Mật Mã Maya

Chương 21



Chúng tôi được tuồn vào, rất lặng lẽ, rất bình thản, như những con lươn. Tôi phải công nhận đây là một chiến dịch rất chuyên nghiệp, không như những trò náo loạn mà quân đội chính quy thường gây ra. Hình như nãy giờ tôi chưa nhắc gì đến cuộc chiến. Có lẽ vì nó lặp lại một kịch bản cũ rích, như mọi vấn đề chính trị khác ở châu Mỹ La tinh. Nói ngắn gọn, ba ngày sau cuộc tấn công ở Orlando, Guatemala tuyên bố nước Mỹ đã trở thành một đất nước tê liệt, rằng mọi thỏa thuận họ đã ký dưới sức ép của Mỹ và NATO phải được đàm phán lại “trước tình thế chính trị mới”, đồng thời đòi hỏi Belize trao cho các thanh sát viên của họ đầy đủ quyền như cảnh sát. Thanh sát viên là cái thá gì mà lại được nhắc đến đầu tiên trong một câu chuyện dài như thế? Đó là bởi vì có rất nhiều tên tội phạm người Guatemala – chính thực là những chiến sĩ đấu tranh cho tự do bản xứ – đang hoạt động bí mật tại Belize. Vấn đề rắc rối ở đây là Guatemala luôn coi Belize là bang thứ hai mươi ba của mình và cứ thỉnh thoảng lại tìm cách chứng minh điều đó.

Đương nhiên, người Belize nói không và tống giam tất cả các thanh sát viên. Người Guatemala liền phái quân đội đến biên giới. Ngày 29 tháng 1, một tên lửa đất đối đất mang theo chất nổ chân không của Belize đã phát nổ gần một ngôi làng Guatemala ở Petén. Chính phủ Belize khẳng định tên lửa đã hạ sát năm binh lính tại một nhà máy sản xuất vũ khí hoá học. Chính phủ Guatemala khẳng định nó giết chết 142 dân thường tại một ngôi làng. Quốc hội Guatemala tuyên bố tình trạng chiến tranh. Hiển nhiên, nếu là vài tuần trước thì Mỹ đã can thiệp, nhưng bây giờ họ đang phải tự lo chuyện của mình. Đúng hôm chúng tôi chuẩn bị vượt qua biên giới – thứ 7, ngày 17 tháng 3 – thì cuộc chiến nhỏ đã đi đến chỗ hai bên “thỉnh thoảng” nã pháo vào nhau ở khu vực gần thành phố Benque Viejo del Carmen (Thuộc Belize). Cũng chẳng sao. Dù sao, tôi cũng không phải là người duy nhất trong nhóm không muốn vượt sang lãnh thổ Guatemala một cách công khai. Có lẽ, nếu không vì tôi, họ đã tìm cách lừa phỉnh, giả mạo hoặc hối lộ để đi qua trạm kiểm soát. Nhưng thay vào đó, họ quyết định làm theo lối cổ điển là lén vượt qua biên giới. Họ định đưa năm người chúng tôi là Marena, Michael, Grgur, Hitch và tôi sang trước, và hôm sau sẽ đưa tiếp những người khác theo một lộ trình khác, tất cả chúng tôi sẽ gặp nhau tại một địa điểm bên ngoài San Cristóbal Verapaz.

Chúng tôi đang ở tại một khu vực khảo cổ nhỏ gọi là Pusilha, cách Stake hai mươi nhăm dặm về phía nam. Có lẽ nó từng là một đô thị quan trọng vào cuối thời Cổ Maya, nhưng ngày nay thì chẳng còn vẻ gì là thế cả. Chúng tôi đang ngồi trên tấm vải dầu trong một căn lều mái tôn do một nhóm khảo cổ nào đó cất từ vài năm trước. À, chúng tôi ở đây tức là năm mojado – những kẻ di cư bất hợp pháp – cộng thêm AnaVergara, cô ả có dáng dấp như lính Mũ Nồi Xanh đã đón chúng tôi ở Florida Keys, và cấp phó của cô ta, một gã nhìn như nhân vật Commando trong phim hoạt hình tên là… ấy, khoan đã. Có lẽ ta nên tuân thủ luật không nhắc đi nhắc lại đến sốt ruột những cái tên ít dính dáng đến tội lỗi của chúng ta. Chúng tôi đợi trời tối. Trong này có hai chiếc bàn, một đống khung màn hình cũ cùng rất nhiều chổi và bút lông. Michael duỗi cái đống thịt đồ sộ của mình ra trên tấm vải dầu, có vẻ như định làm một giấc. Hitch ngồi kiểm tra các dụng cụ. Marena tán gẫu với Ana. Tiếng máy bay trực thăng ù ù trên đầu chúng tôi, phặc phặc phặc phặc phặc, chạy từ bắc xuống nam, dọc theo đường biên giới. Ana đã đưa tôi một chiếc phong bì nhựa đựng đầy cái mà cô ta gọi là các “em bé câm” của tôi. Tôi xem qua chúng dưới ánh sáng của chiếc điện thoại cầm tay. Có một tấm hộ chiếu công dân Mỹ cũ mềm và một chiếc ví cũ căng phồng một cách đáng mừng. Tấm hộ chiếu là đồ thật, không sửa chữa gì, thuộc về một ông Martin Cruz nào đó – một phóng viên du lịch – hiện đã biến khỏi Guate City. Tôi đã phải bỏ ra nửa ngày để học thuộc tiểu sử và ghi nhớ các bài viết tạp nham của ông ta. Tôi giở chiếc ví ra. Nó đựng hai chiếc thẻ cào ghi nợ trị giá năm nghìn đô, một chiếc thẻ American Express Thulium, một bằng lái xe cấp tại bang Sunshine (Tên lóng của bang Florida) mang tên Martin Martín Cruz, nhưng lại dán ảnh căn cước của tôi, một ngàn một trăm năm mươi nhăm đô la tiền mặt, gồm các đồng năm và hai mươi, hai ngàn bốn trăm đồng quetzale Guatemala – tương đương khoảng hai trăm đô la Mỹ, và tôi không hiểu sao người ta lại lấy tên một loài chim quý như thế để đặt cho cái đồng tiền vô giá trị này – ngoài ra còn vài thứ tạp nham bỏ túi có căn cước của Martin Cruz, hoá đơn, biên lai taxi, thậm chí cả vài cuộn vải băng vết thương nữa. Và cuối cùng là một thẻ nhà báo quốc tế của tạp chíNational Geographic, ái dà, tôi nghĩ, – tôi nghĩ.

– Này, Marena? – Tôi gọi.

– Ừ? – cô ta lê gối sang và lại ngồi khoanh chân lại.

– Ờ, chắc cô cũng biết nhỉ, National Geographic là tấm bình phong của CIA.

– Ừ, vậy thì sao?

– Và tôi nhận được tấm thẻ nhà báo này từ họ.

– Đúng thế.

– Đôi lúc tôi cũng tự hỏi: chuyện gì đang diễn ra vậy?

– Ý anh là sao?

– Ý tôi là thực ra chúng ta đang làm việc cho ai?

– Chúng ta đang làm việc cho Lindsay, một mình ông ấy thôi.

– Đấy chỉ là đảm bảo của cá nhân cô thôi đúng không?

– Phải. Theo tôi biết là thế. – Một lát im lặng. – Anh nghe này, tôi chắc chắn ông ta đã nhờ đến sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao trong vụ này, nhưng, phải, tôi có thể đảm bảo cái tổ chức ma quỷ kia không hề biết gì về chuyện này đâu. Anh nghĩ mà xem. Nếu một gã tai to mặt lớn nào đó ở Washington biết được việc chúng ta đang làm thì họ đã đánh sập nó rồi.

– Tôi không biết nữa, – tôi đáp, – nhưng thời buổi này người ta làm nhiều trò khác thường lắm.

– Việc này nằm quá tầm với của bất kỳ cơ quan chính phủ nào.

– Tôi chỉ thực sự, thực sự dị ứng với bọn đặc vụ kia, ý tôi là, cô cũng biết những chuyện từng xảy ra rồi đấy, chúng thực sự là những tên sát nhân…

– Tốt thôi, – cô ta nói, – mẹ kiếp, vậy thì bỏ cuộc đi. Cứ việc nuốt lời.

– Tôi không định bỏ cuộc. Tôi chỉ muốn biết cô có chắc chắn, cô biết đấy…

– Tôi chẳng biết chắc chắn bất cứ chuyện gì hết, trừ việc người ta không thể tiên đoán tất cả mọi điều. Dù gì chăng nữa, cái thẻ đó chỉ đề phòng khi chúng ta bị tóm, và đằng nào chuyện ấy cũng chẳng xảy ra đâu.

– Không Đời Nào sẽ lồng lên bỏ chạy nếu cậu ấy nhìn thấy nó.

– Ừ, thì đó là… anh biết mà, đấy là bạn anh, có phải bạn tôi đâu, tôi biết gì để nói với anh bây giờ?

– Được rồi, không sao. Cô đừng bận tâm.

– Ừ.

– Chỉ có điều, ta đừng nhắc đến National Geographic khi có mặt Không Đời Nào nhé?

– Tôi sẽ nhân danh cá nhân đề nghị mọi người không bao giờ nhắc đến cái tên ấy.

– Cảm ơn.

Chúng tôi ngồi yên. Có lẽ cô ta nói đúng, tôi tự nhủ. Có lẽ họ biết việc mình làm. Tôi tìm kiếm thông tin về Executive Solutions – càng nhiều càng tốt – và hình như đó là một tập đoàn được thành lập tại Nam Phi, nhưng trong thời gian gần đây hoạt động chủ yếu ở châu Mỹ La tinh, chuyên bảo vệ các dàn khoan dầu và những việc đại loại như vậy, ngoài ra, theo tôi đoán, họ còn hỗ trợ khắc phục sự cố cho các tổ chức chống ma tuý. Và họ dường như hướng tới đối tượng khách hàng xa xỉ. Có khi Cruz cũng vài lần viết bài cho National Geographic thật, mặc dù tôi không đọc thấy thông tin đó trong hồ sơ của ông ta. Dù sao thì đa phần những người làm việc cho tạp chí này đều là phóng viên thực thụ. Phải vậy không nhỉ? Và dù sao, giấy tờ tùy thân của tôi cũng chẳng phải chuyện hệ trọng đến mức ấy. Michael Weiner thì có cả một gia tài. Họ đã cho tôi xem danh mục giấy tờ mà ông ta mang theo. Đủ loại giấy phép và thư giới thiệu của các quan chức Guatemala, trong đó có cả Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tôi đoán một số là được mua và một số khác là giả. ES (Executive Solutions)dự định giao cho một nhóm vỏn vẹn bốn người phụ trách việc đón chúng tôi ở bên kia biên giới. Sau đó, chỉ để đề phòng thôi, chúng tôi sẽ trà trộn vào một lễ hội ở San Cristóbal Verapaz. Các nhân viên theo dõi của ES sẽ có mặt ở đó để quan sát xem có ai bám theo chúng tôi hay không. Chúng tôi sẽ đứng lại vài phút trên quảng trường, nơi đông người nhất, rồi đi bộ ra ngoài thành phố theo hướng gần như ngược lại hướng chúng tôi đã đến. Khi đã ra đến ngoài, chúng tôi và bốn người kia, cộng thêm sáu nhân viên theo dõi vòng ngoài sẽ gặp nhau trong một lùm cây. Vậy là có ít nhất mười chín người tham gia vào công đoạn này, tôi tính. Nhưng đó chỉ là những người mà tôi biết thôi. À, thêm cả Không Đời Nào, anh bạn đồng hương tham gia tổ chức Enero 31 của tôi nữa. Tôi nghĩ là đã kể với các bạn rồi. Đó là người không được dự tính trước. Cậu ta sẽ gặp chúng tôi tối nay và sẽ ở cạnh tôi trong suốt thời gian chúng tôi ở đây, như một kiểu vệ sĩ riêng vậy. Tôi đã nhất quyết đòi hỏi như thế. Vậy là hai mươi người. Không giống lắm một chiến dịch bộ khung. (Tức là chiến dịch trong đó số người tham gia được hạn chế đến mức tối thiểu).

Ừ thôi. Calmate que te calmo (Cứ bình tĩnh – tiếng Tây Ban Nha), tôi tự nhủ. Tạm thời cứ theo lao đã. Hãy chấp nhận sức mạnh của con sóng.

– Xin lỗi về chuyện vừa rồi, – tôi nói.

– Không sao , – Marena đáp. Cô ta quay về chỗ cũ. Mẹ kiếp.

Tôi đã ở lại Stake suốt từ sau cuộc thử nghiệm Saint để tập huấn cho cái mà họ gọi là Dự án Chocula, còn Marena thì vừa quay về sau ba ngày nghỉ với Max ở Colorado và nom có vẻ tươi tỉnh ra. Cô ta mặc một chiếc áo gi-lê kiểu Jane Rừng Xanh và các phụ kiện đồng bộ khiến người ta bất giác nghĩ tới việc canh giữ căn nhà trên cây với voi và báo đốm.

Chúng tôi ngồi nghe tiếng dế kêu. Rất êm tai nhưng dường như có cái gì thiêu thiếu, khác với âm vực thông thường. Marena thở dài. Có nên chìa tay ra vỗ về cô ta ko nhỉ? Không, đừng. Cô ta sẽ nổi đóa lên với mày đấy. Cứ để cô ta thể hiện trước. Mà nếu cô ta không làm thế thì đằng nào cũng chẳng hi vọng gì.

– Nào, lên đường thôi, – Ana nói. – Mọi người cùng kiểm tra thiết bị liên lạc đi.

Chúng tôi gắn thiết bị vào tai. Hệ thống này có lẽ rất đắt tiền vànó có khả năng ẩn các tín hiệu truyền đi. Nghĩa là, nếu có ai đó bắt trộm tín hiệu đàm thoại của chúng tôi, họ sẽ chỉ nghe thấy những âm thanh nhăng nhít. Chỉ những người nghe nào có bản sao con chip chuyên dụng của chúng tôi mới có thể nghe được cuộc đàm thoại thực sự.

– …nghe thấy tôi không? – tiếng của Ana Vergara vọng qua tai nghe.

– Asuka ở đây, nghe thấy, – Marena trả lời.

– Pen-Pen ở đây, nghe rất rõ, – tôi trả lời. Michael và Hitch cũng trả lời rằng họ đang ở đây. Giời đất ạ, bí danh để làm gì cơ chứ. Đúng là trò trẻ con. Những người này đang làm như thể họ chuẩn bị khử Castro không bằng.

Chúng tôi rời căn lều và cuốc bộ một dặm theo hướng tây về phía sông Moho. Ana dẫn đầu, tôi đi thứ hai. Ánh trăng chỉ còn đủ để nhìn thấy đường nếu không đeo kính bảo vệ. Các gốc rạ và thân cây ngô nhường chỗ cho những cây tuyết tùng lùm xùm. Tôi bắt đầu thấy cái cảm giác thú vị khi đi bộ ban đêm và không phải đi một mình. Ngay cả khi tình hình có đôi chút căng thẳng, như lúc này chẳng hạn, thì vẫn có điều gì đó rất khích lệ trong lòng. Con đường mòn hẹp dần lại cho đến khi chỉ còn bằng một lối qua lại của giống heo vòi. Vài lần, Ana quay lại nhìn tôi. Cuối cùng, cô ta dừng lại, quay ra sau, dậm chân và nhìn thẳng vào mặt tôi.

– Ngài Delanda, – cô ta nói, – vùng này không có mìn đâu.

Giọng cô ta nghe như thể cô ta sắp sửa thêm vào một câu đại loại như “đồ ẻo lả chết nhát ạ”. Nhưng cô ta nói cũng phải. Tôi cứ khom người nhìn xuống chân và đặt chân vào đúng vết chân cũ của cô ta.

– Được, được, tôi hiểu rồi, – tôi đáp, và nghĩ thầm tiếp trong đầu: – thưa chỉ huy.

Cô ta quay lại đằng trước và bước đểu. Tôi rảo bước theo. Đồ giời đánh.

Con đường chạy dốc xuống giữa các bụi tầm ma. Dưới chân chúng tôi, mặt đất chuyển sang bùn trộn lẫn thân cây sậy khô. Phía trước chúng tôi, Moho là một khoảng trống đem ngòm rộng chừng mười yard. Thực chất nó chỉ là một con suối, nhưng vào lúc này, nhờ nước lũ, nó đủ sức đưa tàu bè đi ngược dòng một quãng dài. Ana dẫn chúng tôi đi dọc bờ đến một chỗ có xoáy nước nằm ở nơi khuất gió của khúc sông cong. Tôi chỉ trông thấy một hình thù bè bè đang đứng ở dưới nước, ngập đến tận đầu gối, rồi đến một chiếc lancha (loại thuyền gỗ đáy phẳng) theo kiểu địa phương, nhìn giống như chiếc xuồng vịt cũ. Mũi thuyền ghếch lên bờ, có gắn một động cơ chân vịt không gây tiếng ồn, chạy bằng điện, hiệu Minn Kota. Sáu người chúng tôi leo lên. Tôi suýt thì dập mắt cá chân vì đá phải một cục ắc quy lớn mà họ xếp dưới đáy thuyền. Michael lên cuối cùng, chiếc thuyền chìm xuống và nghiêng ngả như thể lão ta sắp sửa nhấn chìm chúng tôi. Anh chàng to bè đẩy thuyền rời bờ rồi nhảy qua mạn. Anh ta đeo kính hồng ngoại nhìn trong bóng tối có gắn màn hình định vị, một thiết bị quân đội có khả năng báo cho anh biết anh đang ở đâu, chính xác đến từng nửa inch. Anh ta hạ chân vịt và cho thuyền chạy ngược dòng. Vượt qua đường biên giới tưởng tượng giữa hai nước. Có thể trước đây từng có một tấm lưới chắn ngang để đánh dấu, nhưng người ta đã làm thế nào đó đẩy được nó sang bên mà chuông báo động không kêu. Hẳn là họ có tay trong – tôi nghĩ bụng. Ý tôi là tay trong gài bên phía Guatemala. Mà thôi, đừng bận tâm chuyện ấy. Một con vượn hú lên trên dãy đồi ở mạn bắc. Cảm giác di chuyển êm như thế này trong bóng tối thật kỳ lạ. Thêm nhiều máy bay lượn qua trên đầu, nhưng không chiếc nào soi đèn và không chiếc nào bay đủ chậm để chứng tỏ là nó đang tìm chúng tôi. Thuyền dừng lại vài lần. Có thể ngửi thấy mùi bạch đậu khấu, người ta giồng chúng quanh đây. Ánh đèn thắp bằng khí đốt le lói trong đám sương mù phía trước mặt. Đó là ngôi làng có tên Balam.

Tai nghe của tôi có tín hiệu.

– Chú ý, đội A, – Ana nói vọng qua tai nghe, – điểm danh toàn bộ.

– Kuzo, có mặt. – Đó là giọng của Michael.

Tất cả chúng tôi cùng nói “có mặt”. Chiếc thuyền cập bờ gần một gốc câygumbo – limbo hình thù lạ mắt. Hai bóng người lọ mọ lần xuống bờ sông đón chúng tôi. Một người dùng cành cây néo hở mũi thuyền và chỉ cho chúng tôi những chỗ rễ cây có thể bước lên mà không sa xuống bùn. Chúng tôi chuệch choạc đi lên phía đường mòn và chỉnh đốn lại hàng ngũ. Đám người của ES dường như đang quan sát chúng tôi với thái độ khinh bỉ kiểu “các vị mới vào nghề đấy à?”. Nhưng có thể là tôi tưởng tượng ra thế thôi. Chúng tôi gật đầu với nhau. Vergara chỉ dẫn lại đường đi – có vẻ như nó chạy men theo con sông – và ra đấu “chúng ta sẽ hành quân hai tiếng hoặc không đến” bằng ngôn ngữ của người câm điếc. Chúng tôi đi theo.

Đoàn chúng tôi đi bộ hai dặm, qua những đám ngô già và bụi cỏ ba lá. Vài chiếc máy bay, phản lực bay xuống phía nam, kêu xành xạch ngay trên đầu chúng tôi và làm mặt nước gợn lên trong chốc lát. Không phải tìm mày đâu, – tôi tự trấn an. Có khi bây giờ người ta không quan sát từ trên máy bay nữa. Thời buổi này người ta dùng vệ tinh, hoặc máy baykhông người lái mà khó lòng ai có thể nghe hay nhìn thấy. Về phía Guatemala, họ vẫn dùng các thiết bị định vị trên mặt đất hoặc thiết bị cảm ứng nhiệt, nhưng vì có quá nhiều lợn, hươu nai và những thứ đại loại như thế quanh đây nên chúng hầu như vô dụng, trừ khi có cả một đội quân chạy ào qua cùng một lúc. Một luồng gió đông thổi tới, đem theo mùi của những con ngựa. Tôi nhớ lại hồi còn bé, đi cùng anh trai trong một đêm giống như thế này, tôi đã rất sợ những con ma róc thịt – tức là những bộ xương đắp thịt vào để đội lốt người vào ban ngày – sẽ chui ra từ luống ngô và lừ lừ hiện ra sau lưng tôi.

Chúng tôi leo qua một bờ rào nữa và nhảy từ một bờ đất xuống Đường 13. Tôi ngửi thấy mùi đường mới được quét nhựa lại, Vergara bắt chúng tôi xếp hàng, đứng im và chờ hai phút. Cô ta đi men theo lề đường về hướng bắc và vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Chúng tôi bám theo. Mặt trăng đã xuống thấp hơn ngọn cây, nhưng vẫn đủ sáng để thấy lờ mờ. Một chiếc xe tải chỉ bật đèn phanh chạy lại gần chúng tôi, quét loạt xoạt vào tán thấp của các cây thông. Đó là một chiếc Ford Bronco sẫm màu kiểu cổ từ những năm 1980, phương tiện đi lại ưa thích của những người lang thang nay đây mai đó để làm công cho các trang trại khắp châu Mỹ La Tinh. Chiếc xe có một ca bin gỗ thô sơ gắn phía sau, sơn logo của nhãn hiệu nước ngọt Squirt. Chúng tôi dẹp sang một bên. Nó chạy vượt qua và đỗ lại cách chúng tôi mười yard. Người lái xe ngồi lại trong khoang lái. Một nhân viên ES bước xuống từ bên cửa khách và một người nữa trèo xuống từ phía sau. Khi chân người thứ hai chạm đất, tôi nhận ngay ra dáng dấp của Không Đời Nào, có lẽ do tư thế hoặc chuyển động của cậu ta có điều gì đó tinh tế hơn. Tôi gần như chạy bổ về phía cậu bạn. Cậu ta đã già đi theo cái cách mà người ta trông già hơn mà không có bất cứ thay đổi rõ rệt nào khiến người khác có thể nhận ra, có lẽ chỉ là một chút nặng nề hơn, hay chậm chạp hơn, ví như một bức tượng được nặn lại y chang, chỉ có điều từ một chất liệu khác. Hay có lẽ sự già đi ấy chỉ nằm ở một biểu hiện mà người ta thường không làm được khi còn trẻ. Dù sao, cảm giác cũng thật lạ thường, hay đúng ra là xốn xang, khi được gặp lại cậu ta, nhất là tại đây. Tôi bắt đầu thấy cơn nghèn nghẹn trào lên, giống như khi anh muốn bật khóc nhưng lại thấy là không phải lúc.

– ¿Quétal, vos? (Cậu khỏe chứ ? – tiếng Tây Ban Nha) – Cậu ta hỏi và đãi tôi một abrazo. Tức là một cái ôm thật chặt rất rắn rỏi.

– ¡Cabron! (Như vâm) – tôi đáp. – ¿Qué onda, mano! (Còn cậu dạo này thế nào, anh bạn?)

– Sano como un pimpollo, – cậu ta đáp. Nó có nghĩa là: “khỏe như mầm mới mọc ấy”. Hai chúng tôi bắt tay theo kiểu trong hội Enero 3L. – ¿Y que onda, al fin compraste esa Barracuda ? (Cậu làm ăn thế nào rồi? Mua được con xe Barracuda ấy rồi chứ?)

– Tengo dos. Podemos competir. (Hai chiếc. Mình có thể thử đua được đấy.)

– Nhày, nhói nhiều quá, – tiếng Ana vọng qua tai nghe. Im lặng một lát. – Nhói những nhì cần thiết thôi.

Thoạt tiên, tôi cứ ngỡ cô ta nói dớt theo lối người vùng Castile (Một vùng thuộc Tây Ban Nha), nhưng sau tôi đoán ra là cô ta tránh dùng các âm xát và nổ để tiếng khỏi vang xa. Tôi giơ ngón tay ra hiệu cho Không Đời Nào chờ một lát và trả lời, cố tỏ ý là tôi đang nói với cái tai nghe chứ không phải với cậu ta:

– Lin lỗi, hiểu lồi, Keelorenz.

Đừng để tôi hoang tưởng theo bà – tôi nghĩ. Voy aca loca. (Mình đến phát điên lên mất.)

Ana ngồi lên ghế trước. Những người còn lại ngồi chen chúc phía sau. Nó được trải một lô bao tải nhựa rỗng, trước dùng để đựng ngô. Tôi khẽ giới thiệu Không Đời Nào với mọi người. Tất cả đều nói “xin chào” nhưng không ai tỏ ý muốn hỏi han gì thêm.

– ¿Pues, vos, – tôi thì thầm vào tai Không Đời Nào, – ¿Qué piensas de este ?(Này cậu, cậu nghĩ thế nào vể việc này?)

– Me da pena, vos, – cậu ta đáp, – ¿Confías en estos cerotes ? (Tớ cũng không biết thế nào, cậu ạ. Ta cứ tin những người này thôi.)

– Tớ không biết nữa, – tôi đáp, – cậu tin tưởng ai không?

– Confio en que dios se cague en mí. (Tớ tin là giời sẽ chơi tớ một vố)

– Es verdad. (Đức tin thế đấy)

– Esa Ana, en tos noventa trabojó para los embotelladoreS. (Anna ấy, hồi những năm 90, cô ta làm việc cho những cái chai đấy?)

Cậu ta nói “cái chai” là ý ám chỉ các công ty sản xuất đồ uống không cồn, cũng tức là ám chỉ COLA, cái tên lóng mà những người tham gia Đoàn thể kháng chiến Guatemala đặt cho Giám đốc phụ trách khu vực Mỹ La tinh của Bộ Ngoại giao Mỹ, và trước đó là đặt cho các nhân vật đứng sau các hoạt độngmafia tại châu Mỹ La tinh như Bill Casey, John Hull hay Oliver North.

– Cậu này, – tôi nói, – tớ không muốn ở đây mà không có cậu, nhưng cậu thực sự nên rút khỏi vụ này nếu thấy có gì không ổn.

Nhưng cậu ta nói không, và rằng vì tôi tin tưởng vào việc này nên cậu ta cũng sẽ ở bên tôi. Tôi nhắc cho cậu ta nhớ là họ trả tôi rất nhiều tiền. Cậu ta nói cậu ta hiểu chuyện đó. Tôi kể cho cậu ta chuyện về National Geographic. Cậu ta nói chuyện đó có thể thông cảm được.

– Dù sao cũng thật tốt khi gặp cậu, – tôi nói, – cảm ơn.

Tôi thấy thoải mái hơn một chút. Có cậu bạn này ở bên cạnh, sự hoang tưởng của tôi cũng giảm bớt ít nhiều. Vấn đề là tôi chưa biết ai trong đám người này đủ lâu, trừ Taro, dĩ nhiên, và tôi vẫn chưa hoàn toàn chắc chắn mình đang dẫn thân vào chuyện gì, và tôi thực sự cần một người đứng về phía tôi, một người không hề dính dáng gì tới Warren.

– Có gì đâu. – Không Đời Nào đáp. Cậu ta vươn tay lên chạm trần ca bin và đẩy đẩy như muốn thử xem nó chắc đến mức nào. Tôi hỏi thăm tình hình ở Đoàn thể kháng chiến nhân dân. Cậu ta trả lời rằng không ai thấy tăm hơi gì của chú Xac và mọi người đều đoán ông ta đã chết.

– Năm ngoái tớ có gặp Sylvana, – cậu ta kể, – ở Tenosique.

– Ồ, thế à. Cô ấy thế nào.

– Casada. (Lấy chồng rồi.)

– ¿No con el pisado del ONU? (Không phải cái thằng đần làm việc cho Liên hợp quốc ấy chứ?) – tôi hỏi.

– Đúng là Simon đấy.

– Mierda. (Mẹ kiếp)

– Me das látstima, mano… (Tôi rất tiếc, anh bạn ạ…)

– Tớ không được suy nghĩ về chuyện ấy, – tôi nói, – “Si comienzo a pensar de él, me hago lata” (Nghĩa là “Nếu cứ nghĩ về chuyện ấy, tớ sẽ đau lòng”. Nhưng tôi nghĩ câu thành ngữ ấy không diễn đạt được hết ý khi chuyển sang tiếng Anh).

Tôi quay sang hỏi về các dự định của cậu ta, nhưng cậu ta chỉ tay lên trần nhà, ra ý: “chúng mình nói chuyện ấy sau”. Tôi nghĩ cậu ấy đúng, vì chúng tôi đều biết đám người kia có mi-crô cực nhỏ có thế có thể dấu trong phân chuột.

– Pues, vos, me voy a dormir, (Tớ chợp mắt một tí đây) – cậu ta nói và lập tức ngáy khò khò. Cậu ta có cái thói quen của dân lính tráng là có thể lăn ra ngủ ở bất cứ đâu, chỉ sau vài giây. Đối với cậu ta, một chỗ trải tấm lót trên một chiếc xe có điều hòa nhiệt độ cũng như phòng hạng sang ở khách sạn Crillon rồi. Tôi nhìn sang Marena nhưng không thấy được gì nhiều. Tôi thổi căng vừa phảimột cái gối ni-lông và dựa vào nó. Tôi cứ phân vân suy tính mãi không biết có nên cuộn mình lăn về phía cô ta hay không, hay là giả vờ ngủ gật, ngả người vào vai cô ta, hay chỉ hỏi cô ta xem làm thế có được không. Không, đừng làm gì hết. Có lẽ cô ta sẽ làm gì đó.

Nhưng cô ta chẳng làm gì cả.

Chúng tôi đi chậm lại. Một biển hiệu xuất hiện, được soi sáng bởi vỏn vẹn một bóng đêm. Nó ghi DOANH TRạI QUÂN Đội ALTA VERAPAZ, và vẽ hình một lính biệt kích nhìn như con thỏ, một hình khiên với đầu lâu xương chéo phía trên dòng chữ TRạM GáC DANH Dự. Chiếc xe rẽ trái ngay trước biển hiệu đó, chạy vào một con đường rải sỏi, rẽ ngoặt tiếp 130 độ theo hướng màu vàng – hướng tây bắc – hướng của quá khứ gần


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.