– Thế nào, em đã tìm ra mục tiêu khiến em lên đường tìm kiếm chưa? bạn cô hỏi.

– Chưa đâu, em chỉ vừa mới đến nơi thôi mà.

– Em đi bộ à?

– Đi ô tô từ Paris, đó là một câu chuyện dài.

– Em có nhớ anh chút nào không? anh hỏi.

– Lẽ nào anh không tin là em gọi chỉ để cho anh biết tình hình của em!

Stanley thổ lộ với cô rằng trên đường từ cửa tiệm trở về anh đã đi ngang khu nhà cô ở; đó thực ra không phải lối anh hay đi, nhưng bước chân anh đã vô tình dẫn anh về góc đường đoạn Horatio cắt ngang với Greenwich Street.

– Khi em không ở đó khu phố thật là buồn.

– Anh nói thế để em vui thôi.

– Anh đã gặp ông hàng xóm của em, cái ông bán giày ấy.

– Ý anh là ông Zimoure chứ gì?

– Từ khi em và anh ám quẻ ông ấy… lúc bấy giờ ông ấy đang đứng trước cửa tiệm, ông ấy chào anh, nên anh cũng chào lại.

– Em thực sự không thể bỏ anh lại một mình được, chỉ cần em đi vắng vài ngày là anh đã bắt đầu giao du với những chỗ không nên rồi.

– Em tai ác thật: rốt cuộc thì ông ấy cũng không khó ưa đến thế đâu, em biết mà…

– Stanley à, không phải anh đang thử nói với em điều gì đó chứ?

– Em còn đi tìm gì nữa thế?

– Em hiểu anh hơn ai hết mà, khi anh gặp một ai đó và thoạt đầu anh không thấy họ đáng ghét thì riêng chuyện đó thôi cũng đáng nghi rồi, thế nên với mấy từ “hầu như đáng mến” dành cho ông Zimoure, em đến phải về ngay ngày mai mất thôi!

– Em cần một cớ khác, em thân mến ạ, bọn anh chỉ chào nhau, tất cả chỉ có thế. Adam cũng đã ghé qua thăm anh.

– Rõ là các anh không rời nhau ra nữa!

– Chính em mới tạo ấn tượng là đang rời bỏ cậu ta thì có. Vả lại nếu cậu ta sống cách tiệm của anh hai con phố thì đó cũng không phải là lỗi của anh. Trong trường hợp chuyện này vẫn khiến em quan tâm, anh không thấy cậu ta khỏe mạnh gì cho cam. Dẫu sao đi nữa, để đến thăm anh thì cậu ta hẳn là không được khỏe cho lắm rồi. Cậu ấy nhớ em, Julia ạ, cậu ấy lo lắng và anh nghĩ cậu ấy có lý do để làm vậy.

– Em thề với anh, Stanley ạ, rằng không phải như vậy đâu, thậm chí là ngược lại kia.

– Ôi không, chớ có thề thốt! Chỉ cần nói em có tin vào những gì em vừa nói không?

– Em tin! cô đáp không chút ngần ngại.

– Em làm anh rầu đến chết đi được khi khờ dại đến mức này. Thực ra em có biết chuyến đi bí mật này dẫn em tới đâu không?

– Không ạ, Julia thì thầm trong điện thoại.

– Vậy thì làm sao em đòi hỏi cậu ta phải biết điều ấy? Anh phải gác máy đây, bên này đã hơn bảy giờ rồi và anh phải sửa soạn, anh có hẹn ăn tối.

– Với ai?

– Thế còn em, em dùng bữa tối với ai?

– Một mình ạ.

– Vì anh khiếp sợ rất chính đáng rằng em đang nói dối anh, anh sẽ gác máy đây, ngày mai gọi lại cho anh nhé. Hôn em.

Julia không có đủ thời gian để tiếp tục cuộc trò chuyện, cô nghe thấy một tiếng cạch, Stanley đã biến nhanh, hẳn là về phía tủ quần áo.

* * *

Một hồi chuông kéo cô ra khỏi giấc ngủ. Julia vươn dài người, nhấc điện thoại, cô chỉ nghe thấy tiếng tút dài. Cô đứng dậy, đi ngang phòng, chợt nhận ra trên người đang không mặc gì, cô liền vớ lấy chiếc áo choàng tắm bỏ lại ở chân giường từ hôm qua, lập tức khoác lên người.

Đằng sau cánh cửa, một người phục vụ tầng đang đợi. Khi Julia mở cửa, anh ta đẩy vào phòng một chiếc bàn trên đó có bày một bữa sáng kiểu u và hai quả trứng chần.

– Tôi đâu có gọi đồ ăn gì, cô nói với cậu thanh niên đang bày bộ đồ ăn lên cái bàn thấp.

– Ba phút ba mươi giây chính là độ chín lý tưởng của trứng chần theo ý cô, có phải thế không ạ?

– Chính xác, Julia đáp và vò cho tóc rối tung lên.

– Ông Walsh đã dặn kỹ chúng tôi như vậy!

– Nhưng tôi không đói…, cô nói thêm trong khi cậu thanh niên nhẹ nhàng cắt vỏ trứng.

– Ông Walsh đã báo tôi biết là thể nào cô cũng nói vậy. À, còn một điều cuối cùng trước khi tôi thôi quấy rầy cô, ông ấy đợi cô dưới đại sảnh khách sạn lúc tám giờ, tức là ba mươi bảy phút nữa, cậu ta nói sau khi nhìn đồng hồ đeo tay. Chúc cô ngày tốt lành, cô Walsh, trời đang nắng đẹp, cô hẳn sẽ có một kỳ nghỉ dễ chịu tại Berlin.

Và cậu thanh niên lui ra trước ánh mắt ngơ ngác của Julia.

Cô nhìn trên bàn, nước cam ép, ngũ cốc, bánh mì tươi, không thiếu thứ gì. Quyết định phớt lờ bữa sáng này, cô đi vào phòng tắm, quay trở lại, rồi ngồi xuống tràng kỷ. Cô nhúng một ngón tay vào món trứng rồi rốt cuộc cũng ngấu nghiến gần như hết sạch tất cả các món bày trước mặt.

Tắm nhanh dưới vòi sen, cô vừa mặc quần áo vừa sấy khô tóc, vừa nhảy lò cò vừa xỏ giày vào chân, rồi ra khỏi phòng. Vừa đúng tám giờ!

Anthony đang đứng đợi gần quầy lễ tân.

– Con xuống muộn! ông nói khi cô ra khỏi thang máy.

– Ba phút rưỡi ư? cô đáp và nhìn ông vẻ hồ nghi.

– Không phải con thích ăn trứng chần trong khoảng thời gian đó sao? Đừng lần chần nữa, nửa tiếng nữa chúng ta có một cuộc hẹn và với những vụ tắc đường này, chúng ta chỉ tới nơi khít giờ thôi.

– Chúng ta có hẹn gặp ai và ở đâu?

– Ở trụ sở của công đoàn báo chí Đức. Cũng phải bắt đầu cuộc điều tra của bố con ta ở đâu đó chứ, phải không?

Anthony bước qua cánh cửa xoay rồi gọi một chiếc taxi.

– Bố đã làm thế nào vậy? Julia chất vấn khi ngồi lên một chiếc Mercedes màu vàng.

– Bố đã gọi đến đó vào đầu giờ sáng, trong khi con ngủ!

– Bố nói tiếng Đức?

– Bố có thể nói với con rằng một trong những kỳ quan công nghệ mà bố được trang bị cho phép bố có thể sử dụng thành thạo khoảng mười lăm ngôn ngữ; có lẽ điều ấy khiến con kinh ngạc, cũng có thể không, nhưng con hãy bằng lòng với lời giải thích về một vài năm bố hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại đây, nếu con chưa quên. Bố vẫn còn giữ được một vài kiến thức sơ đẳng về tiếng Đức cho phép bố có thể diễn đạt bằng ngôn ngữ này khi cần thiết. Còn con, người đã muốn sống cả đời mình tại đây, con có thực hành đôi chút ngôn ngữ của Goethe chứ?

– Con quên sạch rồi!

Chiếc taxi lao nhanh trên Stülerstrasse, nó quẹo trái ở ngã tư tiếp theo và chạy ngang qua công viên. Bóng của một cây đoạn to trải trên thảm cỏ xanh rờn.

Lúc này chiếc xe đang chạy dọc theo hai bờ đã được quy hoạch lại của sông Spree. Hai bên bờ sông, những căn nhà, căn này hiện đại hơn căn kia đua tranh độ trong suốt, kiến trúc tự do, bằng chứng cho thấy thời thế đã đổi thay. Khu phố mà họ đang đi qua sát gần biên giới cũ nơi xưa kia đã từng mọc lên bức tường tai ác. Nhưng giờ đây không còn sót lại chút gì của thời kỳ đó. Phía trước họ, một đại sảnh khổng lồ chứa bên trong vách kính ghép màu của nó một trung tâm hội nghị. Xa hơn chút nữa, một khu tổ hợp đồ sộ hơn vẫn đang trải rộng ra từ cả bờ bên này lẫn bờ bên kia sông. Một cây cầu nhỏ màu trắng có hình dạng như treo trên không trung dẫn vào đó. Họ đẩy một cánh cửa rồi đi theo con đường dẫn họ đến với khu văn phòng của công đoàn báo chí. Một nhân viên nam đón họ tại quầy tiếp tân. Sử dụng một thứ tiếng Đức khá chuẩn, Anthony giải thích rằng ông đang tìm gặp một người tên là Tomas Meyer.

– Về việc gì thế nhỉ? người nhân viên hỏi, không buồn ngẩng đầu lên khỏi thứ đang đọc dở.

– Tôi cần phó thác một số thông tin cho Tomas Meyer, chỉ mình cậu ta đủ tư cách nhận những thông tin này, Anthony trả lời bằng giọng nhã nhặn.

Và vì lưu ý sau này dường như rốt cuộc đã thu hút sự chú ý của người đối thoại với ông, ông ngay lập tức nói thêm rằng ông sẽ vô cùng biết ơn nếu công đoàn chia sẻ một địa chỉ nơi có thể gặp được Meyer. Dĩ nhiên không phải những địa chỉ mang tính cá nhân, mà là địa chỉ của cơ quan báo chí nơi cậu ta làm việc.

Nam nhân viên lễ tân yêu cầu ông đợi rồi bỏ đi gặp cấp trên của anh ta.

Viên phó giám đốc mời Anthony và Julia vào phòng làm việc riêng. Ngồi trên một chiếc tràng kỷ, bên dưới một bức ảnh treo tường khổ lớn rõ ràng là chụp chân dung của vị chủ nhân tay cầm món chiến lợi phẩm quan trọng của buổi câu, Anthony nhắc lại bài nói của mình từ lời đầu tiên. Người đàn ông đánh giá Anthony bằng một cái nhìn chăm chú.

– Chính xác thì ông tìm cái người mang tên Tomas Meyer này để tiết lộ với anh ta loại thông tin nào vậy? ông ta vừa hỏi vừa xoắn xoắn ria mép.

– Đó chính xác là điều mà tôi không thể tiết lộ với ông được, nhưng xin hãy yên tâm rằng thông tin này là điều cốt yếu đối với anh ta, Anthony hứa với thái độ thành thực nhất trần đời.

– Tôi không nhớ những bài báo quan trọng do Tomas Meyer nào đó viết, viên phó giám đốc nói, vẻ nghi hoặc.

– Và đó chính xác là điều có thể thay đổi, nếu nhờ ông mà chúng tôi tìm ra cách liên hệ với cậu ta.

– Thế còn cô đây thì có liên quan gì trong tất cả những chuyện này? viên phó giám đốc hỏi, đồng thời xoay ghế hướng về phía cửa sổ.

Anthony quay sang Julia, cô vẫn chưa nói một lời kể từ khi họ đến nơi.

– Hoàn toàn không liên quan gì hết, ông đáp, cô Julia là trợ lý của tôi.

– Tôi không được phép cung cấp cho các vị bất cứ thông tin nào, dù là nhỏ nhất, về một trong số những thành viên của công đoàn chúng tôi, viên phó giám đốc kết luận và đứng lên.

Anthony đến lượt mình cũng đứng lên và lại gần ông ta, đặt tay lên vai ông ta.

– Điều tôi phải giao phó cho Tomas Meyer, và chỉ cho mình cậu ta mà thôi, ông nhấn mạnh bằng giọng độc đoán, có thể thay đổi cuộc đời cậu ta, theo chiều hướng tốt, rất tốt là đằng khác. Đừng để tôi phải nghĩ là một người phụ trách công đoàn có thẩm quyền như ông lại gây cản trở cho bước thăng tiến ngoạn mục của một trong số các thành viên công đoàn chứ? Bởi lẽ, trong trường hợp này, tôi sẽ không gặp khó khăn gì khi đem thái độ này ra trước công luận.

Người đàn ông vuốt ria mép và lại ngồi xuống. Ông ta gõ gõ trên bàn phím của máy tính rồi quay màn hình về phía Anthony.

– Các vị nhìn đây, chẳng có Thomas Meyer nào xuất hiện trong danh sách của chúng tôi cả. Tôi lấy làm tiếc. Và dù cho anh ta không có thẻ nhà báo đi nữa, điều đó là không thể, thì anh ta cũng không xuất hiện trên niên giám nghề nghiệp của chúng tôi, các vị có thể tự mình xác minh. Bây giờ, tôi có việc, vậy nên nếu không ai khác ngoài người tên là Meyer có thể tiếp nhận những điều bí mật quý báu của quý vị thì tôi sẽ yêu cầu hai vị thôi không làm phiền tôi nữa.

Anthony đứng dậy và ra hiệu cho Julia đi theo mình. Ông nồng nhiệt cảm ơn người tiếp chuyện đã dành thời gian tiếp đón rồi rời khỏi khu văn phòng của công đoàn.

– Có thể là con có lý, ông lẩm nhẩm khi lại đi bộ ngược lên vỉa hè.

– Trợ lý của bố ư? Julia nhướn mày hỏi.

– Ồ, bố xin con, đừng làm cái vẻ mặt ấy, bố cũng phải nghĩ ra lý do nào đấy chứ?

– Cô Julia! Lại còn chuyện gì nữa thế này…

Anthony vẫy một chiếc taxi đang chạy phía bên kia đường.

– Tomas của con có lẽ đã đổi nghề.

– Dĩ nhiên là không, phóng viên đối với anh ấy không phải là một nghề, mà là thiên hướng. Con không thể hình dung anh ấy lại có thể làm nghề khác.

– Cậu ta thì chắc là có chứ! Hãy nhắc cho bố tên con phố bẩn thỉu nơi hai đứa sống hồi đó đi, ông hỏi con gái.

– Comeniusplatz, đằng sau đại lộ Karl-Marx.

– Đấy!

– Sao lại đấy!

– Không có gì, toàn những kỷ niệm hay ho, phải không nào?

Rồi Anthony nói địa chỉ cho tài xế taxi.

Chiếc xe đi xuyên thành phố. Lần này không còn những chốt an ninh, không còn dấu vết của bức tường, chẳng còn gì để hồi tưởng lại đâu là nơi kết thúc phần phía Tây, đâu là nơi bắt đầu phần phía Đông. Họ đi qua trước tháp truyền hình, chóp tháp đẹp như tạc có phần nóc vòm và ăng ten chĩa lên trời. Và càng tiến lên trước, cảnh vật càng đổi khác. Khi đến nơi, Julia không thể nhận ra khu phố nơi cô từng sống. Mọi thứ từ giờ trở đi đã khác lạ tới mức ký ức của cô dường như trở thành ký ức về một cuộc sống khác.

– Chính tại chốn tuyệt đẹp này đã diễn ra những giây phút đẹp nhất trong đời con gái của con hả? Anthony hỏi bằng giọng châm chọc. Bố công nhận là nơi này có một vẻ rất lôi cuốn.

– Đủ rồi đấy! Julia kêu lên.

Anthony ngạc nhiên vì thái độ sừng sộ quá đột ngột của con gái.

– Nhưng bố lại nói điều gì sai cơ chứ?

– Con van bố đấy, bố im đi.

Những tòa nàh và những căn nhà cũ kỹ năm xưa từng án ngữ khu phố nay đã nhường chỗ cho những tòa nhà kiến trúc hiện đại. Không gì trong số những kỷ niệm của Julia còn tồn tại, ngoại trừ công viên.

Cô tiến đến căn nhà số 2. Nơi đây trước kia là một căn nhà xập xệ, đằng sau cánh cửa màu xanh lục là một cầu thang gỗ dẫn lên tầng gác; Julia giúp bà của Tomas leo những bậc cao nhất. Cô nhắm mắt và nhớ lại. Thoạt tiên là mùi xi bốc lên khit anh lại gần tủ com mốt, những tấm rèm cửa bằng voan lúc nào cũng kéo kín lọc ánh sáng và chặn đứng ánh mắt của người lạ; chiếc khăn lót vải bông muôn thuở trải trên mặt bàn, ba chiếc ghế trong phòng ăn; xa hơn chút nữa, chiếc tràng kỷ cũ sờn, đối diện với máy thu hình đen trắng. Bà của Tomas đã không bật lại nó kể từ khi nó không chỉ phát đi những tin tức tốt lành mà chính phủ muốn đưa ra. Thế rồi, phía đằng sau, tấm vách mỏng ngăn giữa phòng khách với phòng ngủ của họ. Đã bao lần Tomas thiếu chút nữa thì khiến Julia nghẹt thở với chiếc gối khi cô cười phá lên vì những vuốt ve mơn trớn vụng về của anh?

– Hồi đó tóc con dài hơn, Anthony nói và kéo cô ra khỏi phút mộng mơ.

– Gì kia? Julia quay lại hỏi.

– Hồi mười tám tuổi, tóc con dài hơn bây giờ.

Anthony nhìn lướt về phía đường chân trời.

– Còn lại chẳng nhiều nhặn gì, phải vậy không?

– Đúng ra là chẳng còn gì hết, bố muốn nói thế chứ gì, Julia ấp úng.

– Đi thôi, bố con ta đến ngồi trên băng ghế phía bên kia, trông con xanh lắm, con phải nghỉ cho lại sức đi.

Họ đến ngồi trên một góc cỏ đã ngả vàng bởi vết chân trẻ con.

Julia nín thinh, Anthony hơi nhấc cánh tay, như thể ông muốn vòng tay ôm lấy vai cô, nhưng rốt cuộc tay ông lại thõng xuống lưng ghế.

– Ở đây từng có những ngôi nhà khác, bố biết đấy. Những mặt tiền của chúng bị lở vữa, những khối nhà xây trồng hết sức lôm côm, nhưng bên trong rất êm ái, nó trông…

– Đẹp hơn trong ký ức của con, phải, chuyện thường xảy ra như thế, Anthony nói bằng một giọng trấn an. Trí nhớ là một nghệ sĩ lạ thường, nó vẽ lại những màu sắc của cuộc sống, tẩy xóa cái tầm thường để chỉ giữ lại những đường nét đặc sắc nhất, những đường con khơi gợi nhiều cảm xúc nhất.

– Ở đầu phố, thay vào chỗ cái thư viện xấu kinh người kia, từng có một quán cà phê nhỏ. Con chưa từng thấy nơi nào tồi tàn đến vậy; một căn phòng màu xám, những bóng đèn nê ông treo lủng lẳng trên trần nhà, những chiếc bàn bằng foóc mi ca phần lớn là khập khiễng, nhưng giá mà bố biết được bọn con đã cười thế nào, đã hạnh phúc thế nào trong cái quán rượu nhớp nhúa ấy. Chỉ có thể tìm thấy ở đó rượu vốt ka và một thứ bia dở tệ. Con thường giúp đỡ ông chủ quán khi đông khách, con đeo tạp dề và phục vụ khách. Bố thấy chưa, đằng kia kìa, Julia kết thúc và chỉ tòa thư viện đã thế chỗ quán cà phê.

Anthony ho húng hắng.

– Con chắc là nó không ở phía bên kia phố đấy chứ? Bố nhận ra một quán rượu nhỏ rất giống với những gì con vừa tả.

Julia quay đầu lại. Ở góc đại lộ và nằm đối diện với tòa nhà cô vừa chỉ, một biểu hiện nhấp nháy trên mặt tiền đã xỉn màu của một quán rượu cũ kỹ.

Julia đứng dậy, Anthony bám theo cô. Cô đi ngược lên đầu phố, rảo bước và bắt đầu chạy trong khi những mét cuối cùng dường như kéo dài mãi mãi. Thở hổn hển, cô đẩy cửa quán bar và bước vào bên trong.

Căn phòng đã được sơn lại, hai chùm đèn đã thế chỗ những bóng đèn nê ông, nhưng những chiếc bàn bằng foóc mi ca vẫn còn nguyên, đem lại cho nơi này một phong cách hồi cổ tuyệt vời. Đằng sau quầy không hề đổi khác, một người đàn ông tóc bạc đã nhận ra cô.

Người khách hàng duy nhất đang ngồi trên một chiếc ghế ở cuối phòng. Nhìn từ đằng sau lưng, người ta đoán chừng anh ta đang đọc báo. Nín thở, Julia tiến đến gần anh ta.

– Tomas phải không?


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.