Tô
Phong Nghi ngủ suốt một ngày một đêm, sớm dậy rửa mặt mũi xong bèn thay một bộ
y phục sạch sẽ. Vừa xuống lầu đã thấy có hai người ngồi ở bàn rượu, đang nhắm
mấy món vặt, nói nói cười cười. Một người trong đó bận áo khoác xám to rộng,
vai vượn lưng ong, trán cao mắt sâu, mi mày như kiếm, vẻ mặt ngang ngạnh lại
đượm nét u sầu, chẳng phải Diêu Nhân thì còn ai vào đây? Còn người kia, râu ria
đầy mặt, vết thương chưa lành, trước ngực còn cuốn vải băng trắng. Bởi mất quá
nhiều máu, sắc mặt hắn có chút nhợt nhạt nhưng ăn uống không giảm, tửu lượng
hoành tráng, chốc chốc lại vui vẻ rót rượu, bình đổ nhưng người không say. Đấy
chính là đại hán họ Quách được bọn họ cứu về đêm hôm trước.
Lần đầu
tiên nàng thấy trong mắt A Nhân tràn đầy sự ôn hòa và nét cười, lần đầu tiên
phát hiện chàng lại có thể nói nhiều đến thế. Tiếp đến, chàng còn không ngừng
ngâm rượu gắp thức ăn cho người kia, trong động tác đưa tay đưa chân còn ẩn
chứa vẻ thân cận khó tả.
Bọn họ
trò chuyện tới hăng say, đến mức không ai nhận ra nàng đã tới, đợi khi nàng
đứng cạnh bàn, Diêu Nhân còn chỉ bình trà của mình, không quay đầu lại nói:
“Tiểu nhị, làm phiền mang lên một ít nước nóng”.
Nàng
tức tối cầm bình trà đi tới quầy, rót nước, rồi đặt xuống cạnh tay chàng đánh
“bình” một tiếng, lúc này chàng mới phát hiện đó là nàng, cười cười xin lỗi,
nói: “Cô dậy rồi à?”
“Dậy
rồi”, nàng tìm một cái ghế ngồi xuống, trong lòng đố kỵ, nửa cười nửa không,
hỏi: “Vị này là…”.
“Quách
Khuynh Quỳ, Tử Hân gọi tôi là ‘A Tuấn’”, ánh mắt đại hán rất chân thành: “Đêm
trước đa tạ Tô cô nương tương cứu”.
Thì ra
chàng vẫn còn một tên khác là “Tử Hân”, trong lòng nàng thầm nhủ.
“Hai vị
trước đây… quen biết?”, Tô Phong Nghi hỏi, mi mày nhíu chặt lại.
“Bạn
tốt thuở nhỏ, nhiều năm không gặp. Tôi vẫn nhận ra hắn, hắn lại không nhận ra
tôi”, Quách Khuynh Quỳ cảm khái một trận, không nhịn được, sờ sờ quai hàm:
“Chính là bởi tôi lớn lên mặt lại đầy râu ria”.
Tô
Phong Nghi chống cằm, hơi sững ra rồi đột nhiên mi giãn miệng cười, xán lạn
khôn tả, cứ như cuối cùng cũng tìm ra một con đường có thể đả thông nội tâm của
Tử Hân, bèn nói: “Vậy sau này muội gọi huynh là Tuấn ca, có được không?”
Quách
Khuynh Quỳ cũng định cười, không ngờ động tới vết thương, miệng đã mở ra muốn
cười thế nào cũng không thu lại được, nói xong một câu: “Đương nhiên là được!”
thì phải ho khan một chập.
“Chỉ
là, Quách Khuynh Quỳ này với cái người ‘Quách Khuynh Trúc’ kia không có quan hệ
chứ?”, Tô Phong Nghị chợt hỏi.
Trông
nàng không giống người trong võ lâm, không ngờ cũng biết việc này. Mặt Quách
Khuynh Quỳ không hề biến sắc: “Bất hạnh lắm thay, Quách Khuynh Quỳ này chính là
em ruột của Quách Khuynh Trúc nọ”.
Đây là
một câu chuyện ai ai trên giang hồ cũng biết.
Phu
nhân của Thẩm Tĩnh Sơn, Trần Tĩnh Thanh vốn là người yêu của Quách Tượng Tiên,
tổ phụ của Quách Khuynh Quỳ, bởi theo lệnh của cha mà gả vào nhà họ Thẩm rồi vì
Thẩm gia mà sinh con đẻ cái mấy chục năm. Còn Quách Tượng Tiên vì chuyện này mà
lòng dạ tan nát, tâm tình bi thương cả đời không lấy vợ, chỉ vào lúc tâm ý
nguội lạnh thu dưỡng một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đứa trẻ này chính là Quách Khải
Thiền.
Lúc ấy,
địa vị của Thiết Tiêu tiên sinh Thầm Tích Sơn trong giang hồ đang như mặt trời
giữa Ngọ, ba đứa con trai của Thẩm gia cũng là những kẻ ưu tú của lớp sau.
Quách Tượng Tiên thì theo học “Thông Tí Thần Viên” Lục Huyền Ưng nổi danh với
Bát quái kiếm của Thiết Hoàn môn miền tây bắc, trên giang hồ không được như
Thẩm gia người đông thế mạnh, nhưng cũng là danh môn chính phái. Hai vị lão
nhân kia đang đêm bỏ trốn, chỉ mới ở trong khách điếm được hai ngày đã bị phụ
tử Thẩm Tích Sơn nộ khí xung thiên đuổi theo bắt được. Trần Tích Thanh mắng
chửi Thẩm Tích Sơn không thôi, tuyên bố kiên quyết không về Thẩm gia, Quách
Tượng Tiên cũng không chịu nhường nửa bước. Dưới cơn thịnh nộ, người nhà họ
Thẩm nhất tề xông lên công kích, hai vị lão nhân kia biết là không địch nổi bèn
ôm chặt lấy nhau, cùng nhau tự vẫn trước mặt chúng nhân. Trong đám người vây
bắt còn có võ lâm bằng hữu đã báo tin cho Thẩm gia. Nghe nói cảnh tượng khi ấy
khiến Thẩm gia nhục nhã khôn tả, mất sạch thể diện. Thi thể hai người kia vẫn
ôm chặt lấy nhau, mặc người bên cạnh ra sức lôi kéo thế nào cũng không chia
lìa. Thẩm Bích Sơn vừa xấu hổ vừa phẫn nộ, vung đao chém loạn, xả bọn họ nát
như tương rồi cho chó hoang ăn thịt.
Chuyện
này truyền tới tai Quách Khải Thiền, thù hận của hai nhà chính là bắt đầu từ
đây. Quách Khải Thiền từ biệt thê tử, mai danh ẩn tích, suy tính mưu đồ báo thù
cho phụ thân, ba năm sau vào một ngày nọ, hắn đột nhập vào Thẩm phủ, một đêm
cắt đầu Thẩm Bích Sơn và con trưởng của lão, treo đầu lâu trước cửa lớn Thẩm
gia.
An táng
xong cho cha và anh, lão nhị của Thẩm gia là Thẩm Thái trước tế đường chặt ngón
tay phát thệ, nợ máu nhất định phải đòi bằng máu, không đem được Quách Khải
Thiền nghiền ra thành tro bụi, thề không làm người. Nhưng bỏ ra trọn mười năm
trời, Thẩm Thái mới tìm được nhà họ Quách trốn tránh ở nơi thâm sơn cùng cốc,
ai ngờ Quách Khải Thiền sớm đã dự liệu tất cả, đem hai đứa con trai của mình
chia ra giấu đi từ lâu. Thẩm Thái dẫn người đuổi đến nơi, chỉ bắt được phu phụ
họ Quách, lập tức giết họ tại chỗ, rồi lại truy lùng tung tích hai đứa con của
Quách gia khắp nơi.
Mấy
chục năm sau, trưởng tử Quách Khuynh Trúc đã giết trưởng tử Thẩm Huy Thiền của
Thẩm Thái. Quách Khuynh Trúc theo học “Thái Huyền Môn”, là đệ tử độc truyền của
Nam Hải thần kiếm Khổ Vũ đại sư năm xưa, hiện hắn là đệ nhất sát thủ của miền
tây bắc. Người này không những kiếm thuật cao siêu, mà hành tung lại ẩn mật,
trên giang hồ ai nghe thấy tên cũng biến sắc kinh tâm.
“Vậy
thì, người truy sát huynh hôm qua là do Thẩm gia thuê hay sao?”, Tô Phong Nghi
hỏi tiếp.
“Quá
nửa là thế”, Quách Khuynh Quỳ cười khổ: “Xem ra mạng của ta càng lúc càng đáng
tiền. Nếu không phải năm xưa được thủ hạ của phụ thân mai danh ẩn tích nuôi lớn
thành người, lại phải chạy tới chạy lui, tránh đông tránh tây trên giang hồ
mười mấy năm, chỉ sợ đã sớm trở thành vong hồn dưới đao của Thẩm gia rồi”.
Nói
rồi, hắn đưa mắt tựa như khó nói mà nhìn Tử Hân, trong lòng tràn đầy day dứt.
Đêm hôm
đó hắn vội vã rời đi, không nói lời từ biệt với Tử Hân. Mười mấy năm sau, hắn
trốn chạy giữ mạng, càng chưa từng liên hệ với Tử Hân.
Hắn còn
nhớ tình cảnh đêm hôm đó đang say ngủ thì bị gọi dậy. Vừa mở mắt đã thấy khuôn
mặt suy sụp và ánh mắt sợ hãi của mẹ nuôi, bà nhỏ giọng an ủi hắn một câu rồi
nhanh chóng mặc đồ cho hắn, sau đó không ngừng dỗ Tiên Nhi yên lặng. Không kịp
thu dọn đồ đạc, cả nhà chỉ đem theo một bọc hành lý rồi ngồi xe ngựa phóng vội
đi.
Đánh xe
là một người lạ mặt, cao to mà âm trầm, đôi môi mím nhặt, trên đường rất ít mở
miệng nói năng. Còn chưa ra khỏi tiểu trấn, bọn họ đã gặp phục kích của Thẩm
gia. Cả nhà bỏ cả xe ngựa lẩn vào thâm sơn, xuyên đông trốn tây. Hắn mờ to mắt,
nín thở, núp trong lùm cỏ rậm. Mấy lần đám người truy bắt phóng qua trước mặt,
đuôi ngựa phất phơ quét qua má hắn; đèn đuốc sáng trưng, tro củi bay vào mắt
hắn.
Tiên
Nhi bắt đầu không chịu ngồi yên, dần dần lại càng thêm quấy phá. Nó không ngừng
vặn vẹo, lấy chân đá vào vụn dưới đất, muốn thoát khỏi vòng tay của mẫu thân.
Hắn ở bên cạnh ra sức giúp bịt miệng Tiên Nhi. Tiên Nhi nổi giận, hung dữ cắn
tay hắn, vết răng tới giờ vẫn còn lưu trên mu bàn tay. Hắn bị cắn đau phải nới
lỏng tay ra, nhân cơ hội ấy, Tiên Nhi chạy biến đi, vừa chạy cừa kêu: “Ca ca
xấu! Ca ca xấu!”.
Hắn
định xông ra kéo Tiên Nhi lại, một cánh tay như kìm thép giữ chặt lấy hắn. Hắn
quay đầu lại, thấy cha nuôi tay cầm rìu sắt, ngồi bất động sau lưng hắn, ánh
mắt vừa tàn nhẫn lại vừa bi thương.
Bọn họ
trú trong sơn động suốt một đêm, ngày hôm sau mới tìm được thi thể của Tiên
Nhi… Tiên Nhi chết rất đau đớn, hai mũi tên nhọn xuyên qua bụng nhưng không
chết ngay lập tức. Cô bé giãy giụa rất lâu cho đến khi máu tươi chảy ra hết.
Rất lâu
sau hắn mới biết, người đánh xe kia là đại ca của mình, là người thân duy nhất
của mình trên đời.
Có lẽ
là nhờ bao nhiêu năm nay toàn dựa vào đại ca một mình đối kháng với Thẩm gia,
hắn mới được thuận lợi sống sót, hắn luôn giữ một lòng kính sợ sâu sắc với đại
ca. Giữa bọn họ không hề thân thiết gì cho cam, thực ra còn rất ít khi gặp mặt.
Có lúc, đại ca đột nhiên xuất hiện trên con đường hắn đang đi, trao đổi vài câu
rồi lại biến mất. Đọng lại trong đầu hắn, trước sau chỉ là vết sẹo dài trên mặt
cùng thanh trường kiếm đeo bên người, đôi tay lùa trong ống tay áo, dáng điệu
lạnh lùng, cái nhìn xa xăm của đại ca.
“Đệ
là huyết mạch duy nhất còn lại của Quách gia”, có một hôm đại ca chợt nói.
“Lẽ
nào huynh không phải”.
“Không
phải nữa rồi”.
Hồi ức
thoáng chốc ập đến, tựa như một cái bóng lướt qua mặt hắn, Tô Phong Nghi nhanh
chóng nhận ra hắn đang lơ đãng. Hiếm có cơ hội moi tin từ miệng Quách Khuynh
Quỳ, nàng ân cần rót rượu cho hắn, hưng phấn định hỏi tiếp, Tử Hân chợt nói:
“Vết thương ở chân đỡ hơn chưa?”.
Tai
nàng thoắt cái đỏ bừng lên, nhẹ nhàng cười với chàng: “Thoa chút thuốc, đã hết
sưng rồi”.
Tử Hân
chớp chớp mắt: “Tôi không hỏi cô”.
Giờ
nàng mới phát hiện chân Quách Khuynh Quỳ cũng băng một lớp rất dày, vẫn có thể
thấy được màu máu đỏ nhàn nhạt.
“Không
sao rồi, không sao rồi”, Quách Khuynh Quỳ vội vàng dàn hòa: “Vết thương vặt
thôi. Tô cô nương, cô ăn sáng chưa? Sữa đậu nành với dầu cháo quẩy ở chỗ này
rất ngon, tôi bảo tiểu nhị bưng lên một ít nhé?”.
“Không
cần đâu”, Tô Phong Nghi nói: “Muội không ăn nổi”.
“Sao
thế?”
“Muội
cảm thấy có chút khó chịu”, nói rồi tức tối lườm Tử Hân một cái.
Tử Hân
cười nhạt, tiếp tục chọc tức nàng: “Chớ quên cô còn nợ tôi mười lăm lượng bạc,
tốt nhất là nhanh nhanh một chút kiếm tiền trả tôi”.
Còn
chưa dứt lời, đã thấy trước mắt khói đen bốc ngùn ngụt, Tô Phong Nghi hất mái
tóc dài, tức giận xông khỏi cửa. Bước đi quá nhanh, suýt nữa vấp vào bậc cửa
ngã nhào.
Nhìn
theo bóng lưng nàng, Quách Khuynh Quỳ cười nói: “Sao lại phải chọc giận người
ta bỏ đi thế?”.
“Nếu cô
ta giận đi luôn thì tốt”.
“Lão
đệ, chú ý phong độ”.
“Ta
không có phong độ”.
Phần
lớn đám nam nhân đều cho rằng mình hiểu nữ nhân, còn đa số nữ nhân lại cho rằng
bản thân không hiểu nổi nam nhân, thậm chí còn hy vọng bọn họ vĩnh viễn cứ thần
bí.
Tô
Phong Nghi thì lại không hề như vậy. Nàng luôn tràn đầy tò mò với con người Tử
Hân, ngoại trừ vì thích chàng ra, còn vì đã bất giác coi chàng là một món đồ
đồng cổ thời nhà Thương, lai lịch không rõ ràng. Nàng biết rõ thói tò mò của
mình rất đụng chạm Tử Hân, khiến chàng cực kỳ tức giận nhưng cứ kiên trì không
chịu thôi.
Cho
nên, tuy trong túi rõ ràng có một tờ ngân phiếu ba chục lạng, nhưng nàng tuyệt
đối không chịu giao ra.
Nếu
giữa hai người đã không có bất kỳ quan hệ gì, vậy thì nợ nần có thể thành một
loại quan hệ.
Bất kể
có nói gì, Tử Hân không có cách nào khiến nàng tức giận bỏ đi, nàng căn bản
không phải là nữ nhân dễ dàng thương tâm.
Ngủ đẫy
đà, lại thêm một bữa sáng thịnh soạn, nàng cảm thấy tinh lực dồi dào, quyết tâm
dư thừa, liền chạy về tiệm đồ cổ Vinh Ký đứng quầy hai canh giờ. Trong khoảng
thời gian ấy, nàng liên tiếp thực hiện được mấy vụ làm ăn, đều rất thuận lợi.
Rồi lại đem một chiếc nhẫn ngọc đời Hán ố vàng tán tới mức hoa bay đầy trời có
một không hai bán cho một công tử ăn mặc hoa lệ với cái giá cao kinh người. Sau
đó còn thừa nhận với hắn bản thân nàng là người mới, thật thà, không biết làm ăn.
Hoa hoa
công tử rõ ràng không có thói quen mặc cả, chỉ một mực mỉm cười nhìn nàng, lặng
yên nghe nàng giảng giải từ cổ ngọc thời Thương cho tới gốm quý đời Đường, lại
từ tượng phật thời Tây Hán sang động đá Đôn Hoàng. Cuối cùng nhỏ nhẹ than rằng:
“Cô nương bác học tài cao, lại phải làm thuê cho tiệm nhỏ này, đúng là thiệt
thòi rồi”.
Nói
xong, đón lấy chiếc nhẫn, rút khăn tay lau lau một lúc, đeo vào ngón trỏ ngắm
trái ngắm phải, sau đó nói: “Vậy thì cứ sáu trăm lượng đi. Làm phiền cô nương
ghi nợ”.
“Xin
lỗi, tiệm nhỏ vốn ít, giao dịch tiền mặt”.
“Cô
nương đúng là mới đến. Tôi đến đây mua đồ, trước giờ đều là ghi nợ, đợi tới
cuối năm thanh toán…”
Lời còn
chưa dứt, Tô Phong Nghi đã túm lấy tay hắn, rút chiếc nhẫn khỏi ngón trỏ của
hắn đánh veo một cái, rồi bỏ vào hộp gấm, sau đó ngước đôi mắt, ánh mắt tóe
lửa, bộ dạng cực kỳ đề phòng.
Người
nọ không hề để ý, thở dài một tiếng ôn hòa, nhẫn nại giải thích: “Bởi vì đây là
tiệm của tôi”.
Đưa mắt
quét qua vai hắn, nàng đã thấy Vinh lão bản từ cửa vội vã đi vào, người chưa
tới nơi, trên mặt đã đắp nụ cười: “Nhị công tử rảnh rỗi ghé qua lúc nào thế?”.
Nàng
không đổi sắc mặt, tỉnh bơ đưa cái hộp gấm vào tay người kia: “Cầm lấy đồ này,
tôi có việc xin đi trước”, nói rồi nhanh chóng chuồn khỏi.
Trên
phố ánh dương rạng rỡ, Tô Phong Nghi bâng quơ dạo một vòng, mua mấy bộ y phục,
nhớ ra mình không có son môi, liền thả bước đi vào tiệm son phấn tên là “Tử Cẩm
ký”.
Trên
quầy không có ai ngoài một vị nữ nhân thân mình cao gầy đang ngồi im lặng
thưởng trà trên chiếc thái sư kỷ đặt cạnh cửa sổ.
Cô gái
đó khoảng hơn hai mươi, bận bộ áo bào thêu màu xanh sáng, trên đầu cài một cây
trâm sừng tê giác, dung mạo tuyệt mỹ, đôi mắt như sương khói, trong ánh mắt có
vẻ cao ngạo sắc bén phi thường.
Làn da
của nàng vốn đã mịn màng mềm mại, lại thoa thêm một lớp phấn trang điểm. Mười
ngón tay thon dài, đầu ngón tay thoa sơn phụng tiên hoa đỏ. Ngón giữa thon nhỏ
đeo một chiếc nhẫn ngọc, chất ngọc có ẩn chứa mấy đường vân đỏ như máu.
Đầu
tiên, Tô Phong Nghi cho rằng nàng là lão bản nương của cửa tiệm, vừa định mở
miệng chợt thấy có người giúp việc đi ra từ cửa nhỏ trong quầy, nhìn mình với
tư thế “Xin đợi một chút”, rồi mau bước tới bên chỗ cô gái kia ngồi, khom lưng
cười nói: “Vất vả cho cô nương phải đợi lâu. Tiểu nhân vừa mới đi tìm lại một
lần, vốn cho rằng tiệm hẳn còn một rương hàng, không ngờ loại kem ‘Dạ dung’ kia
chưa tới hai ngày đã bán hết veo, đừng nói một rương, đến nửa hộp cũng không
còn. Thật sự rất xin lỗi”.
Cô gái
kia hừ một tiếng không thèm đưa mắt nhìn: “Kem Dạ Dung thì thôi, phấn Bát Bạch
các người cũng không có. Ta thấy Tử Cẩm Ký còn chẳng bằng sạp hàng rong đầu
phố, còn để làm gì nữa, chẳng bằng dỡ luôn cho xong”.
Giọng
cô gái mềm mại thấu xương, còn mang theo chút lười biếng khiến người ta nghe
thấy sung sướng cả lỗ tai. Có điều lời nói ra thì ngang ngạnh như muốn đòi mạng
người ta, chẳng chút thông cảm cho người khác.
Tô
Phong Nghi nghĩ thầm, cô gái này trắng trẻo như hoa lê, cho dù không thoa phấn
thì vẻ đẹp tự nhiên cũng đủ kiều diễm lắm rồi, ai ngờ nàng vẫn cho là không đủ,
còn muốn thoa thêm Bát Bạch phấn, thật là thái quá. Thế là không nhịn được,
nàng mở miệng cười nói: “Vị tỷ tỷ, theo muội thấy, phấn Bát Bạch cũng thôi đi.
Đinh Hương, Bạch Phụ ở đây cũng là hàng tốt. Chỉ là bên trong có cho thêm một
ít tằm khô, làm mặt nạ thuốc thì chắc chắn làn da trơn nhẵn, nhưng lúc rửa thì
lại rất phiền phức. Còn chưa nói phối phương ấy vốn là dùng dấm chua điều chế,
không khỏi có vị chua, thật dùng không tốt bằng phấn ‘Ngọc Nữ Đào Hoa’ mà Vạn
Hoa lâu mới ra”.
Đôi mắt
cô gái kia sáng lên, cười nói: “Vị cô nương này hình như là người trong nghề,
muội nói tiếp xem, phấn Ngọc Nữ Đào Hoa ấy có gì tốt?”.
Tô
Phong Nghi tới ngồi cạnh nàng, nói: “Phấn ấy là hoa đào mùa xuân lấy phơi khô
nghiền nát mà thành. Dùng kem Ô Kê xem rồi đánh lên mặt, không chỉ có thể dùng
làm phấn, mà còn có tác dụng của son môi, chẳng phải một thứ đồ mà có hai công
dụng sao?”.
Cô gái
vui mừng nói: “Nghe hay đấy, nhưng không biết ở đây có bán không?”.
Người
giúp việc vội thưa: “Có, có, có, đương nhiên có. Đây là hàng mới của năm nay,
gọi là kem Ngọc Nữ Đào Hoa. Lúc xoa lên mặt thậm chí có thể không cần dùng kem
Ô Kê, một hộp bảy loại, bảy màu sắc, hạnh hồng, đào hồng, ngân hồng, phấn hồng,
thoái hồng, tía hoa hồng, tía ngó sen. Giá có hơi cao, hai mươi mốt lượng một
hộp. Có điều cũng có thể chia ra bán lẻ”.
“Làm
phiền lấy cho ta hai hộp đi”.
Cô gái
nhàn nhã bước tới, trả tiền, nói kiểu gì cũng phải tặng cho Tô Phong Nghi một
hộp. Tô Phong Nghi ngượng ngùng nhận lấy, cảm thấy nhận không thế này có chút e
thẹn, bèn hẹn nàng tới một trà lâu uống trà.
Trò
chuyện một canh giờ đã trở nên thân thuộc, cô gái kia họ Thẩm, tên có hai chữ
Khinh Thiền.
“Tỷ tỷ
làm nghề gì?”, Tô Phong Nghi nhìn thanh kiếm tinh xảo đeo trên bộ eo mềm mại
như không xương của Thẩm Khinh Thiền, hỏi.
“Ta là
một kiếm khách”, lúc nói câu này, nàng tỏ ra rất nghiêm túc, nói rồi tháo kiếm
đưa cho Tô Phong Nghi cầm xem.
“Đây là
tác phẩm của Lỗ Ẩn Tuyền đại sư năm xưa phải không?”, Tô Phong Nghi cười hỏi.
Thẩm
Khinh Thiền hơi biến sắc hỏi: “Sao muội biết?”.
“Muội
là một giám định sư, thanh kiếm này cũng xem như một món đồ cổ. Loại kiếm sắc
tím kiểu này, tổng cộng Lỗ đại sư làm ba thanh. Chỉ còn một thanh lưu truyền
tới nay, vốn luôn là trấn sơn chi bảo của núi Nga My. Người trên giang hồ gọi
nó là ‘Ngư Lân Tử Kim kiếm’. Sau này nghe nói kiếm vào tay người năm xưa đứng
đầu kiếm bảng là Sở Hà Y, vị này lại đánh mất nó trong đại sơn ở Đường môn.
Thẩm
Khinh Thiền gật đầu nhẹ: “Muội nói không sai”.
“Nhưng
mà, tỷ tỷ làm thế nào lại có được nó?”
“Là ta
nhờ người đào nó trong núi ra”.
“Không
thể thế chứ”, Tô Phong Nghi bán tín bán nghi: “Nghe nói chỗ đó vốn là một sơn
động, sau đó bị người ta đặt thuốc nổ, cả tòa núi sụp xuống. Đương thời ai cũng
cho rằng đấy là nơi chôn thây của Sở Hà Y, đến cả thần y Mộ Dung cũng nhất mực
tin thế, không ngờ nàng lại thoát được ra ngoài… Có lẽ thông qua mạch suối
ngầm trong lòng núi… Còn thanh kiếm ấy rõ rành rành còn lưu lại trong động”.
“Cho
nên ta thuê rất nhiều người, mất cả nửa năm mới đào được nó ra”, Thẩm Khinh
Thiền tự hào nói.
“Nơi
đấy không phải địa bàn của Đường môn sao?”
“Đương
nhiên. Làm việc gì cũng phải trả cái giá của nó.”
“Giá
như thế nào?”, Tô Phong Nghi bất an nhìn Thẩm Khinh Thiền.
“Trinh
tiết.”
Dùng
trinh tiết đổi lấy bảo kiếm, đây là lần đầu tiên nàng nghe qua chuyện như thế.
Tuy cuộc nói chuyện đã mấy lần bàn tới việc bí mật chốn phòng khuê, nhưng nghe
thấy lời bộc bạch thản nhiên như thế, nàng vẫn cảm thấy hoảng hốt, tay run mạnh
một cái, suýt chút nữa đánh rơi thanh kiếm.
“Sau
đó”, Thẩm Khinh Thiền nói tiếp: “Ta đem nó tới Vân Mộng cốc bái kiến Mộ Dung
phu nhân, định để vật quy nguyên chủ, nói thế nào phu nhân cũng không chịu tiếp
nhận. Còn bảo, nếu đã vất vả như thế mới lấy được thanh kiếm này, vậy ngoài ta
ra, nó không thể thuộc về ai khác. Phu nhân giữ ta lại ăn bữa cơm tối, còn tặng
ta một bản kiếm phổ”.
Lúc nói
câu này, nàng đưa mắt nhìn bầu trời xanh lam bên ngoài song cửa, trên khuôn mặt
kiêu ngạo lộ ra vẻ sùng kính: “Tuy thời gian Mộ Dung phu nhân đi lại trên giang
hồ cực kỳ ngắn ngủi, nhưng người vẫn là nữ nhân đầu tiên liệt danh đầu bảng
trong võ lâm trăm năm nay. Về điểm này, chỉ sợ cả đời ta cũng không theo kịp”.
Tô
Phong Nghi nói: “Vậy tỷ đã gặp được thần y Mộ Dung sao? Vị ấy là người thế
nào?”.
Thẩm
Khinh Thiền lắc đầu: “Không, lúc ta tới đó đương là mùa đông, tiên sinh đang
bệnh, không thể tiếp khách”.
“Tử Hân
đặc biệt thích ông ấy. Đầu giường của chàng đều là sách của Mộ Dung Vô Phong.
Dưới mỗi chữ chàng đều ghi đầy ký hiệu, chắc sắp bị chàng vò hỏng mất thôi”, Tô
Phong Nghi tay chống cằm, ngọt ngào nói.
Tự
nhiên nghe thấy cái tên xa lạ này, Thẩm Khinh Thiền thoáng sửng sốt, hỏi: “Ai
là Tử Hân?”.
“Bằng
hữu của muội”, ánh mắt Tô Phong Nghi long lanh, vẻ mặt mang nét ấm áp khó tả:
“Sớm muộn gì muội cũng sẽ gả cho chàng. Tỷ xem, chàng chính là đang hành y ở
góc kia kìa, ngày nào giờ này cũng ở đấy”, nàng kéo Thẩm Khinh Thiền tới bên
song cửa sổ, chỉ bóng người áo xám nơi con phố lớn phía xa.
Thẩm
Khinh Thiền nhìn một hồi, không khỏi nhíu mày lại: “Trông hắn cũng không tệ”.
“Há chỉ
là không tệ? Có mà nhìn mãi không chán!”
“Có
điều, hắn làm nghề gì? Mở sạp trên con phố hỗn loạn như thế, lẽ nào hắn không
có nơi ở cố định sao?”
“A,
chàng là giang hồ lang trung… cũng tức là hành nghề y tự do”, nàng lắp bắp
giải thích: “Một ngày có thể kiếm mười lăm lượng bạc đấy!”.
“Chân
của hắn bị thương sao? Tại sao đi đường lại phải dùng trượng?”
“Đúng
là rất cà nhắc à? Sao muội không cảm thấy…”, Tô Phong Nghi nhỏ giọng lí nhí.
“Muội
làm sao lại quen người này?”
“Quen
từ lâu rồi, rất tình cờ… Chàng đối với muội khá tốt.”
“Nhưng
mà, trời trong lành thế này, cũng không nóng lắm, sao hắn choàng cái khăn to
thế?”
“À
chuyện này… mũi chàng có chút bệnh. Cứ ngửi thấy mùi lạ là sẽ hắt hơi”, tránh
cho Thẩm Khinh Thiền hỏi mãi không thôi, Tô Phong Nghi dứt khoát kể hết một
lượt: “Chàng không thể ăn rất nhiều thú, không ăn cá, tôm, cua, trứng; không ăn
đậu tương, lạc, vừng; không ăn hành, tỏi, ớt, tiêu; không ăn hạnh đào, hạnh
nhân, hạt dẻ; không ăn ngải, mùi, nấm, cần; không ăn quýt, cải, dưa hấu; không
uống nước lạnh; không ăn thịt”.
“Chẳng
thà muội kể xem hắn có thể ăn những thứ gì, có khi còn đỡ mệt đầu hơn.”
“Những
thứ còn lại đều có thể ăn.”
Thẩm
Khinh Thiền buồn cười nhưng không dám cười: “Đấy chính là người muội thích? Hắn
cứ như một đống bệnh gom lại, rất khó hầu hạ đấy”.
Tô
Phong Nghi xua tay lia lịa: “Trước giờ chàng không cần hầu hạ. Trừ bữa sáng ra,
hai bữa còn lại chàng đều tự mình làm. Nếu như có vào khách điếm, chàng sẽ đưa
cho chưởng quỹ nhiều tiền hơn một chút, sau đó vào nhà bếp tự mình làm món ăn,
không cho người khác động tay vào… Tỷ phải biết, người trong thiên hạ, cứ có
bệnh là có vấn đề. Có bệnh nhưng không thành vấn đề như Tử Hân, quả thật rất
hiếm đấy!”.
“Thế
à… thật là kỳ lạ lắm thay. Tay nghề của hắn có tốt không?”
“Rất
tốt, làm rất tinh tế. Chỉ là chẳng có mấy mùi vị. Có điều, nhiều năm như thế
rồi, chắc chắn chàng đã có tiến bộ…”
“Gả cho
một người như thế, chẳng phải là quá nhiều phiền phức sao?”
“Không
phiền phức, không phiền phức chút nào. Muội chỉ muốn kiếm nhiều tiền một chút,
tương lai mua một ngôi nhà lớn, bọn muội sống cùng nhau. Chàng muốn mở quán
khám bệnh thì mở quán khám bệnh, không muốn thì có thể hằng ngày đưa bọn trẻ ra
ngoài câu cá.”
Thẩm
Khinh Thiền đơn giản là không dám tim vào lỗ tai mình nữa: “Ý muội là, muội
kiếm tiền, hắn nghỉ ngơi?”.
Nàng
gật đầu thật mạnh: “Muội kiếm tiền dễ hơn chàng, tiêu tiền tiết kiệm hơn chàng.
Nhất định phải là muội kiếm tiền mới được”.
“Phong
Nghi”, Thẩm Khinh Thiền có chút cảm động: “Nếu muội có tấm lòng và quyết tâm
như thế, làm gì không tìm được nam nhân tốt? Đáng tiếc Ngũ ca của ta vừa mới
qua đời… nếu không…”.
“Tử Hân
chính là nam nhân tốt nhất. Muội sẽ gả cho chàng, sau đó sinh cho chàng hai đứa
con trai, một đứa gọi là Diêu Hoan, đứa kia gọi là Diêu Hỷ”, Tô Phong Nghi kiên
định nói, gương mặt sáng bừng.
Thẩm
Khinh Thiền vuốt ve khuôn mặt nàng, dịu dàng nói: “Yêu một người là một điều
hạnh phúc. Phong Nghi, ta mừng thay cho muội. Muội ở khách điếm nào? Ta chuyển
tới ở với muội. Kẻ nào dám bắt nạt muội, ta giết kẻ đó!”.
“Tốt
quá!”
Ngày
hôm ấy, thu hoạch lớn nhất của Tô Phong Nghi chính là quen biết Thẩm Khinh
Thiền.
Tình
bạn giữa nam nhân và tình bạn giữa nữ nhân khác nhau như thế.
Nàng cố
hết sức nghĩ cách tạo dựng mối quan hệ với Tử Hân, từ đầu tới giờ vẫn là khó
khăn trùng trùng, mỏng manh khôn tả.
Còn với
Khinh Thiền thì hoàn toàn ngược lại, gặp nhau là hợp, trong vòng mấy canh giờ
đã dốc gan dốc ruột, không rời được nhau.
Hai
người dắt tay nhau dạo phố một canh giờ rồi cùng nhau về Dụ Long khách điếm.
Vừa vào
cửa, đã nhìn thấy Tử Hân đang ngồi uống trà, bên cạnh lại có thêm một người trẻ
tuổi.
Tô
Phong Nghi nhìn kỹ, nàng lập tức cảm thấy không thoải mái.
Người
trẻ tuổi này chính là hoa hoa công tử mà sáng nay nàng gặp gỡ ở tiệm đồ cổ Vinh
Ký, trên tay hắn vẫn đang đeo chiếc nhẫn ngọc đắt tiền kia.
Lúc
bước vào, hai người kia đang thấp giọng trò chuyện… Nói đúng ra, một mực nói
mãi không thôi là người trẻ tuổi nọ còn Tử Hân chẳng qua là thi thoảng gật đầu,
mỉm cười liên tục mà thôi.
Người
kia vừa nói vừa vỗ vai Tử Hân, bộ dạng như hoạn nạn chi giao nhiều năm chưa
gặp, thái độ thân mật còn hơn cả Quách Khuynh Quỳ mười lần.
Tô
Phong Nghi đi tới bên bàn, hỏi: “Là công tử?”.
“Là
tôi. Tô cô nương cũng ở đây sao?”, người nọ khách khí chào hỏi.
“Đúng
thế! Chiếc nhẫn ấy…”
“Không,
không, không, tôi không đến tìm cô nương.”
“Vậy
công tử và Tử Hân… quen nhau?”
“Đương
nhiên, bạn tốt thuở nhỏ, sau khi lớn lên vẫn thường qua lại, không ngờ lại gặp
huynh ấy ở đây, người nọ cười, nụ cười có chút yêu mị: “Tôi chỉ mới biết cô
nương họ Tô, đang định thỉnh giáo Tử Hân danh tự của cô nương.”
Tử Hân
nghĩ ngợi, không nghĩ ra liền ngước mắt lên nhìn Tô Phong Nghi: “Xin lỗi, tên
cô là Tô gì?”
“Tô
Phong Nghi, phong trong phong vân, nghi trong nghi Thủy[1]”, nàng
không hề tức giận.
[1]
Nghi là tên một con sông ở Trung Quốc. Nghi Thủy tức là sông Nghi.
“Tôi
tên là Đường Hành”, người trẻ tuổi kia cười nhẹ.