Lúc Tô
Phong Nghi chuồn vào phòng Thẩm Khinh Thiền, một góc rèm cửa sổ đang được cuộn
lên, nàng ngồi ở đầu giường ngắm nhìn bầu trời đen sâu thẳm bên ngoài tới xuất
thần.
Mấy vì
sao lấp lánh lung linh, màn đêm vô biên, không khí trong lành.
Nghe
thấy tiếng bước chân của Tô Phong Nghi, Thẩm Khinh Thiền cũng không quay đầu
lại, chỉ rầu rĩ than: “Tử Hân lấy hết gương đi rồi”.
Tô
Phong Nghi trèo lên giường, cuộn lấy chăn rồi cũng thò mặt tới cửa sổ nhìn ra
ngoài, tiện tay rút trong người một cái gương nhỏ đưa cho nàng: “Muội có gương,
tỷ muốn soi không?”.
Không
biết là dùng linh dược gì, nửa mặt sưng đỏ của nàng phục hồi rất nhanh, nhưng
cũng tiều tụy trông thấy. Soi gương một lúc, chẳng nói chẳng rằng, nàng trả lại
gương cho Tô Phong Nghi.
“Hồi
nhỏ, cứ tới đêm hè, chuyện muội thích làm nhất là trèo lên thành giếng ngồi
ngắm sao. Mẹ muội kể cho muội nghe không biết bao nhiêu truyện thần thoại…”, Tô
Phong Nghi thủ thỉ.
“Tỷ
không thích mẹ tỷ lắm”, Thẩm Khinh Thiền nhạt giọng: “Vị trí của tỷ trong lòng
bà ấy còn xa mới bằng mấy vị ca ca tỷ. Từ khi ngũ ca qua đời, ngày nào bà ấy
cũng nước mắt rửa mặt, đau buồn tựa sắp phát điên tới nơi. Nếu như người chết
đi là tỷ, bà ấy nhất định không buồn đến thế”.
Không
biết phải tiếp lời thế nào, Tô Phong Nghi chỉ đành cười khổ.
“Bà ấy
muốn tỷ tìm cách tiếp cận Khuynh Quỳ, thừa cơ nghe ngóng tung tích của Quách
Khuynh Trúc”, trên mặt Thẩm Khinh Thiền lộ ra nét mỉa mai: “Bà ấy nói ‘Vì mối
huyết thù của ca ca, con phải không từ mọi thủ đoạn’, bà ấy thậm chí còn nói,
bà ấy biết để đạt được mục đích trước giờ tỷ đều có rất nhiều cách, nếu không
tỷ cũng không trở thành một kiếm khách nổi danh”.
Tô
Phong Nghi nghe thấy vậy rất ngạc nhiên: “Thì ra tỷ không hề…”
Thẩm
Khinh Thiền lắc đầu: “Lần đầu tiên tỷ gặp Khuynh Quỳ, Khuynh Quỳ không hề nhận
ra tỷ. Đại ca chàng bảo vệ chàng rất kỹ, luôn ẩn giấu thân phận chàng, trước
giờ chưa hề để chàng bị cuốn vào ân oán giữa hai nhà Thẩm Quách… Chàng lấy tên
là Lưu Tuấn, đi lại ở một dải tây bắc. Lúc ấy tỷ tự kiêu võ công, liền chạy tới
so kiếm với chàng. Điều kiện là nếu tỷ thắng, chàng phải theo tỷ về Tam Hoa
tiêu cục. Muội cũng biết, chỉ cần trong tay bọn tỷ có Quách Khuynh Quỳ thì
không phải lo không dụ được Quách Khuynh Trúc”.
Tỷ có
thắng không?”
“Bọn tỷ
không giao thủ.”
“Tại
sao?”
“Chàng
nóí, chàng với tỷ xưa nay vốn chẳng oán chẳng thù, việc gì phải vì vướng mắc
của đời trước mà đấu đến một mất một còn. Tỷ kể ra Thẩm gia bọn tỷ có bao nhiêu
người thân thích chết trong tay người Quách gia, chàng nói chàng cũng có thể
nêu ra những cái tên tương tự. Nhưng chàng đảm bảo với tỷ, mãi sau này chàng
mới biết những chuyện ấy, với lại cũng chưa từng tham gia một lần hành động
nào. Chàng chỉ muốn sống cuộc sống chàng thích, thế thôi. Thậm chí chàng còn
nói, tỷ đã vượt nghìn dặm xa xôi tới miền tây bắc hoang vu heo hút này, chàng
sẵn lòng mời tỷ ăn món lẩu dê nổi tiếng vùng ấy, coi như tận tình chủ nhà”, nói
tới đây, trên mặt nàng chợt hiện nét dịu mềm: “Chàng rất nghèo nhưng rất phóng
khoáng”.
Tô
Phong Nghi than thở: “Huynh ấy nói không sai chút nào, oan oan tương báo bao
giờ dứt…”.
“Đáng
tiếc đúng sai trên đời lại không phải do chúng ta định đoạt”, Thẩm Khinh Thiền
cười khổ: “Chàng vẫn bị lừa tới chỗ này bởi câu nói của tỷ… Trước khi đi, tỷ
bảo với chàng, mấy vị ca ca của tỷ đang thuê người dốc toàn lực truy sát Quách
Khuynh Trúc, đã khiến hắn không chỉ một lần bị trọng thương. Chàng lo cho an
nguy đại ca mình, quả nhiên theo đến đây. Bọn tỷ đồng hành ba tháng trời, yên
ổn vô sự, nhưng lúc này tỷ cực kỳ hối hận… nếu không nói với chàng những chuyện
đó, để chàng ở lại tây bắc có khi lại an toàn. Bây giờ tỷ khuyên thế nào chàng
cũng không chịu đi. Thực ra, chàng đã bị mấy ca ca của tỷ theo dõi chặt chẽ,
cho dù muốn đi cũng không đi được nữa”.
“Cho
nên tỷ chỉ còn cách ở cùng một chỗ với Tuấn ca, để mấy vị ca ca của tỷ ném
chuột sợ vỡ bình?”
“Quách
Khuynh Trúc đã giết đại ca và ngũ ca tỷ, thủ đoạn tàn nhẫn, lại còn thề đuổi
tận giết tuyệt Thẩm gia. Tỷ không thể tha thứ cho hắn, hắn càng không thể bỏ
qua cho nhà tỷ”, nói câu này, tay nàng lạnh như băng, trong mắt lộ ra sự sợ
hãi: “Nếu hắn biết chuyện của tỷ và Khuynh Quỳ, hắn cũng sẽ không tha thứ cho
Khuynh Quỳ, chắc chắn là sẽ giết tỷ trước. Người nhà tỷ cũng sẽ không bỏ qua
cho tỷ”.
Tô
Phong Nghi lạnh toát người, hỏi: “Vậy tỷ định làm thế nào?”
“Tỷ
không biết… Khuynh Quỳ và tỷ đều tránh nói tới chuyện này, qua ngày nào tốt
ngày ấy.”
Tô
Phong Nghi sửng sốt, không nói gì chỉ nhìn nàng.
Qua một
lúc, Thẩm Khinh Thiền lại nói: “Muội có biết vì sao trong tên của bọn tỷ, người
nào cũng có một chữ ‘Thiền’ không?”.
Tô
Phong Nghi lắc đầu.
“Bởi vì
phụ thân của Khuynh Quỳ tên là ‘Quách Khải Thiền’. Cha tỷ đặt cho bọn tỷ cái
tên này chính là để nhắc nhở bọn tỷ, đời sau của hai nhà Thẩm Quách không thể
kết hợp với nhau.”
Thấy vẻ
mê man trong mắt nàng, Tô Phong Nghi nắm lấy tay nàng, nhẹ nhàng nói: “Muội
quên mất không báo cho tỷ, đêm qua muội đã gặp Quách Khuynh Trúc, giao đấu với
hắn, muội đã chọc hỏng một mắt của hắn, coi như là báo thù cho tỷ”.
Nghĩ
rằng nàng nghe thấy tin này sẽ vui, không ngờ Thẩm Khinh Thiền toàn thân chấn
động, run giọng nói: “Muội… muội làm sao mà chọc hỏng được mắt hắn? Võ công của
muội còn xa mới bằng hắn!”.
“Hắn
quá kiêu ngạo cho nên mới thất thủ.”
Thẩm
Khinh Thiền thở dài phiền muộn: “Tuy tỷ rất cảm ơn muội đã báo thù cho tỷ,
nhưng mà, muội có biết hậu quả của chuyện này sẽ thế nào không?”.
“Hậu
quả gì?”
“Bởi vì
Quách Khuynh Trúc, tình thế giữa hai nhà bọn tỷ mới xem như có chút cân bằng.
Tuy nói Thẩm gia người nhiều lực mạnh nhưng gia nghiệp nhà tỷ to lớn, việc làm
ăn của tiêu cục cần phải được chăm chút, thực ra không thể phái quá nhiều người
đi đối phó với huynh đệ họ Quách. Huống chi Quách Khuynh Trúc võ công cao
cường, lại luôn ẩn thân chỗ tối, đa phần bọn tỷ đi ngang qua chỗ hắn. Ngày nào
đó hắn bị trọng thương, tình thế lập tức thay đổi, Khuynh Quỳ không còn ai ngầm
bảo vệ, sẽ rất nguy hiểm…”
Tô
Phong Nghi nghe thế toàn thân toàn mồ hôi lạnh, vội nói: “Tỷ yên tâm, chúng ta
chí ít vẫn còn Đường Hành”.
Không
biết vì sao, cứ nghĩ tới Đường Hành, hai cô gái lại có cảm giác thân thiết.
Thẩm Khinh Thiền biết võ công của Đường Hành thực ra hơn xa vị trí của hắn
trong Đao bảng. Hai người nhìn nhau một lúc, không nói năng gì. Qua một hồi,
biết nàng càng nghĩ càng sợ, Thẩm Khinh Thiền bẹo má Tô Phong Nghi bắt nàng
cười: “Chúng ta nói chuyện khác đi. Đừng lo cho tỷ, nếu quả thật không ổn, bọn
tỷ vẫn có thể cùng nhau bỏ trốn”.
Trời
đêm mát mẻ.
Hai
người cuộn mình trong chăn, mỗi người ôm một tâm sự riêng, đều trằn trọc không
ngủ được. Nghe tiếng dế kêu đầu tường, tiếng ếch ộp bên ngoài lâu không dứt,
tiếp đến hai tiếng “cắc cắc”, ngoài song đã gõ điểm canh hai. Tô Phong Nghi đột
nhiên chọc chọc Thẩm Khinh Thiền, thì thầm hỏi nhỏ:
“Khinh
Thiền, hỏi tỷ một chuyện con gái: “Cái… lần đầu tiên ấy, rất đau phải không?”
“Lần
đầu tiên? Cái gì lần đầu tiên?”, rõ ràng biết là chuyện gì, Thẩm Khinh Thiền
vẫn cố ý giả bộ hồ đồ.
“Lần
đầu tiên tỷ với huynh ấy…”
“Lần
đầu tiên của tỷ xảy ra ở Đường môn.”
“Kể
nghe đi, muội muốn biết…”
“Rất
đau. Đau chết đi được. Đau tới mức muội sẽ hận người kia, cả nửa năm không thèm
để ý tới hắn nữa.”
“Thật
à?”
“Ít ra
thì tỷ là như thế, huống chi tỷ không thích kẻ ấy, nếu không phải vì để có được
thanh kiếm kia, tỷ cũng sẽ không làm thế.”
Được
một lúc, thấy Tô Phong Nghi ngơ ngẩn chẳng nói chẳng rằng, Thẩm Khinh Thiền lại
nói: “Không sao đâu, lần thứ hai là ổn thôi. A Di Đà Phật, tội lỗi, tội lỗi.
Sao tỷ lại dạy hư muội thế này…”.
Trong
bóng tối, Tô Phong Nghi thở dài một hơi.
Dưới
ánh nến, làn da hắn có màu bàng bạc. Hắn nheo mắt ngắm nhìn nàng như lúc
thường.
–
Mẹ ngươi là nha hoàn, ngươi cũng là nha hoàn. Ngươi có biết thế nào là nha hoàn
thông phòng không?
–
Ý nghĩa của nha hoàn thông phòng là, mẹ ngươi là của cha ta, ngươi
là của ta.
Ánh
mắt dâm đãng như đang ăn tươi nuốt sống nàng.
Lấy
cho ta một tách trà.
Nàng
căng thẳng cầm bình trà.
Hắn
đột nhiên túm lấy tay nàng, kéo nàng vào lòng mình.
Nàng
nghe thấy tiếng y phục bị xé toạc.
Bàn
tay trắng trẻo của hắn không chỗ nào không sờ mó.
Nàng
cắn hắn, cắn hắn thật mạnh.
“Muộn
quá rồi”, Tô Phong Nghi thì thầm: “Ngủ thôi”.
…
Hắn
khoác một cái áo trùm đầu màu đen, đứng khuất trong bóng cây, ánh trăng thê
lương lạnh lẽo dải khắp tựa như trùm một lớp băng mỏng lên tấm áo khoác của gã.
Hắn là
sát thủ, đang đợi người thuê mình tới.
Mỗi lần
bàn chuyện làm ăn, hắn đều chọn một nơi rộng thoáng nhưng lại nhiều bóng râm,
hắn thích giấu mặt mình trong chiếc mũ trùm to rộng. Thanh trường kiếm lưỡi hẹp
như thân trúc đeo bên hông. Tay của hắn luôn sờ vào chuôi kiếm, kiếm khí lạnh
lẽo xuyên qua da thịt, lãng đãng như sóng lan vào mắt hắn.
Người
thuê đến đúng giờ, cũng khoác trên mình một áo khoác trùm đầu.
Đó là
một nữ nhân dáng hình thanh nhã, tuổi tầm hơn bốn mươi, tuy khóe mắt đã mơ hồ
có những nếp nhăn nhưng vẫn rất đẹp. Nữ nhân này đeo một đôi găng tay dài màu
xanh đen, cùng một màu với tấm áo trùm đầu của mình. Nàng thẳng bước tới phía
hắn rồi dừng lại cách hắn năm thước, nheo mắt phán đoán xem người này có phải người
nàng muốn gặp hay không, sau đó, hiển nhiên đã khẳng định được, nàng đi tới
trước mặt hắn, ung dung tháo găng tay và mũ trùm, lộ ra khuôn mặt khiến cho bất
kỳ nam nhân nào từng gặp nàng đều không sao quên được.
Một đôi
mắt sắc sảo chăm chú nhìn người đối diện, hắn cảm nhận được trong sâu thẳm ánh
mắt của nàng có ẩn giấu sự cứng cỏi.
Là một
sát thủ có uy tín, trong số người thuê hắn có không ít nữ nhân. Khi những nữ
nhân này tìm đến hắn thì thường rất căng thẳng, bởi vì xét cho cùng ám sát cũng
chẳng phải chuyện gì tốt đẹp, lý do thì quá nửa chẳng thể tiết lộ. Bọn họ lắp
bắp nói ra yêu cầu của mình, mặc cả giá thành với hắn, dặn đi dặn lại hắn phải
giữ bí mật, cứ như hắn không biết rốt cuộc hắn đang làm cái gì. Đối với những
nữ nhân nọ, thái độ của hắn luôn rất khoan dung. Mỗi khi họ luống cuống tựa như
chim sợ cành cong mà gặp mặt hắn, hắn đều hình thành một loại cảm giác mãnh
liệt, cảm thấy bản thân là vệ sỹ của bọn họ, thậm chí là đại ca của họ, là phụ
thân, là anh hùng của họ. Hắn rất vui lòng giúp nữ nhân trong cơn tuyệt vọng
giải quyết các loại nan đề của họ Nếu như nữ nhân nào tâm tình kích động tới
mức nghẹn ngào, thậm chí hắn còn mời nàng tới trà lâu trò chuyện, dịu dàng thủ
thỉ an ủi, đảm bảo rằng, hắn nhất định sẽ giải quyết thằng khốn đó cho nàng.
Nhưng
nữ nhân trước mặt rõ ràng không thuộc loại đó. Ánh mắt nàng nhìn thẳng, kiên
định tựa như một chủ thuê chân chính. Từ khuôn mặt ấy, hắn chỉ có thể đọc được
mười hai chữ: “Ta bỏ tiền, người làm việc, không ai lừa gạt ai hết”.
“Bọn họ
nói ngươi đã giết rất nhiều người”, nữ nhân nọ nói: “Bất kể là nhiệm vụ khó
khăn đến thế nào, ngươi đều có thể đắc thủ”.
“Không
sai.”
“Ta họ
Ngô, tên Ngô Du”, nữ nhân đưa mắt xuống nhìn kiếm trong tay hắn: “Có lẽ ngươi
cảm thấy xa lạ với cái tên này…”.
Hắn
ngắt lời nàng: “Tôi rất quen thuộc với cái tên Đường Tiềm”, giống như những
người làm ăn cẩn thận, trước khi nhận bất kỳ vụ làm ăn nào, hắn đều điều tra
qua một lượt người thuê mình.
“Việc lần
này chính là có liên quan tới chàng.”
Hắn
khịt mũi hừ nhẹ một tiếng.
Hắn
đương nhiên biết rõ địa vị của Đường Tiềm trên giang hồ. Nhưng mà, biết nói sao
đây, nữ nhân muốn mưu sát chồng mình trên đời quả là không ít, có điều dám thực
sự hành động thì lại không nhiều, mà chịu bỏ tiền thuê người làm gần như chẳng
có mấy ai.
Hắn
cười nhạt, nói: “Tôi hy vọng, nhiệm vụ của tôi không phải là đi giết Đường
Tiềm”.
“Đương
nhiên là không!”, rõ ràng nàng rất ngạc nhiên với phán đoán này của hắn: “Sáng
mai chàng sẽ xuất môn đi xa một chuyến, nói là có việc cấp bách cần giải quyết,
chắc phải hai tháng nữa mới quay về”.
Hắn
chăm chú lắng nghe, đợi nàng nói hết.
Ngô Du
tiếp tục nói: “Ta hy vọng chàng có thể trở về bình an”.
Hắn hơi
nhíu mày, cười lạnh: “Đường Tiềm đại danh cực đỉnh mà cũng cần người bảo vệ?”.
“Ngấm
ngầm bảo vệ”, Ngô Du sửa lại: “Nếu như dọc đường bình an vô sự, ngươi không cần
lộ diện, càng chớ để chàng biết về sự tồn tại của mình. Nếu như chàng gặp bất
kỳ nguy hiểm gì, ta hy vọng ngươi có thể kịp thời cứu viện, không tiếc sức mình
giúp chàng vượt qua khó khăn”.
“Hắn
chắc sẽ không một mình xuất môn chứ?”
Tuy đao
pháp của Đường Tiềm có thể xem là đệ nhất thiên hạ nhưng người mù thì vẫn cứ là
người mù, có rất nhiều chuyện không phải chỉ dựa vào một thanh đao mà có thể
giải quyết được.
“Không,
cùng đi với chàng là Đường Phất, con trai cả của bọn ta, cho nên ta lại càng lo
hơn nữa. Ta hy vọng ngươi có thể đồng thời bảo vệ cả hai người ấy.”
“Có thể
nói xem họ sẽ đi đâu, làm gì không?”
“Xin
lỗi, việc này ta không biết gì hết, chỉ biết bọn họ phải đi điều tra một
chuyện, rất có thể sẽ gặp nguy hiểm.”
“Dựa
vào võ công của hai người ấy, tôi tin rằng những lúc cần tôi ra tay không
nhiều”, hắn thẳng thắn nói: “Hai nghìn lạng bạc là đủ rồi”.
“Hai
năm trước, Đường Tiềm từng bị trọng thương, nội lực và sức khỏe đã giảm đi
nhiều. Đường Phất còn quá trẻ, cao ngạo tự tin nhưng lại chẳng có kinh nghiệm
giang hồ gì. Nếu như Đường Tiềm gặp chút nguy hiểm, nó sẽ thà chết bên chàng
chứ không chịu trốn. Hai người họ phụ tử thân thiết, nhưng tuyệt đối không phải
là trợ thủ tốt cho nhau.
Hắn
nhìn nữ nhân trước mặt mà cảm thấy bội phục, trầm tư một lát, gật đầu: “Một vạn
lượng bạc. Trả trước một nửa, sau khi xong việc thanh toán toàn bộ”.
Ngô Du
rút ngân phiếu đưa cho hắn, chợt lại rụt về, nói: “Bọn họ không nói cho ta,
ngươi chỉ còn có một mắt”.
“Hai
mắt trượng phu cô đều mù cả”, hắn khoanh tay, lạnh lùng nói. Mắt trái của hắn
hơi đục, ở giữa có một giọt máu tươi. Hắn biết trong lời đồn thổi trên giang
hồ, sát thủ luôn được coi là những nhân vật thần bí không sợ chết càng không sợ
đau, bọn họ gân đồng xương sắt, đao thương bất nhập, bị thương chảy máu chỉ là
chuyện cơm bữa hằng ngày. Hình như trời sinh da thịt sát thủ không sợ lửa nóng
đao vạch, cho dù có bị thương cũng nhanh chóng lành lại. Xương sườn bất kể gãy
bao nhiêu chiếc, nằm trên giường nhiều nhất là mười ngày lại có thể xách đao
xuất môn. Nói một câu, đã là sát thủ, phải có thân thể của sát thủ, càng phải
biết tuổi thọ của sát thủ. Làm cái nghề này, đại đa số không sống quá bốn mươi,
cho nên lúc nhàn rỗi bọn họ đều sống rất phóng túng, vung tiền như rác, mê rượu
hám gái, chẳng có gì là không làm.
Thực
ra, trừ việc thân thủ nhanh nhẹn, sát thủ chẳng có gì khác với người bình
thường. Bọn họ dựa vào đôi tay mà kiếm cơm, thân thể chính là vốn liếng lớn
nhất. Bất cứ một tổn thương vĩnh viễn nào cũng sẽ đem lại bất lợi chí mạng cho
nghề nghiệp của họ. Bởi thế, bất cứ ai bị thương đều cố gắng che giấu vết
thương của bản thân, chỉ sợ tin tức truyền ra, giá thuê tụt xuống; đồng thời
bọn họ cũng thông thạo y quán, dược đường hay danh y từng địa phương như lòng
bàn tay.
Tất cả
đại phu đều bảo với hắn, con mắt trái của hắn sẽ mau chóng mất đi ánh sáng, e
rằng tiếp đó còn bị mưng mủ sưng phù, sau cùng chỉ còn cách phải lấy ra. Cùng
với việc thị lực của mắt trái giảm dần, theo bản năng hắn cũng cảm thấy khủng
hoảng.
“Ta là
đại phu. Ngươi vừa mới bị thương, võ công sẽ chịu ảnh hưởng lớn.”
Hắn cảm
thấy bị sỉ nhục, sắc mặt tái xanh.
Đây là
loại chủ thuê hắn ghét nhất. Chẳng biết chút gì về võ công, tự cho mình có
tiền, thái độ chọn thích khách chẳng khác gì chọn dưa hấu.
Cùng
lúc ấy, một đạo hàn quang như điện chớp ập tới mắt Ngô Du! Trong cơn hoảng hốt,
nàng sợ ngây ra, đứng sững một chỗ.
Hàn
quang chớp lóe rồi biến mất. Không có gió nhưng cái mũ trùm đen tuyền vẫn lay
động.
“Xin
hỏi, vừa rồi tôi chém bao nhiêu kiếm?”
Nàng
lắc đầu.
“Chém
đứt bao nhiêu sợi tóc của cô?”
Nàng
lắc đầu.
“Tổng
cộng tôi chém ba kiếm, làm đứt mười bảy sợi tóc của cô.”
Hắn đưa
lưỡi kiếm ánh bạc tới trước mặt nàng, nhẹ một hơi, mười bảy sợi tóc dài lất
phất bay trong không trung.
“Cô có
hai mắt nhưng chẳng thấy gì cả.”
Ngô Du
không đổi sắc mặt nhìn hắn, chẳng có chút xấu hổ nào trên mặt.
Qua một
hồi, nàng lãnh đạm nói: “Ngươi hiểu nhầm ý ta rồi. Ta chỉ muốn nói, nếu bây giờ
ngươi chịu tới y quán của ta một chuyến, ta có thể trị khỏi vết thương ở mắt
ngươi, phí khám chỉ có năm mươi lượng”.
…
Rạng
sáng, trời lất phất mưa nhỏ, đường núi âm u, mây mù gió thốc.
Mặt đất
đầy bùn trơn trượt, xe ngựa tới lưng chừng núi thì không còn đường nữa, chỉ có
một lối đi ruột dê nhỏ quanh co, rộng vừa đủ một người đi. Dọc lối toàn những
cành mận gai đâm ra tua tủa, cành khô ngang dọc chắn đường, đá núi sắc cạnh, cỏ
dại mọc um tùm. Tô Phong Nghi buộc ngựa dưới gốc cây đại thụ, bỏ mũ trùm xuống,
sửa sang lại đầu tóc, nước mưa mát lạnh thoáng chốc đã ướt hết tóc, nàng nói
với Tử Hân: “Xem ra chúng ta chỉ có thể đi bộ tiếp thôi”.
Tử Hân
sớm đã xuống ngựa, nhặt dưới đất một đoạn trúc, lấy dao gọt đẽo thành một cây
gậy trúc, đưa cho nàng: “Hôm nay thời tiết không đẹp. Dù muội có cảm thấy hái
thuốc là chuyện thú vị thì cũng nên chọn một ngày đẹp trời một chút”.
Tô
Phong Nghi nhận lấy cây gậy, vén góc váy lên cho chàng thấy đôi giày rơm của
mình: “Muội không sợ đường trơn, trước lúc đi, muội đã cố tình đi đôi giày này.
Chẳng lẽ huynh chưa nghe Đông Pha nói, ‘Gậy trúc giày
rơm khinh ngựa tốt, Ai sợ, Áo tơi mưa gió mặc kệ đời’[1] sao?”,
vừa nói dứt lời, bất thình lình chân trượt một cái, thân thể ngã về một bên,
nàng không khỏi “A” lên một tiếng, mắt thấy bản thân sắp rơi xuống đến nơi, Tử
Hân đã nhanh tay giữ lấy vai nàng, đỡ người nàng đứng vững, khẽ cười: “Lúc leo
núi mắt phải nhìn đường, đừng có ngâm thơ”.
[1]
Trích từ điệu Định Phong Ba của Tô Đông Pha thời Bắc Tống, Trung Quốc. Nguyên
văn: Trúc trượng mang hài khinh thắng mã, Thùy phạ, Nhất soa yên vũ nhậm binh
sinh.
Chàng
vẫn đội cái nón mình thích, lưng đeo sọt thuốc, chống trượng mà đi, gạt cành
chặt bụi. Tô Phong Nghi ngoan ngoãn theo sau chàng. Cái chân tàn phế của chàng
đi trên đường núi trơn trượt thế này rõ ràng rất không thuận tiện, không chỉ là
không sao đi nhanh, có lúc một bước mà phải đi
thành hai, nhưng chàng vẫn có thể giữ cho bước chân vững vàng và có tiết tấu,
rất ít khi phải dừng lại. Gặp chỗ nguy hiểm, chàng vẫn đi trước một bước để có
thể tìm chỗ cao mà tiếp ứng phía dưới. Tô Phong Nghi vốn Iuôn nắm một cánh tay
chàng, thấy chàng đi lại khó khăn nhưng vẫn phải phân tâm để ý đến mình, trong
lòng không đành liền lẳng lặng bỏ tay ra, chỉ nắm lấy vạt áo chàng để chàng
rảnh tay mà vịn vào cây cối ven đường.
Đi được
gần một dặm đường núi, trước mắt bỗng thoáng đạt. Phía trước là một sơn cốc
rộng rãí, cỏ cây xanh mướt, khắp nơi là xuân cúc vàng nhạt. Lúc ấy cơn mưa vừa
tạnh, mặt trời ló ra khỏi lớp mây dày, gió khe khẽ thổi, ngàn vạn đóa hoa vàng
đu đưa theo gió. Tạ Phong Nghi sớm đã mướt mát mồ hôi, bèn lật mũ trùm xuống,
ngồi trên một tảng đá lớn bên đường, nói với Tử Hân: “Chúng ta nghỉ ở đây một
lúc được không?”
Tử Hân
thong thả đi tới bên đường, rút con dao nhỏ, khom lưng cắt lấy một khóm man
thảo đang nở hoa trắng, cuộn thành bó rồi bỏ vào sọt thuốc.
“Đây là
thuốc gì?”, Tô Phong Nghi bước tới hỏi.
“Mùng
tơi. Thường dùng để tiêu sưng cầm máu”, Tử Hân lấy một cây đưa cho nàng xem: “Hạt của
nó sau khi chưng lên, phơi khô tán nhỏ, hòa với mật ong trắng có thể bôi lên
mặt dưỡng da”.
Tô
Phong Nghi chớp mắt, cười nói: “Sao
huynh biết? Huynh thử rồi à?”.
“Đường
Hành thử rồi, đây là phối phương đệ ấy thích nhất.”
“Nói
tới A Hành”, trong đầu Tô Phong Nghi thoáng động, vội hỏi: “Huynh có cách nào
để cái đầu trọc lóc của huynh ấy được thấy mặt trời không? Thời tiết càng lúc
càng nóng, lẽ nào huynh ấy cả ngày cứ phải đội tóc giả?”.
“Đệ ấy
dường như đã thử qua không dưới năm chục đơn thuốc huynh kê, đáng tiếc là chẳng
cái nào có tác dụng.” Tử Hân lắc đầu cười khổ: “Cho dù như thế, đệ ấy vẫn tràn
đầy lòng tin với huynh. Bất kể thuốc gì, đệ ấy đều nghiêm túc uống theo lời
dặn. Khiến cho bây giờ mỗi lần nghĩ tới cái đầu trọc ấy, là huynh cảm thấy day
dứt không yên, có thể nói là còn đau khổ hơn cả đệ ấy nữa.
“Có
phải vị đại phu nào cũng cảm thấy áy náy với bệnh nhân mình chữa không tốt?”
“Đúng
vậy”, thần thái của Tử Hân vốn rất bình tĩnh, bình tĩnh tới mức gần như lạnh
lùng, lúc này trong mắt lại thoáng hiện nét ấm áp: “Có điều phụ thân huynh
không như thế, chí ít là không tỏ rõ ra bên ngoài”.
Tô
Phong Nghi nghe thế, tim bất chợt đập mạnh hơn.
Từ
trước tới giờ, Tử Hân
chưa từng nhắc tới phụ thân mình, nàng một mực cho rằng chàng là cô nhi.
“Phụ
thần huynh cũng học y?”
Chàng gật
đầu, thần sắc buồn bã: “Người ốm đã nhiều năm, thân thể luôn không khỏe mạnh”.
Tô
Phong Nghi vốn muốn tiếp tục hỏi xem phụ thân chàng có còn sống không, trong
nhà còn có thân nhân nào khác nữa, thấy ánh mắt chàng có nét thương tâm, liền
vội vàng ngậm miệng, cười nói: “Người nhất định cũng để huynh
thử rất nhiều phương thuốc rồi”.
Câu trả
lời của chàng rất kỳ lạ: “Huynh đoán trước giờ người chưa từng thử qua đơn
thuốc của huynh… Cảm thấy chúng vừa không đáng tin, lại kỳ cục khó hiểu”.
Cứ như
tìm được người cùng phe, Tô Phong Nghi lập tức ba hoa
một trận: “Cha muội cũng như thế. Bất kể
muội nói gì, ông ấy đều không tin. Thật ra chỉ là ông ấy không muốn tin bản
thân lại có thể sai lầm, càng không thèm tranh luận với muội… Từ nhỏ tới giờ,
hai chữ ông ấy hay nói với muội nhất là ‘xằng bậy’”.
“Nhưng
mà, muội theo nghề đồ cổ, là ai dạy muội vào nghề?”, Tử Hân hỏi.
Tô
Phong Nghi đáp: “Mẹ muội vốn là nha hoàn trong thư phòng của cha muội, sau này
thành người của ông ấy. Từ khi có muội, bà lo muội khó có chỗ đứng trong cái
đại gia tộc ấy, hằng ngày bà để ý thư mục sách cha muội đọc. Cứ mỗi khi ông ấy
đọc xong một cuốn, mẫu thân lại trộm khỏi thư phòng, len lén chép lấy một bản
cất trong chiếc rương. Bà dạy muội học chữ, đọc sách, từ nhỏ đã để muội tới
tiệm đổ cổ của cha chơi với các sư phụ, giúp việc ở đây. Dần dần, dưới gầm
giường muội đầy những sách bà chép. Năm muội mười hai tuổi, bà ốm nặng qua đời,
trước lúc mất, muội cầu xin cha tới gặp bà một lần, ông ấy không đồng ý, nói là
có cuộc gặp gỡ quan trọng. Những thứ muội biết đều là lén lút học được… Không
ít những thứ gia truyền chỉ truyền con dâu không truyền con gái, mà cha muội
đến cả con dâu cũng không tin. Quy củ của Tô gia là truyền con trai không
truyền cho con dâu, càng chớ nói con gái…”
Trước
giờ nàng đều không muốn nhắc tới việc nhà mình không biết vì sao hôm nay lại
nói nhiều đến thế. Giọng nàng rất bình thản, tựa như tất thảy đều đã trở thành
chuyện xưa cũ, nhưng lúc nàng nói, tay trái cứ run lẩy bẩy.
Lúc ấy,
nàng cảm thấy một bàn tay to lớn nắm lấy cánh tay đang run của mình, nắm rất
chặt. Kế đến, một giọng nói ấm áp dịu dàng nhè nhẹ vang lên bên tai:
“Phong
Nghi, muội là một cô bé đáng yêu lại có học vấn. Rất nhiều người không hiểu
biết nhiều bằng muội, bao gồm cả huynh.”
Nàng
rất vui, muốn cười nhưng trong mắt đã đẫm lệ. Tử Hân buông trượng, ngồi xuống
cạnh nàng, nàng tựa vào lòng chàng, nghe tiếng tim chàng đập đều đều. Tiếng tim
chàng đập khiến nàng nhớ tới mẫu thân, nhớ tới hồi nhỏ mỗi khi chịu tủi hờn,
mẫu thân cũng ôm nàng vào lòng như thế, nhịp tim người chính là lời vỗ về không
lời. Nàng nguyện vĩnh viễn được sống cạnh trái tim này, vĩnh viễn nghe nó đập,
tựa như nó là con tim của chính mình vậy.
Tử Hân
vỗ vai nàng, tiếp tục nói: “Đừng đau lòng như vậy. Thấy muội bây giờ đã trở
thành một chuyên gia về đồ cổ, rời khỏi phụ mẫu vẫn có thể tự mình sống tốt, mẹ
muội trên trời có linh hẳn sẽ rất yên tâm”.
Tô
Phong Nghi nín khóc bật cười: “Cái gì mà chuyên gia đồ cổ? Còn phải cách cái
danh hiệu ấy một vạn tám ngàn dặm nữa cơ”.
Lúc ấy
chàng vẫn đang cúi đầu, nàng ngẩng đầu, dùng trán cọ nhè nhẹ lên má chàng. Nước
mưa và mồ hôi từ trán chàng chảy xuống, hòa với nước mắt nàng, lăn tới khóe môi
có vị mằn mặn. Hai người im lặng không nói, ôm lấy nhau ngồi một chỗ.
Một tia
chớp xé trời sơn cốc, mưa lại dần dần trút xuống, càng lúc càng to.
“Sắp có
sấm rồi”, chàng đột nhiên nói, một cánh tay bất tri bất giác siết chặt lấy
nàng, cứ như sợ nàng sẽ tuột đi mất.
“Huynh
sợ sấm?”, Tô Phong Nghi nheo mắt cười.
“Ừ”,
trong mắt Tử Hân hiện nét u uất. “Ta sợ sấm”.
“Có
muội đây, không sao đâu”, nàng vỗ lưng chàng, nói rồi nhấc sọt thuốc, kéo tay
chàng, chỉ về sườn núi cách đó không xa: “Nhìn kìa, ở đó có
một ngôi miếu nhỏ, bọn mình tới đó tránh mưa. Y phục ướt hết cả rồi này!”.
Tử Hân
ngẩng đầu nhìn, đằng xa mây đen nặng trịch, ở giữa có một đám mây cuồn cuộn như
xoáy nước. Không có tiếng sấm, trong tầng mây chớp lóe không dứt, chiếu lên
chân trời một mảng đỏ hồng. Chàng chợt cảm thấy cảnh tượng này dường như trước
đây đã từng thấy, không khỏi có chút ngây ra, bất động. Tô Phong Nghi đã đưa
trượng vào tay chàng, kéo chàng đứng lên: “Nhanh một chút, trời sắp mưa to
rồi”.
Hai
người lụp ngụp trong mưa, từ con đường nhỏ trèo thẳng một mạch tới sườn núi,
chạy vào trong miếu.
Đó là
một sơn tự bỏ hoang đã nhiều năm, tường sau thủng một lỗ lớn được chắn ngang
bằng tảng đá, dường như bị lũ quét trăm năm trước lăn xuống. Trên mặt đá phẳng
bóng có một hõm nước, nước mưa đang từ trên nhỏ xuống tí tách, những giọt nước
tỏa ra bốn phía, phát ra tiếng nho nhỏ.
Tô
Phong Nghi gom cành khô lại, rút mồi lửa nhóm một đám lửa nhỏ. Hai người cởi bỏ
áo ngoài ướt sũng nước, đặt cạnh đám lửa hong khô. Trong khe cửa có ba đóa xuân
cúc vàng, Tô Phong Nghi hái lấy, cười hì hì đưa tới trước mắt Tử Hân: “Xuân cúc
này chính là loài hoa muội thích nhất, không biết có thể làm thuốc không?”.
Tử Hân
ngẩn ra nhìn chằm chằm vào ba cái nhụy hoa lông tơ lởm chởm trước mũi mình,
trên mặt có chút biểu cảm cổ quái, lại có chút ngượng nghịu, sau đó mặt chàng
chợt tái đi, không tự chủ lùi về phía sau, tựa lưng vào tường, hơi thở càng lúc
càng gấp gáp.
“Sao
vậy?”, Tô Phong Nghi ngạc nhiên rồi chợt tỉnh ngộ, vội vàng quăng xuân cúc
xuống đất: “Phấn hoa đúng không? Huynh sợ phấn hoa cúc?”.
Tử Hân
gật đầu, miễn cưỡng coi đó là câu trả lời. Hơi thở mỗi lúc một gấp hơn, ngón
tay tái xanh, mồ hôi ướt đẫm, khuôn mặt đã đỏ bừng.
Nàng
vội vàng rút trong túi áo chàng ra một lọ thuốc màu đen, cái lọ này giống hệt
lọ thuốc sáu năm trước. Dốc bên trong ra một viên thuốc hình vuông, màu thuốc
và hình dáng cũng giống hệt sáu năm về trước. Nàng nhét viên thuốc vào miệng
chàng, lấy bình nước đổ vào miệng chàng một ngụm, sau đó
bấm mạnh vào huyệt Ngư Tế của chàng. Một lúc sau, Tử Hân mới thở ra một hơi
dài, hô hấp ổn định trở lại, ngượng ngùng cười với nàng.
Bao
nhiêu năm rồi chàng không hề thay đổi, vẫn không quen có người khác thấy mình
phát bệnh, càng không quen có người chăm sóc mình. Nàng im lặng chăm chú nhìn
chàng, cảm thấy có chút đau lòng.
Chàng
cười rất yếu ớt, cười chỉ để an ủi nàng thôi.
“Lọ
thuốc màu đỏ này có tác dụng gì?”, nàng hỏi. Trong túi áo chàng vẫn còn một lọ
thuốc khác, bên trong đựng dược hoàn màu đỏ. Lần đầu tiên thấy chàng phát bệnh,
nàng sợ hãi luống cuống, cũng chẳng biết thuốc nào có tác dụng, liền bỏ cả hai
loại vào miệng chàng. Sau này chàng nói với nàng, chàng chỉ cần uống thuốc
trong lọ màu đen thôi.
“Huynh
không biết.”
“Huynh
không biết?”
“Thuốc
là do phụ thân huynh đưa, người dặn cứ cách ba tháng uống một lần.”
“Nhưng
người lại không nói với huynh thuốc dùng làm gì?”
“Người
nói dùng để trị bệnh hen suyễn, nhưng huynh không tin… Huynh chẳng phải không
hiểu dược lý. Nếu thuốc huynh gửi, trước giờ phụ thân không uống, tại sao huynh
lại phải uống thuốc người đưa mình?”
“Phụ tử
hai ngưòi… khụ khụ… thật thú vị” nghe nói thế, nàng dở khóc dở cười.
Qua một
lúc, Tử Hân chợt bảo: “Phong Nghi, dưới đất có rất nhiều gián”.
Gián!
Nghe
thấy chữ này, nàng giật thót, Tử Hân sợ gián!
Nàng
nhìn trái nhìn phải, không thấy bóng dáng con gián nào, lại lật đệm cỏ kiểm tra
kỹ một lượt, vẫn không thấy gì, không nhịn được hỏi: “Gián ở đâu? Sao muội
chẳng thấy một con nào?”.
“Ở ngay
cạnh chân muội… ba con.”
“Làm gì
có”, nàng trợn mắt, kiểm tra bốn phía: “Không có gián”.
“Không
sao cả, Trúc Ân sẽ giúp chúng ta giải quyết. Gián là thứ huynh ấy thích ăn
nhất”, chàng cười nhẹ: “Trước giờ muội chưa từng gặp Trúc Ân, đúng không?”.
Tô
Phong Nghi càng nghe càng mơ hồ: “Trúc Ân là ai?”
“Trúc
Ân ở trên cây”, chàng chào hỏi không khí: “Trúc Ân huynh, lâu rồi không gặp”.
Tô
Phong Nghi ngây ra, thân thể chợt cứng đờ, sững sờ nhìn Tử Hân lẩm nhẩm nói,
thần thái thân thiết giống như gặp được một lão bằng hữu nhiều năm không gặp. Nàng
chú ý lắng nghe, muốn nghe xem chàng đang nói gì, đôi môi chàng luôn máy động,
nhưng âm thanh lại thấp tới mức nghe không ra.
Nàng
lay mạnh thân thể chàng, nhỏ giọng gọi: “Tử Hân, tỉnh lại! Tỉnh lại!”.
Tử Hân
quay sang nhìn nàng, dịu giọng nói: “Không phải sợ, Trúc Ân là bằng hữu của
huynh, hình dáng hắn tuy… tuy có chút kỳ dị nhưng tộc bọn họ, ai ai cũng có bộ
dạng như thế”.
“Tử
Hân, huynh nghe muội này”, nàng cuộn y phục ướt thành một dải, đắp lên trán
chàng, nhìn vào mắt chàng, nói từng chữ: “Ở đây không có cây, cũng không có
Trúc Ân”.
Chàng
gạt tay nàng, thần thái rõ ràng có chút bực bội. Hồi lâu, kiềm chế được cơn
giận của mình, mới bình tĩnh nói: “Trúc Ân ngồi ngay bên cạnh huynh”.
Khuôn
mặt Tô Phong Nghi hơi tái đi: “Tại sao muội không nhìn thấy huynh ấy?”.
Đôi mắt
Tử Hân mê man: “Huynh ấy vừa từ trên cây xuống, mặc một bộ áo màu đỏ sẫm, đầu
người mình rắn. Lẽ nào muội không thấy ở đây có một cây linh sam, bên trên còn
có cây leo cổ đằng nghìn năm…”.
“Vậy
rốt cuộc Trúc Ân ngồi chỗ nào? Bên trái hay là bên phải muội?”, nàng lạnh giọng
hỏi.
Tử Hân
thở dài một tiếng, nói: “Phong Nghi, muội không hiểu lời huynh, huynh cũng
không hy vọng muội có thể tin huynh. Chúng ta sống trong thế giới khác nhau”.
Nàng
tập trung nhìn vào mắt chàng: “Tử Hân, huynh là đại phu, lẽ nào huynh cũng tin
vào quỷ hồn hiển linh?”.
Tử Hân
lắc đầu.
“Vậy
thì, nói cho muội, rốt cuộc đây là chuyện gì? Vì sao huynh có thể nhìn thấy cái
muội không thể nhìn thấy?”
Chàng
không chịu trả lời.
“Mỗi
người chỉ có một linh hồn, lẽ nào huynh có tới hai?”
Chàng
trầm mặc, hồi lâu sau mới nói: “Muội sai rồi. Mỗi người đều có vô số linh hồn,
mỗi một ý niệm đều là một lần linh hồn hiển hiện. Những linh hồn ấy, giống như
một đám người đi vào cùng một gian phòng, có cái quen biết nhau, có cái hoàn
toàn xa lạ, có cái hợp nhau, có cái hoàn toàn khác nhau… Huynh như thế, muội
cũng như thế”.
Nàng
nghe thấy mưa bên ngoài đã ngừng, mặt trời một lần nữa ló khỏi tầng mây, dải
ánh sáng vàng khắp nơi.
Nàng
không tin lời Tử Hân, bởi vì nàng sống trongmột thế giới sáng tỏ. Đúng vậy,
trong thế giới sáng tỏ, mỗi người chỉ có một linh hồn.
“Tử
Hân, muội thích huynh, nhưng huynh không thể ép muội tin thứ muội không tin”,
nàng ngơ ngẩn nhìn chàng, sợ hãi nói.
Tử Hân
gật đầu, tỏ ra thấu hiểu, nhẹ giọng nói: “Chỗ này cách chân núi rất gần, sao
muội không về trước? Nếu muội không phiền, huynh muốn ở đây một mình trò chuyện
với Trúc Ân một lát”.
Tô
Phong Nghi tức xanh mặt, chẳng nói chẳng rằng, quay đầu đi ra khỏi cửa.
Ngày
hôm ấy, nàng cưỡi ngựa bồi hồi đứng trên sơn đạo rất lâu.
Mấy lần
nàng định quay lại nói với Tử Hân, nàng tình nguyện tin là có Trúc Ân, tin rằng
trong miếu có cây linh sam bên trên cuốn đầy cổ đằng. Chỉ cần chàng yêu nàng.
Bất kể trong đầu chàng nghĩ cái gì, nàng đều nguyện tin tưởng. Nàng cũng nguyện
ý tin rằng con người có vô số linh hồn, cho dù là linh hồn thuộc về nàng quá
ít, cho dù là nàng sống trong cái thế giới không thể trông thấy Trúc Ân. Nàng
hy vọng chàng có thể trao cho mình nhiều linh hồn hơn, để nàng có thể tiến vào
thế giới của chàng. Nàng nghĩ rất lâu, rất lâu, cuối cùng lại cho rằng mình
không phải ai khác, chỉ là chính mình. Bởi thế nàng lặng lẽ về khách điếm, lặng
lẽ ăn bữa sáng, về phòng, thấy Đường Hành đã rời đi bèn ngã xuống giường, vùi
đầu ngủ.
Tới
trưa, Tô Phong Nghi thẫn thờ xuống lầu gọi hai cái màn thầu lót dạ, đang định
ra ngoài, Tử Hân bỗng xuất hiện trước mặt nàng.
Chàng
dắt ngựa, đeo sọt thuốc, rõ ràng chàng vừa mới quay về.
Nàng
nhìn chàng, cắn một miếng màn thầu, chẳng nói chẳng rằng, đang định đi khỏi thì
Tử Hân chợt gọi lại.
“Phong
Nghi”.
Nàng
không đáp, chỉ lạnh lùng nhìn vào mặt chàng.
Tử Hân
đưa cho nàng một thứ: “Tặng muội… Huynh tự làm đấy, có lẽ muội sẽ thích”.
Nàng
nhận lấy món đồ, đó là chiếc vòng tay kết bằng cây leo rất tinh tế. Bên trên còn
khắc một cái xoáy nho nhỏ, giống hệt hình xoáy trên mắt cá chân chàng. Chỗ bện
rất mới, cũng không có sơn phủ gì, hiển nhiên là vừa mới làm xong. Có điều, dây
cổ đằng ấy đen bóng như sơn, hoa văn chi chít, chí ít cũng có trăm năm tuổi.
“Cổ
đằng đen thế này, huynh tìm được ở đâu vậy?”, nàng hỏi.
“Trên
cây linh sam kia.”
Nàng
hơi sững người, trên mặt lộ ra vẻ mỉa mai: “Huynh tặng muội cái vòng này, là
muốn muội vui hay là để chứng minh huynh đúng?”.
“Ta chỉ
muốn tặng muội cái vòng này”.
…
“Nói
cho muội, ở đây có gì?”
Một
canh giờ sau, Tô Phong Nghi một lần nữa quay lại tiểu miếu trên sườn núi, theo
sau nàng là Đường Hành.
“Củi
khô đầy đất, một cái đệm cỏ, một đống tro than”, Đường Hành vừa đi vừa nhìn:
“Một bức tường nát, mấy cửa sổ hỏng, một tảng đá to đùng”.
“Xin
hỏi trong miếu này có cây linh sam nào không?”
“Cái
gì?”
“Một
cây linh sam, bên trên có cổ đằng bám.”
“Không
có. Ngôi miêu nhỏ thế này làm sao có thể có cả một cây đại thụ? Có điều, ở giữa
có một cái cột.”
“Ý
huynh là, Tử Hân nhìn cây cột ấy thành linh sam?”
“Không
thể. Ai cũng biết cột và linh sam là hai thứ khác nhau.”
“Vậy
thì, trong này có ai khác không, ví dụ như một nam nhân mặc áo đỏ… đầu người
mình rắn?”
“Đùa gì
vậy, đây không phải là Sam Hải kinh.”
“Dưới
đất có gián không?”
“Không
có… không thấy con nào.”
“Vậy
thì, A Hành”, Tô Phong Nghi thương cảm nói: “Chí ít thì thế giới của hai chúng
ta giống nhau”.
“Ừm, A
Thanh sẽ đồng ý với cách nghĩ của muội”, Đường Hành mỉm cười, rút bức tượng nhỏ
màu đen trong người ra, đặt lên môi hôn nhẹ.
“A
Hành, huynh… từng thấy A Thanh chưa? Có tin A Thanh sống ở trên đời không?”,
nàng chợt hỏi.
“Đương
nhiên là ta gặp A Thanh rồi, A Thanh đương nhiên sống trên đời này”, Đường Hành
nói: “A Thanh lúc nào cũng ở đây, vĩnh viễn bên cạnh ta”.
“A
Thanh… trông như thế nào?”
“Mặt
ếch mình người. Thường mặc áo xanh.”
“Đường
Hành, huynh đang thành thật trả lời câu hỏi của muội đấy chứ?”, Tô Phong Nghi
bực bội hỏi.
“Đương
nhiên!”
“Vậy
xem ra, thế giới của chúng ta không giống nhau!”, nàng nói: “Muội chưa từng nhìn
thấy A Thanh!”.
“Tại
sao thế giới của muội nhất định phải giống với thế giới của người khác?”, Đường
Hành hỏi lại: “Nếu không giống nhau, có phải muội sẽ cảm thấy thế giới của
người khác là rất hoang đường?”.
“Bởi
vì… muội…”, nàng há miệng líu lưỡi.
Đường
Hành đi qua đi lại trong miếu, đột nhiên dừng bước, nói: “Phong Nghi, linh sam
ở đây”.
Nàng
chạy như bay tới.
Trên
khoảng đất bằng ở cửa sổ phía sau quả nhiên có một cây linh sam rất lớn, bên
trên cổ đằng leo đầy.
Khuôn
mặt nàng lập tức kinh sợ tái đi. Quay đầu lại nhìn, nhận ra cửa sổ này đối diện
với bức tường Tử Hân tựa vào lúc phát bệnh.
“Nhưng
mà, lời huynh ấy nguyên văn là ở đây có một cây linh sam’.”
Đường
Hành bật cười.
“Huynh
cười cái gì?”
“Muội
không hiểu rõ lời huynh ấy. Ta lấy ví dụ cho muội được không?”
“Huynh
nói đi.”
“Ví như
nửa đêm muội ngồi trong cái miếu này, chợt nghe không xa bên ngoài vẳng tới
tiếng sói hú đáng sợ”, Đường Hành nhẹ giọng nói: “Nếu như lúc ấy, Tử Hân ở bên
cạnh muội, muội sẽ nói với huynh ấy thế nào? Nói là ‘Ở đây có sói’, hay là ‘Ở
kia có sói’?”.