Mê Thần Ký

Chương 21



Tiếng
tiêu ấy được phát ra từ một cây tiêu trúc.

Đó là
di vật của phụ thân hắn, dài hai thước một tấc, chín đốt năm lỗ, là thứ nhạc
khí đại ca thích nhất. Mỗi đêm trăng tâm tình tốt, đại ca có thể thổi những
khúc tiêu khiến lòng người điên đảo.

Được
hai bàn tay nâng niu vuốt ve một thời gian dài, cây tiêu trúc trở nên bóng mượt
như ngọc. Hắn ngờ rằng lúc thổi tiêu, đại ca thường hay chìm vào hồi ức, cho
nên những khúc nhạc ấy mới có âm điệu buồn thương, giai điệu mênh mang, có thể
từ khúc này nối liền một mạch với khúc khác mà không nhận ra đã chuyển khúc, cứ
thể thổi không ngắt không nghỉ. Chỉ có âm điệu chợt lên xuống trầm bổng, chợt
gấp chợt ngưng là ngầm biểu thị cho những cố sự trong đầu đại ca đang đi theo
chủ đề nào.

Hắn
biết trong ký ức của đại ca ít có chuyện vui, đại ca cũng cự tuyệt kể về cái
chết của phụ thân, chỉ không ngừng kể về hồi nhỏ được phụ thân dạy câu cá như
thế nào, dạy thổi tiêu ra sao, dạy viết chữ, dạy võ công. Đại ca nói phụ thân
là một người hòa nhã hiền lành, thích cuộc sống thôn xóm nông điền. Nhà họ nằm
trong một cái thôn giữa dãy núi lớn, phụ thân lấy việc săn bắn làm kế mưu sinh,
thường khoác tấm áo thô sờn, đội nón rơm đi giày cỏ, dắt tay đại ca đi qua con
đường nhỏ trong núi. Hồi bé, đại ca thường cưỡi trên vai phụ thân, một tay ôm
đầu người, tay kia cầm kẹo hồ lô, nước bọt hòa với nước đường cứ từng giọt,
từng giọt nhỏ xuống đầu người… Đại ca có một tuổi thơ vui vẻ.

“Hồi ấy
đệ vẫn còn nhỏ”, đại ca nói: “Quá nhỏ”.

Hắn
biết, “hồi đó” mà đại ca nói là chỉ cái năm phụ thân qua đời.

Năm ấy,
hắn mới chỉ hai tuổi, chẳng nhớ được gì hết.

Hắn lần
theo tiếng tiêu tới dưới một cây ngô đồng lớn, đại ca theo lệ thường vẫn khoác
tấm áo trùm đầu tuyền một màu đen. Điểm duy nhất không giống ngày xưa là, hắn
giấu nửa mặt mình vào mũ trùm, ánh trăng dịu nhẹ trải xuống, chiếu lên đúng vết
sẹo đáng sợ trên mặt hắn. Thần thái hắn lạnh lẽo âm trầm, trong mắt đầy ắp sát
khí, chỉ một thoáng lúc liếc về phía Quách Khuynh Quỳ, đôi mắt hắn mới có chút
ôn hòa khó phát hiện.

“Đại
ca”, Quách Khuynh Quỳ cúi đầu gọi.

“Nghe
Tử Hân nói, đệ bị thương?”, Quách Khuynh Trúc vỗ vai hắn, thấp giọng hỏi. Thấy
được vết thương ở ngực, động tác hắn rất nhẹ, gần như chỉ là lấy tay phủi phủi
y phục của em mình.

“Không
sao, đã khá ổn rồi”, Quách Khuynh Quỳ cố ý ưỡn ngực, nói năng vững khí.

Quách
Khuynh Trúc liếc hắn một cái, khóe miệng lộ ra nét cười: “Đệ không nên tới đây…
Ta tới tìm đệ là muốn khuyên đệ mau mau về tây bắc”.

“Đệ
muốn giúp huynh?”

“Giúp
ta giết người?”

“Không,
không”, hắn vội vàng lắc đầu.

“Ở tây
bắc, ai ai cũng gọi đệ là ‘Lưu đại hiệp’. Đệ chỉ cứu người, chưa từng giết
người.”

Quách
Khuynh Quỳ cảm thấy sống lưng có chút cứng ngắc, nói: “Đúng là thế”.

“Cho
nên lần trước ta nhờ người đem ngân phiếu cho đệ, đệ lại bảo người đó mang về
trả lại cho ta.”

Hắn
trầm mặc.

Đệ
không tiêu tiền của ta, là vì tiền của ta dính đầy máu tươi người khác.”

Hắn vẫn
im lặng.

“Cho
nên đệ vẫn cứ làm đại hiệp của đệ như cũ, không cần phải sa vào cái vũng nước
đục của ta.”

Nếu cạo
hết râu ria, Quách Khuynh Quỳ sẽ lộ ra tướng mạo giống hệt đại ca mình, chỉ cần
liếc nhìn, bất kể người nào cũng sẽ nhận thấy bọn họ là huynh đệ. Không biết vì
sao, hắn lại không muốn để người khác phát hiện ra điều này. Ở miền tây bắc,
hắn luôn để râu, dùng cái tên Lưu Tuấn như lúc xưa.

“Đại
ca, hay là chúng ta cùng nhau về tây bắc…”

“Đợi
làm xong việc dang dở rồi đi.”

Hắn
biết việc đại ca muốn làm là gì, cũng biết đại ca là người hành sự ắt có kế
hoạch. Trước giờ đại ca không làm chuyện gì không nắm chắc, không giết người
không có chỗ dựa.

Mồ hôi
lạnh tứa ra.

Quách
Khuynh Trúc nhìn em trai, chợt hỏi: “Đệ lạnh lắm à?”.

“Không”,
hắn im lặng một lúc, tựa như đang hạ quyết tâm rồi ngẩng đầu lên: “Đại ca, đệ
muốn cầu xin huynh một chuyện”.

“Chuyện
gì?”

“Xin
đừng giết Thẩm Khinh Thiền.”

Câu nói
vừa ra khỏi miệng, hắn liền thấy hối hận ngay. Hắn không nên nhắc tới Thẩm gia.
Con ngươi của Quách Khuynh Trúc bắt đầu co lại, lửa hận thù cháy ngùn ngụt nơi
đáy mắt.

Tuy đã
kịp thời cúi đầu xuống, hắn vẫn nghe thấy tiếng nghiến răng.

“Ta là
một sát thủ”, Quách Khuynh Trúc không trực tiếp trả lời: “Nhưng ta cũng có
nguyên tắc”.

Quách
Khuynh Quỳ lặng lẽ nhìn hắn, đợi hắn nói tiếp.

Quách
Khuynh Trúc từ từ nói: “Ta không giết nữ nhân, cũng không giết trẻ nhỏ”.

“Có
điều, sáu năm trước, ta đã phạm một sai lầm. Ta ngộ sát một thai phụ vì cho
rằng cô ta là Thẩm Không Thiền”, hắn quay mặt đi, mũ trùm bị gió thổi lệch lộ
ra vết thương ở mắt phải: “Kỳ thực cô ta là thê tử của Thẩm Không Thiền. Bởi
thế, trong sáu năm tiếp đó, ta bắt đầu giúp một vài nữ nhân giết người, chỉ thu
phí rất thấp, có lúc thậm chí còn miễn phí… Rất nhiều người nói ta không phải
là người. Nhưng tin hay không tùy đệ, bất cứ người nào dù là làm nghề gì đều
cần có cảm giác của con người, cho dù chỉ là ảo tưởng.”

“Nói
nhiều như vậy”, Quách Khuynh Trúc lãnh đạm nói: “Ta chỉ muốn nói cho đệ biết,
ta không phải một ma đầu giết người không chớp mắt. Nhưng…”, hắn thong thả nói
tiếp, nhân thần rất lạnh lẽo: “Chỉ có một nữ nhân là ngoại lệ, sớm muộn gì ta
cũng phải giết cô ta”.

“Nữ
nhân đó chính là Thẩm Khinh Thiền.”

Thời
khắc ấy, Quách Khuynh Quỳ chỉ cảm thấy máu huyết toàn thân đặc lại. Lời của đại
ca hắn không hề tranh luận, chỉ siết chặt đôi tay, cố sức nuốt cơn giận xuống.

… Bao
nhiêu năm nay, đại ca luôn cẩn thận bảo vệ hắn kỹ lưỡng. Mỗi khi giết người,
đều sẽ gửi một khoản tiền tới tay Lưu Gia Quý.

… Đến
khi hắn biết nghề nghiệp của đại ca, liền biết tay đại ca toàn máu tươi cũng có
phần của mình trong đó, nhưng đối với đại ca, hắn một mực giữ niềm kính trọng,
thậm chí là e sợ. Bởi vì đại ca một mình đối mặt tất cả, chịu đựng tất cả nhưng
chưa từng nhờ vả hắn làm cái gì.

Bất kể
là kiếm tiền hay báo thù, đại ca đều mạo hiểm cả tính mạng mình. Hắn chỉ thoải
mái nhẹ nhàng như một chiếc lông vũ, tự do tự tại ở miền tây bắc làm những
chuyện mình thích làm.

Bẵng đi
một lúc, hai người chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhìn nhau chằm chằm.

Qua một
hồi, Quách Khuynh Quỳ nói: “Nếu như huynh muốn giết Thẩm Khinh Thiền, xin giết
đệ trước”.

Quách
Khuynh Trúc hỏi ngược lại: “Nếu như ta giết Thẩm Khinh Thiền, đệ sẽ giết ta
sao?”.

Hắn
không biết phải trả lời ra sao, cho nên không đáp, chỉ cương ngạnh đứng trước
mặt đại ca, nghe giọng nói âm trầm của đại ca vọng tới bên tai: “Đi theo ta, ta
đưa đệ đi gặp một người”.

Hắn
không biết liệu có thể xem bộ xương khô này là người không.

Trong
lòng đại ca, người đó vẫn còn sống.

Đó là
một gian trong phòng có phòng, bên trong tỏa ra mùi bùn đất và rễ cỏ. Từ ngoài
nhìn vào trông cứ như mới được đào thành. Trong lòng hắn thầm nghĩ, đây vốn là
một ngôi mộ, chỉ có đại ca là thường lui tới thôi.

Đối với
đại ca mà nói, bộ xương khô ấy đương nhiên là người… Bất kể còn sống hay là đã
chết, chỉ có người mới luôn luôn cần được an ủi.

Bên
cạnh bộ xương đặt một bình sứ Thanh Hoa.

Hắn cảm
thấy hai thứ ấy một đông một tây, một trái một phải đặt cùng nhau trông thật
không cân xứng. Đúng ra nếu không phải hai bộ xương thì phải là hai cái bình.

Thấy
hắn lộ vẻ nghi hoặc, đại ca bắt đầu kể về cái chết của phụ thân và mẫu thân.

Đề
phòng vạn nhất, phụ thân đã đào một cái hang ẩn sau tường phòng mình, chỉ vừa
đủ cho hai đứa trẻ náu thân. Đêm đó, toàn bộ người nhà đều trúng phục kích, phụ
thân nhanh chóng phát hiện tình hình không ổn, vào thời khắc trước lúc bị kẻ
thù phá cửa xông vào, đã kịp thời giấu hai đứa trẻ vào trong hang ấy.

Đại ca
khi đó còn chưa đủ mười tuổi, hắn thì mới lên hai. Lúc xảy ra chuyện đang là
nửa đêm, từ đầu tới cuối hắn đều chìm trong giấc ngủ say.

Đại ca
tận mắt trông thấy phụ thân bị loạn đao chém chết, toàn thân máu thịt be bét,
không còn ra hình người.

Mẫu
thân thì bị thiêu sống, người kêu gào trong đám lửa, gọi tên phụ thân.

“Lúc ấy
mẫu thân đang mang thai bốn tháng”, Quách Khuynh Trúc than: “Người thường hỏi
đệ xem muốn có một đệ đệ hay là muội muội”.

Trong
bình sứ Thanh Hoa ấy chính là tro cốt của mẫu thân hắn.

Có lẽ
nghĩ kể lại cái chết của người thân là một loại tội lỗi, cái chết của cha mẹ
trong lời kể của đại ca thật quá mức giản đơn. Hắn nhắm mắt nhớ lại chuyện xảy
ra đêm hôm ấy, nhận ra trong đầu mình trừ những bóng hình lờ mờ, còn lại chẳng
có gì khác. Nhưng vào lúc này hắn lại nhớ tới cha nuôi của mình, nhớ tới bàn
tay thô ráp và giọng nói khàn khàn; nhớ tới tình cảnh trong đêm đông mười mấy
năm trước phụ tử hai người đẩy xe; thậm chí còn nhớ buổi sớm hôm ấy không khí
băng lạnh buốt xương thế nào, hàng cây linh sam bên đường cao vút đâm vào mây
ra sao, mùi vị cay nồng buốt họng của rượu ngô như thế nào…

Đối với
hắn mà nói, cái chết của phụ thân tuy khiến hắn rung động nhưng còn xa mới chân
thực bằng cái cảm giác đứng trong hố băng đêm hôm đó.

Hắn còn
nhớ cha nuôi từng nói, về sau dù có gặp phải chuyện khó khăn tới đâu, chỉ cần
nhớ tới đêm ấy là sẽ không còn thời khắc không thể vượt qua nữa.

Có lẽ
chính vì câu nói này, hắn đã dễ dàng “bỏ qua” quá nhiều chuyện. Hắn muốn làm
đại hiệp, thế là liền bỏ qua “đại ca”; hắn yêu một cô gái, thế là vội bỏ qua
“thù hận”.

Không
phải sao, cuộc đời mỗi con người đều là chọn xem nên bỏ qua cái gì, không nên
bỏ qua cái gì.

Tại sao
lựa chọn của hắn và đại ca lại hoàn toàn tương phản nhau như thế?

Cây nến
chợt kêu “tách” một tiếng.

Hắn
thấy đại ca quỳ trước bộ xương khô, lấy dao nhỏ chích lòng bàn tay, để máu nhỏ
xuống bấc nến, đồng thời miệng lầm rầm nói, tựa như đang tiến hành một loại nghi
thức nào đó.

Hắn
cũng quỳ xuống theo, rút chủy thủ rạch lòng bàn tay, học theo cách của đại ca,
để máu chảy xuống nến. Đây là lần đầu tiên hắn làm thế, rất vụng về, tay đặt
quá thấp, thiếu chút nữa thì bị lửa đốt cho phồng rộp.

Mùi tanh
kỳ dị phảng phất trước mũi hắn.

Hắn bất
giác nín thở, nhưng lại thấy đại ca hít vào thật sâu, cứ như sợ cái mùi tanh ấy
trốn mất.

Sau đó,
đại ca đứng dậy, hắn đứng dậy theo.

Không
khí trong phòng khiến người ta không sao thích nghi nổi, hắn cảm thấy không
thoải mái giống một người lạ, chỉ muốn bỏ đi.

“Huynh
thường tới đây?”, hắn gợi chuyện hỏi. Không biết vì sao, chân bỗng loạng
choạng.

Đại ca
liếc nhìn sang hắn, gật đầu: “Sau này, đệ cũng có thể năng tới”.

Hắn cúi
thấp đầu, không đáp.

“Đệ
không thích nơi này”

“Đệ
không thích những nghi thức này.”

“Nghi
thức có cái hay của nghi thức. Có vài thứ nếu đầu không nhớ nổi, nghi thức sẽ
khiến cho thân thể ghi nhớ”, một chút châm biếm hiện trên môi Quách Khuynh
Trúc: “Đệ từng thấy nữ nhân cúi lạy trong miếu Quan Âm chưa? Bọn họ cúi lạy
không phải bởi vì tin mà là vì cúi lạy quá nhiều rồi đâm ra tin vậy”.

Hắn
nghe ra ý chế giễu trong câu nói nhưng không thể phản bác.

Trước
mặt bộ xương có bày bảy cái đĩa. Một cái trong đó đặt cái bình tử sa bên trên.
Hoàn tất nghi thức xong, hắn thấy đại ca lấy trong bọc hành trang ra một cái
bình giống hệt như thế, cung kính đặt xuống đĩa thứ hai bên tay trái.

“Bên
trong đựng gì vậy?”, hắn hỏi.

“Tế
phẩm.”

“Tế
phẩm loại nào?”, hắn rất tò mò.

“Phổi
của Thẩm Tĩnh Thiền, gan của Thẩm Khô Thiền.”

Nhìn
vào năm cái đĩa trống còn lại, trong lòng hắn thầm tính xem Thẩm Khinh Thiền sẽ
bị đặt vào cái đĩa nào. Lập tức, một trận nôn nao ập tới, hắn cúi gục xuống,
tìm một cái thùng rỗng dưới đất bắt đầu nôn thốc nôn tháo.

“Nghe
đây”, đại ca không mảy may thay đổi: “Ta sẽ nhanh chóng kết thúc chuyện này,
tới lúc ấy chúng ta có thể sống cuộc sống không có thù hận”.

Hắn
nghĩ thêm một chút liền hiểu ra. Không còn nghi ngờ gì nữa, đại ca đang tiến
hành một nghi thức cúng tế xa xưa. Trong nghi thức cúng tế ấy, Quách Khuynh
Trúc án theo vị trí sinh sống của anh em họ Thẩm ở trung nguyên mà sắp đặt cái
chết cho họ. Thẩm Tĩnh Thiền ở phương nam, theo ngũ hành thuộc hỏa, tế sẽ dùng
phổi; Thẩm Khô Thiền ở phía tây, ngũ hành thuộc kim, tế dùng gan; Thẩm Không
Thiền ở phía đông, ngũ hành thuộc mộc, tế dùng tì[1]; Thẩm Thông
Thiền ở phương bắc, ngũ hành thuộc thủy, tế dùng thận; Thẩm Thính Thiền ở giữa,
ngũ hành thuộc thổ, tế dùng tim; hai đĩa còn lại, ắt là lưu cho Thẩm Thái và
Thẩm Khinh Thiền.

[1]
Lá lách

“Đợi
khi có được tất cả tế phẩm, ta sẽ quăng chúng vào cửu tuyền. Trong sách tế có
nói, nếu như đem những tế phẩm này dâng lên thượng thiên, tất cả thù hận của ta
kiếp này sẽ biến mất.”

Thời
khắc ấy, giọng của đại ca trống rỗng, hắn hoài nghi tâm linh đại ca đã bị một
lực lượng thần bí nào đó chiếm trọn.

“Đệ và
huynh không giống nhau”, hắn nhẹ giọng nói: “Thù hận của huynh là chân thực,
còn của đệ là tưởng tượng. Đệ không thể vì một tưởng tượng mà thiêu hủy những
thứ chân thực”.

Lúc lên
tiếng hắn nhìn vào đại ca, ánh nến chiếu trên mặt hắn.

Răng
nanh của đại ca rất nhọn, trắng lấp loáng như sứ, hắn không nói lời cáo từ, chỉ
đẩy cửa sải bước đi ra ngoài.

“Cốc!
Cốc! Cốc”.

“Ai
đấy?”

“Tử
Hân.”

“Đợi
một chút!”

Nàng
giật mình tỉnh hẳn, ngồi bật dậy trên giường, nhanh chóng rửa mặt, chải đầu,
thay y phục rồi mới hé một góc cửa, tựa vào thành cửa, lông mi chớp chớp, cười
hớn hở hỏi: “Tử Hân, sớm thế này tìm muội có việc gì?”.

Cười
một chút, chợt nhớ mình với người này hôm qua vừa mới cãi cọ, bây giờ mừng rỡ
thế này tựa hồ không ổn, nụ cười vô thanh vô tức được thu về khóe miệng.

Ánh mắt
lại rơi xuống cổ tay đang tựa thành cửa, ở đó còn đeo cái vòng cổ đằng Tử Hân
làm, dù là lúc đi ngủ cũng không nỡ tháo ra, bèn vội vàng đưa tay ra sau lưng,
kéo ống tay áo che đi.

“Cái hũ
gạo này trả cho muội”, chàng bưng cái hũ đồng màu đen nặng trịch, lắc lắc trước
mắt nàng.

“A!”

Qua một
lúc, nàng cải chính: “Đây không phải hũ gạo, là đồ đồng cổ”.

“Rất
quý sao?”

“Rất
quý.”

“Đáng
bao nhiêu tiền?”.

“Nói
thế này đi”, nàng vốn định nói vài câu hay ho, ác ý đột ngột bùng phát trong
lòng: “Nếu như huynh đang đi trên phố tự dưng chuột rút mà chết. Muốn muội bán
món đồ đồng này mà mua quan tài cho huynh, muội tuyệt đối không chịu”.

Nàng
chống nạnh, tức tối nhìn chàng.

“Ừm,
câu chuyện cười này ta thích”, chàng nói.

Nàng
không cách nào gây sự được, phát hiện cách nói chuyện của người này có thể chọc
cho người khác tức chết, nhưng người khác mà muốn chọc chàng tức chết lại không
dễ.

“Còn
giận chuyện hôm qua à?”

“Muội
nhỏ nhen đấy, sao nào?”

“Thật
ra ở cùng một chỗ với người khác thì không cần có tinh thần chuyên nghiệp cao
như thế, trong đầu mỗi người ít nhiều đều có chút vấn đề.”

“Ha!
Cuối cùng huynh cũng thừa nhận rồi!”

“Ta
thừa nhận cái gì?”

“Thừa
nhận đầu huynh có vấn đề.”

Tử Hân
thở dài một tiếng: “Tại sao muội cứ thích lằng nhằng giữa đúng với sai thế?”.

“Bởi vì
muội có tinh thần chuyên nghiệp.”

“Còn vì
muội to gan nữa.”

“Muội?
To gan?”

“Người
thông minh trên đời này không ít, nhưng người dám thông minh không nhiều.”

“Hiểu
rồi, huynh đang khen muội”, nàng toét miệng ha ha cười lớn.

Lúc ấy,
ánh mắt Tử Hân dịu dàng dừng trên mặt nàng. Nàng chẳng thùy mị chút nào, tiếng
cười rất lớn, bộ dạng khi cười trông thật ngốc nghếch.

Nhưng
chàng thích dáng vẻ không hề bị bó buộc ấy.

Chàng
đương nhiên nhớ nụ cười này, còn có một cô bé khác cũng thích cười như thế.
Chàng từng cho rằng cả đời này mình đều có thể chọc cô bé cười như thế, đáng
tiếc khoảng thời gian cô bé ấy cười quá ngắn, quá ngắn.

“Tại
sao mỗi khi muội vui vẻ, bộ dạng huynh lại có chút buồn rầu thế?”, Tô Phong
Nghi nghiêng đầu hỏi.

“Không
có gì đâu”, Tử Hân tránh ánh mắt nàng.


Phong Nghi còn định hỏi tiếp, Tử Hân đã nhanh chóng đưa cái hũ trong tay tới
trước mặt nàng: “Ta đã dùng bút lông phủi hết tro bụi bám bên trên, muội xem,
lộ ra rất nhiều hoa văn”.

Đó là
một cái hũ đồng gỉ sét loang lổ.

Miệng
loe, cổ thắt, thân nghiêng, chân tròn, bề mặt dùng đồng đỏ khảm đồ hình thái
tang[2], yến nhạc.

[2]
Hái dâu.

Nàng vồ
lấy cái hũ ôm vào lòng, mở to mắt, quan sát kiểm tra kỹ càng, lớn tiếng hỏi:
“Ngoài dùng bút lông ra, huynh còn làm gì nữa?”.

“Chẳng
làm gì nữa.”

“Không
dùng dao cạo chứ?”

“Không
hề.”

Nàng
thở phào một tiếng: “Về sau đồ của muội, huynh chớ có tùy tiện động vào được
không?”.

“Đây
tạm thời tính là đồ của ta chứ? Mười lăm lượng bạc kia muội còn chưa trả đâu.”

“Nghe
đây, Diêu Tử Hân”, nàng đanh mặt trợn mắt nói: “Muội biết trên đời này có rất
nhiều nữ nhân chẳng có công việc gì, cho dù có làm cũng chẳng ra sao. Có điều
muội rất thích cái nghề muội đang làm, rất cẩn thận với từng món đồ trong nghề
ấy. Sau này nếu huynh muốn động vào đồ của muội, nhất định phải hỏi muội
trước”.

Nàng tỏ
ra rất nghiêm túc, lời lẽ cũng ngang ngạnh khiến người khác khó chịu, thái độ
của Tử Hân thì lại rất thật thà:

“Được
rồi.”


Phong Nghi đeo găng tay, bưng hũ đồng, quan sát tỉ mỉ hoa văn trên đó một lượt,
than thở: “Tiếc là thiếu mất cái nắp, bị gã thôn phu nọ coi là đồ bỏ đi mà
quẳng mất rồi”.

“Ta
từng thấy một cái hũ tương tự, còn nguyên cái nắp bên trên”, Tử Hân nói.

Mắt Tô
Phong Nghi sáng bừng lên: “Thấy ở chỗ nào?”.

“Trong
nhà một vị phú ông.”

“Huynh
còn nhớ được tên ông ấy không?”

“Không
nhớ.”


Phong Nghi lại than: “Tiếc quá. Nếu muội bán cho ông ta, có thể bán được giá
cao đấy”.

“Muội
muốn nói đây là một cặp?”

“Có khả
năng ấy… Loại đồ tùy táng này thường xuất hiện thành đôi mà.”

“Đây
quả thật là đồ thời nhà Thương sao?”

“Không
sớm được thế… Xem đồ hình mặt thú ngậm vòng, đại khái chắc vào thời đầu Chiến
Quốc.”

“Ta nhớ
hình thù cái nắp nọ có chút đặc biệt…”

Tử Hân
còn nhớ trong thư phòng của phụ thân có một cái hũ đồng tương tự, nắp lại rỗng
ở giữa, men theo mép nắp bình có ba cái vuốt nhỏ vươn ra. Hồi bé chàng và Tử
Duyệt từng nuôi dế trong đây. Có điều, lúc chàng hỏi phụ thân tại sao cái nắp
lại rỗng ở giữa, phụ thân nói không biết.

Trong
ấn tượng của chàng, phụ thân rất ít nói hai chữ “không biết”.

“Đúng
rồi, nắp rỗng ở giữa. Đây là hũ rượu, trên nắp có ba cái vuốt nhỏ vươn ra,
giông… giống như thế này”, nàng lấy tay vẽ vẽ: “Vuốt ấy dùng để giữ vải lọc
rượu”.

Tử Hân
bừng tỉnh ngộ, lại chỉ vào hình vẽ tiếp: “Vậy thì những cô gái cầm sọt mây hái
dâu và những nam nhân eo đeo bội kiếm ngắn bên cạnh nữa, là như thế nào?”.

“Rừng
dâu là nơi tế Xã. Vua Thang nhà Thương ở đó cầu mưa, nam nữ lén gặp gỡ ở đó,
câu ‘Tháng trọng xuân, nam nữ hẹn hò, không cấm
tư thông’ trong Chu Lễ là chỉ
chuyện này. Kinh Thi không phải cũng nói ‘Hẹn em hẹn ở
vườn dâu, Lại mời em tới cung lầu hoan vui[3] sao?”

[3]
Bài Tang Trung trong Dung Phong – Kinh Thi. Hai câu trích: Kỳ ngã hổ tang
trung. Yêu ngã hổ thượng cung.

“Oa, có
học vấn. Ta còn vài vấn đề muốn thỉnh giáo luôn, được không?”


Phong Nghi gật đầu, mặt mày hớn hở, hứng chí muốn giảng. Tử Hân quả nhiên hỏi
liền một mạch bảy, tám vấn đề, trúng vào sở trường của Tô Phong Nghi. Nàng gật
gù dẫn chứng, giải thích hơn nửa canh giờ, hai vai bê cái hũ đồng tới mỏi rã
rời mà cũng không cảm giác thấy, Tử Hân thì luôn chăm chú nhìn nàng, chuyên tâm
lắng nghe, mặt lộ vẻ khâm phục.

“Bây
giờ muội cảm thấy tốt hơn chưa”, cuối cùng Tử Hân hỏi.

“Cái gì
tốt hơn?”

“Muội
vẫn còn giận chuyện hôm qua sao?”

“Không
giận nữa, quên lâu rồi, hì hì.”

“Ta
thật ngưỡng mộ muội”, Tử Hân nói: “Ngày nào cũng có thể hý hoáy với món đồ đẹp
như thế”.

“Đúng
thế!”, Tô Phong Nghi nhân cơ hội bày tỏ cảm xúc “Muội chẳng biết người khác
nghĩ thế nào. Đối với muội mà nói, cái đẹp của hũ đồng chỉ nằm ở nam nữ nhảy
múa trong vườn dâu, chỉ nằm ở niềm vui vào cái thời khắc đồ vật thành hình
trong tay người thợ. Thời gian đọng lại, trải qua ngàn năm trở thành một không
gian vĩnh hằng hiện ra sinh động trước mặt huynh. Loại niềm vui này chẳng cần
tới tri thức; không phải khảo chứng, đôi mắt nhìn vào là có thể cảm nhận được…
Đây mới là cái đẹp chân chính”.

Tử Hân
chăm chú nhìn nàng rồi bật cười.

“Huynh
cười cái gì?”

“Ta nhớ
tới một câu.”

“Câu
nào?”

“Trời
đất vận hành mỹ diệu mà chẳng hề cất lời, vạn vật có lẽ sinh thành mà không hề
lên tiếng.[4]”

[4]
Trích Trang Tử – Tri Bắc Dư: Thiên địa hữu đại mỹ nhi bất ngôn, vạn vật hữu
hành lý nhi bất thuyết.

“Muội
hiểu rồi, huynh bảo muội quá ba hoa!”

“Người
thông minh ba hoa còn hơn kẻ ngốc lảm nhảm.”

Vừa nói
xong câu này chàng cảm thấy có người vỗ vỗ vai mình, tiếp đến là một luồng kình
lực ập tới, gạt cả thân thể chàng sang một bên, cánh tay to khỏe lách vào, chớp
mắt trước mặt Tô Phong Nghi đã có thêm một bàn tay to lớn đầy lông tơ, kẹp giữa
ngón trỏ và ngón cái là một bông xuân cúc nho nhỏ.

“A
Phong, chào buổi sáng!”, ngoài cửa vang lên tiếng chào. Tô Phong Nghi thò đầu
ra xem, thấy Vương Lộc Xuyên đã đứng thẳng tắp ngăn giữa mình và Tử Hân, mặt
cười sáng láng.

“Khụ,
khụ, Lộc Xuyên, hoa này… muội không thể nhận”, Tô Phong Nghi len lén nhìn trộm
Tử Hân một cái, nhỏ giọng nói.

“Tại
sao? Đây chỉ là một đóa hoa thôi mà.”

“Ừm… Đa
tạ… Chỉ là… muội không có bình hoa.”

“Trên
tay muội là cái gì?”, nói xong, bèn cắm đóa xuân cúc vào hũ đồng. Hũ đồng quá
to, đóa xuân cúc lọt thỏm vào trong.

“Vị này
là Diêu Tử Hân”, Tô Phong Nghi chỉ vào Tử Hân: “Huynh ấy là…”.

“Bọn ta
vừa quen nhau rồi”, Vương Lộc Xuyên trầm giọng nói.

Sau
lưng tiểu miếu cỏ dại mọc rậm rạp.

Chỗ
vách núi cách đó không xa, một thác nước từ trên cao đổ xuống, bọt tung như
tuyết. Hơi nước len giữa ngọn cây, tưới ẩm lên hoa núi đang nở rộ bên đường.
Trong khoảng mây núi biêng biếc, một dái cầu vồng như ẩn như hiện.

Vượt
quá đám cỏ cao quá nửa thân người, bọn họ tìm tới được cây linh sam nọ. Tô
Phong Nghi hít sâu một hơi nhìn cảnh vật xung quanh, lại đưa chân đá đi cây bụi
dưới đất, nói: “Nơi này không tệ”.

Đường
Hành một mực im lặng nhìn nàng, không nói năng gì.

“Không
phải huynh định lâm trận thoái lui đấy chứ?” Tô Phong Nghi quay người lại, nhìn
thẳng vào mắt hắn nói.

Đường
Hành cười thần bí: “Có phải muội có chút muốn ta lâm trận rút lui không? Nếu là
như thế ta lúc nào cũng sẵn sàng quay lại”.

“Hôm
nay nhất định phải làm xong chuyện này!”, tựa như muốn làm cho quyết tâm của
bản thân thêm vững chắc, Tô Phong Nghi nói.

“Muội
không cần to tiếng thế”, Đường Hành nói rồi rút A Thanh trong người ra, đặt lên
môi lầm rầm cầu khấn. Có lẽ là một bài khấn dài trong lòng hắn, đôi mắt khép
hờ, rì rầm tự nói, trên mặt tỏ vẻ rất nghiêm túc.

Qua một
lúc, thấy bài khấn của hắn mãi chưa kết thúc, Tô Phong Nghi rút trong sọt thuốc
ra một bình rượu, nghển cổ tu một ngụm lớn, lấy tay áo chùi mép rồi hỏi: “Huynh
muốn uống rượu không?”.

Đường
Hành nói: “Không uống, đa tạ”.

Hắn chú
ý thấy tay nàng một mực run rẩy, sau khi uống rượu, không những không ngừng run
mà ngược lại còn run mạnh hơn.

“Muội
cần uống thêm ngụm nữa”, nàng mở nắp bình, lại nốc thêm một ngụm to rồi mới đặt
bình rượu trở lại sọt. Sau đó, nàng tháo trâm cài đầu, quay mặt về phía cây
linh sam rồi ngồi xuồng. Ánh dương xuyên qua rừng cây rậm rạp đều đặn rải
xuống, trên thân cây là cái bóng mơ hồ của nàng. Nàng không dám nhìn hắn nhưng
vẫn dứt khoát cởi bỏ y phục.

Rất
nhanh sau đó, Đường Hành nhìn thấy tấm lưng trắng trơn mịn của nàng. Nàng gầy
hơn so với nhìn bên ngoài, xương sống lưng rõ ràng như thân rắn. Hai tay nàng
ôm chặt lấy ngực, sợ sệt nhìn hắn một cái, nhỏ tiếng nói: “Huynh… qua đây”.

Đường
Hành bước tới, ngồi bên cạnh nàng, cởi găng, khoác tay lên đôi vai buông tóc
đang run rẩy của nàng: “Hình như muội rất căng thẳng?”.


Phong Nghi gượng cười nói: “Muội không căng thẳng. Ở đây tuy không có ai nhưng
chúng ta vẫn nên bắt đầu sớm một chút thì tốt hơn”.

Đường
Hành nhẹ giọng hỏi: “Kể cho ta đi, rốt cuộc đã có chuyện gì, muội nhất định
phải làm thế này sao?”.

“Sao
huynh phải hỏi nhiều thế?”

“Nếu Tử
Hân biết nhất định sẽ không tha thứ cho ta.”

“Tử
Hân? Tử Hân sẽ không thèm để ý những chuyện này đâu”, nàng nhẹ nhàng đáp: “Bất
kể muội đắc tội huynh ấy thế nào, huynh ấy đều không để bụng. Có lúc muội còn
hy vọng huynh ấy có thể bận tâm một chút nữa”.

Đường
Hành nói: “Cho dù vậy, muội cũng không tội gì phải dùng cách này chọc giận
huynh ấy”.


Phong Nghi nói: “Muội không hề muốn chọc giận huynh ấy”,

Đường
Hành nói: “Nhưng mà, muội không cảm thấy làm thế này rất hoang đường sao?”.

“Huynh
đã nhận lời với muội rồi.”

“Ta
muốn khuyên muội một lần chót…”

“Không
cần đâu, muội quyết tâm rồi.”

“Vậy ta
cởi y phục đây”, Đường Hành nói.

“Cởi
đi.”

Hắn cởi
bộ y phục, lộ ra thân thể cao lớn, chưa tới gần, Tô Phong Nghi đã cảm thấy hơi
thở nóng bỏng từ thân thể hắn phả tới.

“Đừng
có ôm chặt lấy cái cây ấy như thế có được không?”, thấy Tô Phong Nghi toàn thân
run bần bật, Đường Hành bật cười.

“Xin
lỗi, muội biết huynh không thích thế này, nhưng muội không phải muốn ép huynh”,
Tô Phong Nghi thì thầm: “Bắt huynh mất trinh, muội cảm thấy rất áy náy”.

“Không
cần khách khí. Ta sẽ hết lòng phục vụ muội. Tiếp đến muội muốn bắt đầu thế
nào?… Mọi thứ đều làm theo lời muội đấy.”


Phong Nghi hoang mang gật đầu tỏ ra đồng ý nhưng lại giống như chẳng nghe thấy
lời Đường Hành, hai tay vẫn ôm chặt gối, ngồi im phăng phắc bên gốc cây, tâm sự
trùng trùng nhìn về phương xa.

Đường
Hành cũng không làm gì cả, vừa mới cởi đai lưng bỗng nghe thấy có tiếng kêu. Tô
Phong Nghi bỗng ôm mặt, thấp giọng thút thít.

“Sao
thế?”, hắn hỏi.

Nàng
không nói gì, thân thể không ngừng run rẩy, sau đó thì ngồi dán chặt vào thân
cây, cứ như một con ốc sên vậy.

“Sợ rồi
à?”


Phong Nghi gật đầu, rồi lại lắc đầu.

Đường
Hành ngồi sát bên cạnh, dịu dàng hỏi: “Muội có biết không, vì chuyện hôm nay ta
đã nghĩ cả đêm qua”.


Phong Nghi vẫn không ngừng khóc.

“Muội
không hiểu Tử Hân”, hắn tiếp tục nói: “Thật ra tính tình Tử Hân rất tốt, đặc
biệt là với nữ nhân. Huynh ấy tuyệt đối sẽ không để muội buồn đâu”.


Phong Nghi lại càng khóc to hơn.

“Nếu
muội nhất quyết làm thế, bất kể sau này Tử Hân biết hay không, muội cũng sẽ hối
hận.”

“Muội…
muội…”, nàng muốn nói gì đó nhưng lại thôi.

“Cầm
khăn của huynh, lau nước mắt đi, ngồi một lúc rồi chúng ta quay về thôi.”

Nàng
nhận lấy khăn tay, khẽ nói: “A Hành, ôm chặt lấy muội, muội sợ”.

Do dự
một lúc, Đường Hành ôm chặt lấy cơ thể run rẩy của nàng.

Hắn có
chút buồn bực, không biết vì sao Tô Phong Nghi lại sợ hãi tới mức này. Dường
như thứ nàng phải đối mặt không phải là chuyện này mà là một nỗi sợ hãi vô hình
sâu sắc. Nàng rúc vào lòng hắn, thân thể run run như một đứa trẻ sợ hãi. Nước
mắt không ngừng trào ra, thấm ướt ngực hắn.

“Nói
cho ta, rốt cuộc là có chuyện gì?”, hắn nắm lấy tay nàng, cuối cùng vẫn không
nhịn được cất tiếng hỏi.

“Muội
hận ca ca muội… hắn… từng ức hiếp muội.”

Khuôn
mặt kia lại xuất hiện.

“Rót
trà cho ta.”

Nàng sợ
sệt lo lắng bưng lên một bình trà.

Có một
bàn tay trắng trẻo, bàn tay của văn nhân, có thể nhìn thấy mạch máu màu xanh
nhạt trên đó. Bàn lay ấy đang nhàn nhã vân vê chén trà màu xanh biếc, bỗng đột
nhiên giữ tay nàng, kéo nàng vào lòng hắn.

Khi ấy,
nàng chỉ là một cô bé chưa đầy mười ba tuổi, không có sức tránh thoát. Kể từ đó
nàng sợ nhìn thấy bất cứ một nam nhân nào lõa thể, hễ nhìn thấy là lập tức sinh
ra nỗi sợ hãi không cách nào vượt qua được

Đường
Hành chấn động, ngón tay chợt siết chặt, căm hận nói: “Đồ súc sinh ấy! Ta sẽ
giết hắn cho muội!”.

Trầm
ngâm một lúc, Đường Hành lại dịu giọng an ủi: “Muội yên tâm đi, sẽ không ai
biết chuyện này đâu. Nếu người yêu thương muội có biết thì cũng sẽ không để ý
đâu”.

“Nhưng
muội để ý! Oa… Oa… Đến cả huynh mà muội cũng không thể đối diện”, Tô Phong Nghi
ngẩng đầu, mặt đầy nước mắt: “Muội chỉ sợ mình sẽ không thể đối diện với bất cứ
nam nhân nào trên đời, kể cả Tử Hân”.

Hắn đột
nhiên hiểu ra vì sao nàng lại phải bỏ trốn trước ngày tân hôn. Vì sao những lúc
sắp tiếp cận Tử Hân, nàng đột nhiên lại trở nên thô lỗ, lại làm việc trái
khoáy, phá hỏng việc tốt.

Nàng
yêu một người, nhưng lại sợ ở cùng một chỗ với người đó. Đằng sau tình yêu, nỗi
sợ hãi như cơn thủy triều

“Có lẽ
ta có thể trị khỏi giúp muội”, Đường Hành cười nhẹ: “Hiện giờ ta lại cảm thấy
chủ ý của muội không tệ”.

“Không,
muội không dám nhìn huynh. Vốn trước muội cho rằng muội dám, nhưng muội vẫn
không dám. Muội cũng không biết vì sao nữa…”

“Đừng
coi ta là nam nhân.”

“Thế
thì coi huynh là gì?”

“Không
là gì cả”, lần này tới lượt Đường Hành lúng túng: “Có được không?”.

“Muội
không hề cố ý làm khó huynh”, Tô Phong Nghi than: “Chỉ là muốn nói, trong cái
thế giới chúng ta đang sống này có những thứ không thể thay đổi được. Những thứ
ấy giống như hòn đá dưới chân, chân thực, cứng cáp. Trên đời này chi có một thứ
dễ thay đổi nhất, mà cũng hay thay đổi nhất…”.

Nàng
chăm chú nhìn vào mắt hắn, nhẹ nhàng nói: “Đó là cách nghĩ của chúng ta. Nhưng
mà cách nghĩ có thay đổi thì hòn đá vẫn cứ là hòn đá”.

“Muội
muốn nói”, Đường Hành hít vào một hơi thật sâu: “Ta một mực tự lừa dối bản
thân?”.

“Không
phải.”

“Vậy
thì là gì?”

“Huynh
đương nhiên không thể phản bội lại cảm giác của chính mình, nhưng lòng người
biến đổi khó lường. Huynh rất khó đợi được đến cái ngày mọi người có thể chấp
nhận huynh.”

Nét
thống khổ trên mặt Đường Hành đậm thêm, sững sờ hồi lâu mới nói: “Muội cho rằng
ta không biết điều ấy sao?”.


Phong Nghi nhìn hắn, dịu dàng sờ lên mặt hắn, nói: “Muội chỉ muốn nói với
huynh, muội có thể hiểu huynh, huynh có thể tự do sống trong thế giới của
muội”.

“Ta
biết… Ta luôn biết thế, hắn run giọng nói.

Sau đó
hai người như hai người bạn thân thiết ôm chặt lấy nhau. Tô Phong Nghi cảm thấy
hắn ôm mình rất chặt, cứ như muốn vùi nàng vào lồng ngực mình. Nàng nghe thấy
tiếng tim đập xót xa và tiếng huyết dịch chảy trong người hắn.

Chính
vào lúc ấy, một tiếng thở dài từ sau lưng hai người truyền tới.

Hai
người đồng thời ngẩng đầu quay người lại.

Ở vách
núi không xa, không biết tự bao giờ đã có một nam nhân thân hình cao lớn đứng
yên lặng.

Đó là
một nam nhân hoàn toàn xa lạ, nhưng lại có vầng trán cao ngạo dày dặn như Đường
Hành. Người ấy đứng thẳng tắp, ánh mắt sâu thẳm, thần thái bình lặng như một
bức tượng đá. Tô Phong Nghi vội vàng nhặt quần áo dưới đất ôm chặt vào người

Cùng
lúc ấy, Đường Hành nắm nhẹ tay nàng, thấp giọng nói “Không phải lo, ông ấy
không nhìn thấy muội đâu”

“Ông ta
rõ ràng đang nhìn chúng ta.”

“Đây là
phụ thân ta.”

Đường
Tiềm!


Phong Nghi không tự chủ được nín thở.

Hấp tấp
mặc quần áo xong, Đường Hành kéo Tô Phong Nghi sải bước tới trước mặt phụ thân,
cố làm ra vẻ thoải mái gọi một tiếng: “Cha!”.

Đường
Tiềm không thèm để ý tới hắn mà quay đầu sang hỏi Tô Phong Nghi: “Cô nương, cô
quen với người đứng cạnh mình chứ?”.

“Dạ
quen, thưa thúc thúc.”

Mặt
Đường Tiềm hơi trầm xuống, hỏi: “Nói cho ta biết, vừa rồi nó có chỗ nào thất lễ
không?”.

“Không
có, thúc thúc”, Tô Phong Nghi miễn cưỡng khống chế đầu lưỡi luống cuống của
mình: “Bọn cháu đang nói chuyện thôi”.

Đường
Tiềm cười nhạt, cũng không hỏi tiếp nữa.

Đường
Hành đưa mắt nhìn ra sau lưng phụ thân, hỏi: “Cha, sao người lại biết con ở
đây, đại ca không đi cùng người?”.

Người
trong Đưòng môn đều biết Đường Phất là cái bóng của Đường Tiềm, bất cứ lúc nào
hắn cũng theo ngay sau phụ thân.

“Ta
phải nói đi làm một chuyện, Tử Hân đưa ta tới đây.”

Hai
người hoảng hốt nhìn nhau, khuôn mặt Tô Phong Nghi thoắt cái đã tái xanh.

“Tử
Hân? Huynh ấy sáng sớm đã ra ngoài khám bệnh rồi mà, làm sao biết được con ở
đây?”, sắc mặt Đường Hành cũng đã tái nhợt.

“Là thế
này, ta tìm tới Tử Hân, nhờ Tử Hân hỏi thăm chỗ con. Có vị bằng hữu nói thấy
con cùng Tô cô nương đeo sọt thuốc cùng nhau ra khỏi cửa. Tử Hân liền bảo chắc
con đi hái thuốc cùng Tô cô nương”, Đường Tiềm từ tốn nói.

“Vậy Tử
Hân đâu?”, nhìn đông ngó tây không thấy bóng dáng Tử Hân, Tô Phong Nghi vẫn ôm
lòng cầu may.

“Nó đưa
ta tới đây thì đột nhiên nói còn có bệnh nhân đang đợi mình rồi nhanh chóng đi
khỏi rồi”, Đường Tiềm đáp. Ngừng một chút, đang định nói gì đó thì chợt nghe
thấy tiếng kêu tuyệt vọng, vội hỏi: “Tô cô nương làm sao vậy?”.

“Cô ấy
thấy không thoải mái, hơi váng đầu”, Đường Hành đỡ lấy thân thể đã mềm nhũn đi
của Tô Phong Nghi, ép mình bình tĩnh trả lời.

Trên
đường về khách điếm, Tô Phong Nghi chẳng nói chẳng rằng.

Nàng
một mực nghĩ ngợi xem sau khi về khách điếm mình phải đối diện với Tử Hân như
thế nào, giải thích tất cả với chàng ra sao.

Nhưng,
khi về tới khách điếm thì phát hiện mọi thứ đã chẳng cần phải giải thích nữa.

Nàng
gặp Quách Khuynh Quỳ ở cửa, Quách Khuynh Quỳ nói với nàng Tử Hân đã đi rồi.

“Đi đâu
chứ?”, nàng nắm chặt tay, gắng hết sức không để sự tuyệt vọng trong giọng mình
hiện rõ.

“Không
biết.”

“Đến
huynh cũng không biết?”

“Muội
quên hắn vốn là một giang hồ lang trung, nay đây mai đó, nói đến là đến, nói đi
là đi sao?”, Quách Khuynh Quỳ nghi hoặc nhìn nàng, muốn đoán nguyên nhân ra đi
của Tử Hân qua biểu hiện của nàng.


Phong Nghi chạy lên lầu, ra sức gõ cửa phòng Tử Hân, cửa mở ra, xuất hiện lại
là một khuôn mặt già cả.

“Cô
nương tìm ai?”

“Ở đây…
người vốn ở đây đâu rồi?”, nàng hoang mang thất sắc hỏi.

“Sao mỗ
biết được? Mỗ vừa mới dọn vào đây”, ông lão trả lời bằng khẩu âm địa phương.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.